Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 50
Tổng truy cập: 1371399
HẠT GIỐNG VÂNG PHỤC
Cuộc sống quanh ta chuyện sinh nở là chuyện của tự nhiên, của quy luật cuộc sống.
Như hạt lúa rơi vào trong lòng đất không thối đi thì làm sao nó sinh mầm và sinh cây khác để cho ta được lúa để ăn?
Và rồi, trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng chỉ dùng những hình ảnh hết sức gần gụi, hết sức bình dị như thế để nói về Nước Trời, để nói về kho tàng trên trời… và để nói về chính mình. Có khi Chúa Giêsu ví mình như con chiên hiền lành bị mang đi làm thịt nhưng có khi Chúa Giêsu ví mình như hạt lúa như trang Tin Mừng hôm nay.
Hết sức giản đơn, Chúa nói: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt”.
Nói như thế vẫn sợ các môn đệ không hiểu để rồi Ngài lại giải thích thêm: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha”. Lúc đó có tiếng từ trời phán: “Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa”. Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: “Một thiên thần nói với Ngài”. Chúa Giêsu đáp: “Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”.
Chúa Giêsu không còn úp mở gì nữa. Nói như thế nghĩa là Chúa cho biết rằng Chúa phải chết cách nào.
Cả cuộc đời Chúa Giêsu và nhất là cái chết của Chúa Giêsu đó chính là cuộc đời và cái chết của sự vâng phục.
Trong thư Do Thái, chúng ta vừa nghe: Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.
Trong thư Philip, Thánh Phaolô đã nói rõ:
Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự. (Pl 2,6-8)
Vâng phục chính là đặc tính, là căn cốt của cuộc đời Chúa Giêsu. Hạt lúa mục nát nơi đời Chúa Giêsu đã vào trần gian sống cả cuộc đời bằng đời sống vâng phục.
Ta, là những người đi theo Chúa, ta cũng được mời gọi sống như hạt lúa mì đàn anh, hạt lúa mì anh Trưởng, anh Cả của ta đó chính là Chúa Giêsu.
Thật sự mà nói, thử thách nhất đời con người đó chính là sự vâng phục, vâng lời Thiên Chúa.
Nhìn suốt chiều dài lịch sử cứu độ, thấp thoáng đâu đó cho ta hình ảnh, cách sống vâng phục Thánh ý Thiên Chúa trên đời mình. Các vị chứng nhân anh dũng đã sống đời vâng phục trong mỗi cảnh sống của mỗi người.
Thấp thoáng ta vẫn thấy hình ảnh của Abraham. Abraham đã trọn đời vâng lời Thiên Chúa để lên đường mà đi và chẳng biết mình đi đâu cả. Cứ đi và cứ đi theo lời của Thiên Chúa. Và bi đát, đỉnh điểm nhất đời ông đó chính là việc sát tế đứa con đầu lòng và là đứa con duy nhất của đời ông. Dẫu thử thách đến tột cùng như thế nhưng ta thấy Abraham đã vâng lời Thiên Chúa để sát tế đứa con yêu của mình.
Ta vẫn thấy hình ảnh của một Têrêsa Hài Đồng Giêsu ở bên đời. Sống trong 4 bức tường của đan viện đầy dẫy những khó khăn thử thách nhưng Têrêsa vẫn hoàn toàn tin tưởng và phó thác đời mình trong lòng bàn tay của Chúa.
Hay gần ta, ta thấy một hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngài đã sống trong thân phận tù đày và đặc biệt là biệt giam nhưng Ngài đã không hề một tiếng kêu ca phàn nàn ai oán. Sống như thế, Ngài không những đã rèn luyện mình nhưng Ngài đã làm cho những người cai ngục cảm nhận được một Thiên Chúa vâng phục trên đời của Ngài.
Thật sự không phải dễ sống đời vâng phục chịu đựng như thế bởi lẽ ta cũng là con người. Là con người. ai ai cũng mang trong mình yếu đuối của phận người để rồi ta muống chứng tỏ mình với người khác. Ta muốn chứng minh rằng ta tự do, ta có quyền trên người khác và rồi ta muốn làm gì thì làm và không cần biết cũng như chẳng cần vâng phục ai cả. Đó cũng chỉ là cái lý của ta nhưng ta vẫn còn đó một Đấng để ta vâng phục đó chính là Thiên Chúa.
Bình gốm làm sao qua khỏi bàn tay của thợ gốm đó chính là Thiên Chúa. Cuộc đời của ta từng phút từng giây ở trong lòng bàn tay của Chúa nhưng đôi khi ta bé cái lầm, ta tưởng rằng ta định đoạt được cuộc đời của ta. Thế nhưng, thật sự trong sâu lắng của cuộc đời, chỉ cần một cơn gió thoảng, dù làn gió biến đi cũng không còn mang vết tích. Thân phận mong manh mỏng dòn của đời ta là thế đó nhưng mấy ai chân nhận ra sự mong manh mỏng dòn của đời ta.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã gợi lên cho ta thân phận của Ngài. Dù Ngài là Thiên Chúa đó nhưng Ngài đã sống vâng phục và vâng phục cho đến bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá.
Đời của ta một ngày nào đó cũng trở về với lòng đất mẹ. Thế nhưng, chuyện quan trọng là ta có phải là hạt giống biết vâng phục thánh ý của Thiên Chúa như Chúa Giêsu hay ta tự cao tự đại.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta biết học thế nào là bài học vâng phục mà chính Chúa Giêsu đã học và đã sống. Có như thế, khi ta nằm xuống ta mới sinh được hoa quả của cuộc đời vâng phục.
2. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Để chuẩn bị tinh thần cho các Môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Nhưng đi liền với lời tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết thì Ngài cũng cho biết “ngày thứ ba” Ngài sẽ sống lại. Như thế, đau khổ và sự chết như là điều kiện tất yếu để Ngài bước vào ngày phục sinh.
Chính vì vậy, qua bài Tin mừng hôm nay, sau khi nhắc tới nguyên lý của hạt lúa mỳ phải mục nát đi thì mới sinh bông hạt, Đức Giêsu khẳng định: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.” (Ga 12,25).
Thoạt nghe, nhiều người cho rằng lời khẳng định của Đức Giêsu có vẻ rất nghịch lý với cuộc sống. Bởi vì, bình thường không ai ghét mạng sống mình bao giờ, nhưng trái lại họ yêu và rất yêu mạng sống của mình. Họ chăm sóc mạng sống ấy bằng nhiều cách thế khác nhau: ăn uống, ăn mặc, trang điểm, đi khám bác sĩ và nhiều hình thức khác nữa. Thực ra, biết yêu mạng sống mình, chăm sóc cho bản thân không phải là điều xấu. Nếu làm đúng cách thì đó lại còn là một thái độ rất tốt. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở thái độ yêu mạng sống mình, chăm sóc cho bản thân mình mà quên mất tình thân, quên mất tình người, quên mất những bổn phận khác thì sẽ trở thành người xấu. Khi Đức Giêsu nói “ai yêu sự sống mình thì sẽ mất” ám chỉ những người chỉ lo cho mình mà không màng chi đến người khác. Những người chỉ muốn nhận mà không biết cho. Họ là những người ích kỷ giống như chiếc ao tù đọng không có sự sống.
Hơn nữa, lời dạy của Đức Giêsu còn muốn chúng ta đi xa hơn. Ngài muốn nói tới sự sống linh hồn của chúng ta. Để được sống phần linh hồn, mỗi người chúng ta cần phải chết đi cho tội, chết đi tính ích kỷ. Để có sự sống phần linh hồn có khi chúng ta cũng phải chấp nhận chết đi sự sống phần xác vì phải hiến thân, phải quên mình, đúng như lời khẳng định của Thánh Phanxicô Assisi trong lời kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. “Vì thế, giáo huấn của Đức Giêsu không nghịch lý nhưng là một chân lý. Chân lý này đã được chính Ngài thực hiện một cách trọn vẹn trong cuộc sống. Chính Ngài là Con Thiên Chúa nhưng đã chấp nhận mục nát đi để sinh ơn cứu độ cho nhân loại chúng ta. Thánh Phaolô cho biết: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2,6-9).
Thật vậy, vì vâng lời Chúa Cha và để cứu độ nhân loại, Ngài đã chấp nhận sống mầu nhiệm tự hủy nơi bản thân mình từ khi nhập thể cho đến khi chịu chết trên thập giá để được sống lại vinh quang. Ngài sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, làm con nuôi của Thánh cả Giuse, sống 30 năm với nghề thợ mộc tại làng Nazaréth như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm ra đi rao giảng Tin mừng: Ngài rao giảng và làm phép lạ để cứu giúp nhiều người. Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Cao điểm của sự phục vụ ấy là việc Ngài rửa chân cho các môn đệ vào tối trước ngày Thứ năm tuần thánh. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn chịu chết để cứu độ nhân loại. Như vậy, Đức Giêsu là hạt lúa mỳ chịu mục nát đi để đem lại sự sống cho nhân loại chúng ta. Ngài đã hy sinh mạng sống của mình để cho nhân loại được sống.
Noi gương Đức Giêsu, có rất nhiều vị thánh cũng đã chấp nhận hy sinh, chấp nhận làm hạt lúa mỳ mục nát đi để người khác được sống. Đó là sự hy sinh của Thánh Maximilianô Kolbê đã chấp nhận chết thay cho người tử tù được sống. Đó là sự hy sinh của Mẹ Têrêxa Caculta và các nữ tu thuộc dòng của mẹ, suốt cuộc đời vì những người nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề xã hội tại các khu ổ chuột. Đó là sự hy sinh của các Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ đã dâng hiến đời mình vì hạnh phúc và phần rỗi của tha nhân. Đó là sự hy sinh của những người vợ người chồng vì hạnh phúc của người bạn đời. Đó là sự hy sinh tận tụy của những người cha người mẹ vì niềm vui và hạnh phúc của con cái. Đó là sự hy sinh cho nhau của anh chị em ruột thịt trong gia đình. Và còn biết bao tấm gương hy sinh khác trong đạo ngoài đời mà chúng ta không thể kể hết ra đây. Nếu tìm kiếm trên mạng, chúng ta sẽ đọc được những câu chuyện rất cảm động về sự hy sinh đó. Chẳng hạn: Cha lấy thân làm “bao cát” để kiếm tiền cứu con; Đôi vợ chồng già ăn xin kiếm tiền nuôi con ăn học; Đóng giả làm đàn ông suốt 43 năm để dễ kiếm việc làm, nuôi con khôn lớn; Mẹ già bán cầu từ tinh mơ để kiếm tiền nuôi con; Người mẹ làm đôi chân cõng con đi học mỗi ngày; Mẹ 90 tuổi chăm con bại não suốt 50 năm…Và câu chuyện sau đây cũng phần nào cho chúng ta thấy sự hy sinh cao cả của một cậu bé 8 tuổi.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và thường đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị một cơn đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần được mau chóng tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn máu cùng nhóm để truyền. Rất may là máu của cậu bé cùng nhóm máu với cô em. Khi được hỏi có muốn cho máu để cứu sống em gái không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã lấy lại bình tĩnh và trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm. “Sau đó bác sĩ đã lấy máu của cậu truyền cho cô em. Một lúc sau tỉnh dậy, cậu bé đã làm cho mọi người trong phòng ngạc nhiên và buồn cười khi nói: “Ô hay! Con chưa bị chết hay sao? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?” Thì ra cậu bé đã tưởng lầm rằng khi bằng lòng hiến máu cho em, là cậu phải cho em tất cả số máu trong con người mình! Nhưng vì quá thương em và không muốn cho em bị chết, nên sau khi ngần ngại một chút, cậu đã quyết định hy sinh chịu chết để cho em gái mình được sống! (Sưu Tầm)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hy sinh để cứu độ chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa. Ngoài Chúa ra, còn biết bao nhiêu người khác cũng đã hy sinh vì chúng con, xin Chúa trả công bội hậu cho các vị ân nhân đó. Xin cho mỗi chúng con cũng biết chấp nhận hy sinh để đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
3. Nếu hạt lúa chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Vào dịp lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Đền thờ mừng lễ. Dân chúng rước Ngài long trọng và tung hô Ngài là Đấng Mêsia. Có mấy người Hy Lạp tòng giáo cũng đi dự lễ, họ ngỏ ý muốn gặp Ngài. Họ nói với Philipphê. Ông này bối rối không biết nghĩ sao, đến nói với Anrê. Cả hai cùng đến với Chúa và trình bày cho Ngài biết ý định của mấy người Hy Lạp.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp, nhưng nói lên những lời mang nhiều ẩn ý. Vừa như độc thoại vừa nói với các môn đệ: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. “Đến giờ” là giờ nào?
Trong Tin Mừng Gioan từ giờ được nói đi nói lại nhiều lần. Từ này chỉ có nghĩa chung chung, là lúc chương trình của Chúa Cha được thực hiện. Chúa Giêsu không bao giờ làm gì theo ý Ngài, chính Ngài cũng đã xác nhận như thế. Ngài đến trong trần gian là thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha vì “ý Cha là muốn cứu rỗi mọi người”. Giờ của Ngài chính là giai đoạn mà Chúa Cha đã ấn định. Chỉ một lần, Ngài đi trước ý Cha khi Ngài chấp nhận theo yêu cầu của Mẹ Ngài trong tiệc cưới Cana. Vâng lời Mẹ cũng như vâng lời Cha, vì Mẹ cũng có quyền.
Nhiều lần người Do Thái muốn bắt Ngài, nhưng vẫn không thể được vì “giờ Ngài chưa đến”. Giờ của Ngài cũng là lúc chấp nhận chịu treo trên thập giá và cũng là lúc phục sinh vinh hiển.
Trong giây phút này, lúc những người Hy Lạp đến xin gặp Ngài, Chúa lại tuyên bố: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Có liên hệ gì với những người Hy Lạp này?
Được tôn vinh có nghĩa là được những dân tộc khác biết đến. Tôn vinh không thể hiểu theo nghĩa trần thế mà theo viễn tượng của Thiên Chúa. Những người ngoại được hưởng ơn cứu độ như người Do Thái. Họ đang khao khát và họ được no đầy. Họ muốn gặp Ngài và gặp Ngài là gặp Đấng cứu độ. Tôn vinh chính là hồng ân cứu độ được lan tràn cho mọi người, kể cả những người ở xa.
Nhưng Chúa Giêsu đi xa hơn khi nói đến hạt lúa mì chết đi để sinh bông hạt. Ngài chính là hạt lúa mì được gieo vào luống cày đẫm máu của nhân loại. Tôn vinh chính là chết đi để sống lại, để sinh nhiều bông hạt. Tôn vinh chính là chấp nhận theo ý Cha đến tận cùng, là tình yêu đã nên trọn vẹn. Ngài chấp nhận chết đi cho mọi người, đó là cách Ngài tôn vinh Cha Ngài, là cho mọi người biết Chúa Cha đã yêu thương trần gian như thế nào.
Và đây chính là định luật của tình yêu. Mọi người đều được mời gọi đi vào tình yêu hiến dâng đó: “Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được nó cho sự sống đời đời”. Chúng ta xem sự chết như một mất mát lớn, vì chúng ta bám vào sự sống như một sở hữu vô giá. Chúa Giêsu ngược lại, Ngài xem cái chết như một hiến tế, như một cử chỉ yêu thương tột đỉnh. Còn chúng ta lại ngại nói đến cái chết, chúng ta sợ chết. Chúa Giêsu không coi trần gian này như một tài nguyên quí giá mà là dụng cụ của tình yêu. Ngài xem mình như hạt lúa thôi, được gieo vào trần gian, lệ thuộc vào trần gian, vào những mùa màng của nhân loại, của các nền văn minh và chờ ngày lúa chín. Ngài chấp nhận những mùa đông của lịch sử và đợi mùa xuân để phục sinh.
Ngài mời gọi chúng ta đi vào lối bước của Ngài: “Ai phục vụ Thầy, hãy theo Thầy”. Theo Thầy, mục nát với Thầy để cùng Thầy mang lại hoa trái.
Ngài chấp nhận tất cả và biết rõ tất cả. Nhưng làm sao khỏi xao xuyến khi Ngài mang lấy xác thịt như chúng ta: “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Một lời thật não nuột! Tiếng kêu thương của một con người yếu đuối đứng trước gánh nặng của vâng phục, nhưng đầy yêu: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”. Tiếng than thở như một lời cầu cứu. Một ngày nào đây, Ngài cũng nói lại như thế: “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này”. Nhưng sau cùng vẫn là vâng phục: “Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. ““Nhưng không theo ý con mà theo ý Cha”. Tất cả tình yêu của Chúa Con được chứa đựng trong một vài câu ngắn ngủi này. Và hơn nữa: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Tôn vinh Danh Cha bằng sự vâng phục trọn vẹn của con. Tôn vinh Danh Cha bằng cách chịu giương cao lên khỏi mặt đất. Vì lúc ấy, con sẽ kéo mọi người lên với con”. Đó là ý muốn của Cha. Đó là tình yêu của Cha đối với trần gian, đã ban người Con Một.
Trong giờ phút ấy, cái chết ô nhục đã hiện rõ trong tâm trí của Ngài. Mọi sự đã được quyết định và sự vâng phục đã trở nên như một dấu hiệu tình yêu không phai tàn. Chính trong cái chết ô nhục mà “thủ lãnh thế gian này bị tống ra ngoài”. Đây chính là cuộc chiến thắng vẻ vang làm vinh danh Chúa Cha. Chính Cha đã xác nhận bằng một tiếng nói bởi trời: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” Thập giá ô nhục kia trở thành vinh quang vì sự vâng phục đầy yêu thương của Chúa Con.
Chúng ta cũng phải đi vào con đường thập giá mới chiến thắng sự dữ và tội lỗi. Thập giá mới là vũ khí hữu hiệu nhất để diệt trừ thủ lãnh thế gian. Tự nhiên chúng ta không thể dễ dàng chấp nhận thập giá. Chúng ta bám ghì vào thế gian, vào cuộc sống nhàn hạ dễ dàng. Chúng ta muốn hưởng thụ hơn là hy sinh.
Chúng ta có muốn gặp Chúa như những người Hy Lạp kia không? Hay chúng ta lại tránh né, sợ Ngài đòi hỏi chúng ta hy sinh? Hay chúng ta đã quá quen với Ngài rồi, Ngài không còn hấp dẫn nữa? Thế gian với những sự sung sướng của nó hấp dẫn hơn?
Chúng ta đã tin Ngài rồi, đã được gần gũi với Ngài nhiều rồi, cây thập giá của Ngài không còn gây sự chú ý nữa. Mấy người đã nhìn đó như dấu hiệu tình yêu tuyệt hảo, tình yêu dám liều mạng vì bạn hữu? Mấy người dám tôn vinh Ngài như Ngài đã tôn vinh Chúa Cha bằng chính sự vâng phục tuyệt đối của Ngài?
Chúng ta sắp bước vào Tuần thánh là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu mà cũng là cực kỳ quan trọng đối với chúng ta là những người đã nhìn lên Đấng được giương cao, vì nơi Ngài, chúng ta được cứu chuộc, được chữa lành, được trở thành con của Chúa Cha. Hãy nghe tiếng mời gọi của Ngài, hãy theo Ngài đến nơi Ngài chịu giương cao, cùng với Mẹ Maria thông phần vào đau khổ của Ngài để được sống lại với Ngài vinh quang. Chỉ khi nào chúng ta chịu theo Ngài, chúng ta mới được ở với Ngài, vì Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó với Thầy.
Theo Ngài, chúng ta phải mang lấy thân phận hạt lúa mì, thối đi, bị dìm trong lòng đất nhân loại, nhưng cây lúa sẽ mọc lên và sinh nhiều bông hạt. “Anh em đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Dù chúng ta bị chôn vùi nhưng hy vọng vẫn không bao giờ hao hụt vì chúng ta tin vào Đấng là sự sống và là sự sống lại. Ngài được giương cao không phải chỉ là chết mà sống lại vinh hiển. Và chúng ta cùng chết với Ngài sẽ được sống lại với Ngài. Đó là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta, những kẻ tin vào Ngài, phục vụ Ngài và Ngài ở đâu chúng ta cũng sẽ được ở đó với Ngài, trong tình yêu của Cha muôn thuở.
Và khi chúng ta chấp nhận chết với Ngài thì chính Ngài sẽ đến với chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta bằng thịt máu Ngài, để ngay hôm nay, chúng ta đã được ở cùng Ngài trên thiên đàng. Thiên đàng đó chính là Ngài, hôm nay và mãi mãi.
4. Phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu phục vụ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang – Joshepus Quang Nguyễn)
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2015, Đức Thánh Cha Phaxico nói rằng: “Mùa Chay là thời gian thuận tiện chúng ta để cho Chúa Kitô phục vụ mình – nhờ đó chúng ta trở nên giống Ngài hơn, mỗi khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Nơi đó chúng ta trở thành điều mà chúng ta lãnh nhận: trở nên Thân Mình Chúa Kitô. Trong thân mình này, không có chỗ cho thói vô cảm rất thường chiếm lĩnh tâm hồn chúng ta. Vì ai thuộc về Chúa Kitô thì cũng thuộc về một thân mình duy nhất và trong Chúa chúng ta không được dửng dưng đối với nhau. “Vì nếu một chi thể đau, thì mọi chi thể cùng đau; và nếu một chi thể được vinh dự thì mọi chi thể đều được chia sẻ niềm vui ấy” (1 Cr 12,26) (số 1). Vì thế Ngài kêu gọi Giáo Hội, giáo xứ, cộng đoàn và từng cá nhân hãy gạt bó thói vô cảm dững dưng với tha nhân đặc biệt là những người nghèo khổ nhất trong xã hội hôm nay thay vào đó phải sẵn sàng phục vụ, yêu thương và chăm sóc họ vì họ là thân mình Chúa Kitô.
Vì thế, Chúa Giêsu hôm nay nói rõ: Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.” (Ga 12,26). Chúa Giêsu coi việc phục vụ là trung tâm và chóp đỉnh của đời sống với Thiên Chúa và tha nhân. Qủa thế, Chúa Giêsu được Thiên Chúa sai đến để thi hành ý muốn của Thiên Chúa: Mạc khải Thiên Chúa cho nhân loại để ai tin vào Người sẽ được sống đời đời (Ga 3,31-36) và đền bù sự chối từ phục vụ Thiên Chúa của ông bà nguyên tổ chúng ta (St 3,6) qua việc phục vụ rửa chân cho các môn đệ, chịu nạn, chịu chết đau thương trên thập giá (Mt 16,21). Là Kitô hữu, chúng ta trước hết rập theo Chúa Giêsu: chuyên tâm cầu nguyện, phục vụ Lời Thiên Chúa (Cv 6,4), rồi lo việc tế tự và rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16) với “tất cả lòng khiêm nhường dù có gặp nhiều gian nan thử thách” (Cv 20,19). Điều đáng lưu ý rằng chúng ta phục vụ Thiên Chúa như con cái của Ngài, chứ không phải người nô lệ (Gl 4,4-7) vì chúng ta phục vụ trong sự mới mẻ của Thần Khí chứ không phải trong sự cũ kỹ của chữ viết (Rm 7,6), ngõ hầu chúng ta được Chúa Cha chúc phúc và mời đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho chúng ta từ thuở tạo thiên lập địa (Mt 25,34).
Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy nhưng “Người không đến để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người” (Mc 10,45). Cho nên, cả đời Ngài là một chuỗi hành vi phục vụ con người. Ngài phục vụ như một người nô lệ, một tôi tớ: cúi mình xuống thật sâu để mặt mình ngang hàng với chân của học trò và thậm chí kẻ phản bội mình (Ga 13,1-15) để rửa chân.
Còn chúng ta có làm được như thế cho mọi người nhất là những người nghèo, người khuyết tật, bệnh nhân hay tù nhân không, chúng ta có khả năng tươi cười, tha thứ yêu thương hay phục vụ họ như bao người khác không? Chắc chắn Chúa Giêsu phải có một trái tim yêu thương cao thượng đến tột độ mới phục vụ chúng ta như thế! Chúa Giêsu lại ban cho chúng ta tình yêu cao quí đó qua việc chúng ta liên kết và hợp nhất với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, cùng hiệp thông với Chúa Thánh Thần. Giờ đây, chúng ta hãy cất bước vào đời thi hành tinh thần phục vụ mọi nơi, mọi lúc và trong từng việc chúng ta làm; phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ân nghĩa không chờ, và phục vụ tất cả vì Chúa Kitô. Vì vậy, trong cuộc sống, nếu chúng ta không yêu thương người ta, không ao ước phục vụ người ta, hãy tự hỏi lòng mình rằng: liệu Chúa Giêsu Kitô có thật sự ở trong tôi không? Và tôi có phải là môn đệ Chúa Kitô không? Cho nên, Chúa Giêsu khẳng định: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Vì vậy, cũng trong sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi: “Mỗi cộng đoàn Kitô hữu được kêu gọi ra khỏi chính mình để dấn thân vào đời sống của xã hội rộng lớn hơn mà mình cũng là thành phần, nhất là với những người nghèo và những người ở xa Giáo hội. Giáo hội tự bản chất là truyền giáo, Giáo hội không co cụm vào mình, nhưng được sai đến với mọi quốc gia và mọi dân tộc” (số 3). Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, trong Mùa Chay này chúng ta hãy cầu xin Chúa: Xin uốn lòng chúng con nên giống Trái Tim Chúa” (Kinh cầu Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu) để có được một con tim mạnh mẽ và biết xót thương, ân cần và quảng đại mà phục vụ anh chị em đang cần chúng ta giúp đỡ để đừng rơi vào cám dỗ của nạn toàn cầu hóa thói vô cảm hôm nay. Amen.
5. Yêu thương là cho đi
Yêu thương là cho đi, là chia sẻ, là dám chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau. Hoa hồng nào mà chẳng có gai, tình yêu nào mà chẳng có những hy sinh gian khổ của nó.
Mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại rằng: Hồi đó, nhằm lúc thiếu đường trong thành phố, thì ngày kia có một cậu bé bốn tuổi, đem đến cho mẹ một chén đường và nói: Thưa mẹ con đã nhịn đường suốt cả một tuần lễ nay, xin mẹ dùng ít đường này cho các trẻ mồ côi của mẹ. Một cử chỉ thật anh hùng biết bao đối với một em bé 4 tuổi. Em đã học biết yêu thương kẻ khác đến mức hy sinh tất cả những gì mình cần thiết. Một dịp khác, đang lúc mẹ đang vo gạo thì có một người đàn ông đến gặp mẹ và nói: Thưa mẹ, gần đây có một gia đình người Hindu gồm tám đứa con, nhưng đã cả tuần lễ nay họ không có gì để ăn. Lập tức mẹ bưng rá gạo đi theo người đàn ông đó đến nhà người Hindu kia. Bước vào túp lều xiêu vẹo, mẹ đã gặp được trên những nét mặt xanh xao đó cơn đói đang hành hạ. Không cầm lòng được, mẹ đã đưa cả rá gạo cho người đàn bà. Bà này cảm động cầm lấy rá gạo rồi lập tức chia làm hai phần, bưng nửa ra đi, lát sau mới trở lại. Mẹ thấy vậy bèn ngạc nhiên hỏi: Bà đi đâu vậy và đem gạo cho ai? Không chút do dự người đàn bà trả lời: Họ cũng đói lắm. Nhưng họ là ai? Là những gia đình Hồi giáo, cũng có những người con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường và cả tuần lễ nay họ cũng chẳng có gì để ăn.
Từ những câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy, yêu thương chính là cho đi, chính là chia sẻ. Không phải những gì mình dư thừa, nhưng cả những gì cần thiết cho đời sống của mình. Sức mạnh của tình yêu chính là khả năng chấp nhận những hy sinh gian khổ cho người khác được hạnh phúc. Trong chiều hướng này, chúng ta nhận thấy tình yêu Thiên Chúa thực lớn lao biết bao, bởi chưng, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người chịu đựng mọi vất vả túng thiếu và sau cùng chịu chết một cách ô nhục trên thập giá, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu: Ta đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Và rồi Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
6. Giờ của Chúa
Từ đầu mùa Chay cho đến giờ, chúng ta đã chuẩn bị tham dự vào biến cố quan trọng nhất của lịch sử nhân loại. Hôm nay chúng ta nghe Chúa Giêsu loan báo về những gì sắp xảy đến, nhưng thay vì mở ra một cảnh tượng hùng vĩ thì Ngài lại tỏ lộ chính những tâm tình thầm kín nhất của Ngài.
Thực vậy sau khi Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào thành Giêrusalem, thì có mấy người Hy Lạp đến tìm Philipphê và nhờ ông giới thiệu mình với Chúa Giêsu. Lúc đầu có lẽ Philipphê cảm thấy hơi ngại ngùng, nhưng sau đó cũng đã dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Lạ thay, Ngài không tỏ ra chấp nhận hay từ chối họ, nhưng lại mạc khải cho họ một điều khác. Và chính trong sự mạc khải này, Ngài đã cho biết những tâm tình thầm kín của Ngài. Ngài nói: Đã đến giờ Con Người được vinh quang.
Giờ mà Ngài đã tiên báo lần đầu tiên, khi xuất hiện trước quần chúng tại tiệc cưới Cana. Giờ mà Ngài vẫn mong chờ trong suốt ba năm giảng dạy. Chính vì thế, bây giờ không còn phải là lúc tiếp nhận hay từ chối những người Hy Lạp, nhưng là lúc phải hoàn thành sứ mạng cao cả và phổ quát của Ngài.
Tuy là giờ vinh quang, là giờ Ngài hằng mong đợi, nhưng điều lạ là Chúa Giêsu nói tới giờ đó không phải với một giọng điệu nao nức, nhưng trái lại, hình như đượm vẻ lo âu. Ngài biết rõ con đường nào mình sẽ phải đi qua đến tiến tới vinh quang. Như hạt lúa phải mục nát đi, thì mới trổ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình, thì sẽ được sống đời đời. Qua đó, Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Điều kiện để tiến tới vinh quang là phải chấp nhận thập giá.
Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy, thập giá không phải là một cái gì thơ mộng, ngọt ngào, nhưng là một cái gì cay đắng ê chề. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng hoang mang và run sợ, nên Ngài đã lên tiếng cầu nguyện: Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con. Đồng thời Ngài còn thêm: Nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Nơi khác Ngài cũng đã thốt lên: Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng cũng chính vì giờ này mà Con đã đến.
Đó là một sự chấp nhận thật can đảm. Lời cầu nguyện của Ngài vừa là một tiếng xin vâng, vừa là một tâm tình phó thác cho Chúa Cha, Đấng sẽ biến cái chết của Ngài thành sự phục sinh vinh quang. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết bước vào con đường mà Chúa đã đi qua hay không? Bởi vì có trải qua đau khồ thập giá thì chúng ta mới tiến đến vinh quang phục sinh.
7. Giờ Chúa đến.
Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở kịch, trong đó cái chết sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ phút trọng đại ấy đến gần.
Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.
Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.
Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới khóc và không dám nói tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình. Không nói hay ít nói về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.
Đức Kitô mong muốn không phải là được chết nhưng là thực hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng chính là vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà Ngài nhắm tới. Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái chết của Ngài và làm cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau khi cùng hướng nhìn về cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy yêu thương và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi người đều được hiểu biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh phúc của gia đình những người con cái Chúa.
8. Bài học vâng phục – Anmai, CSsR
Mỗi một con người, đều mang trong mình một suy nghĩ riêng, một cái nhìn riêng, một lập trường riêng để nói lên sự cá biệt hay nói đúng hơn là sự khác biệt của con người. Mỗi một con người có một nhân vị. Mỗi một con người là cả một thế giới riêng biệt. Và vì vậy, đó mới là điểm lý thú của con người. Nếu ai cũng như ai thì thế giới này thật là buồn tẻ, thật là nhàm chán vì khi ấy chẳng còn gì để mà bàn nữa. Thế nhưng, từ cái cá tính, cá vị của con người đã gây nên không biết bao nhiêu xáo trộn trong cuộc đời này.
Nhìn vào đời sống thường nhật chúng ta thấy rõ điều này. Hai vợ chồng trẻ mới cưới, vì còn nồng nàn cái thuở ban đầu, cái ngày đầu của đời sống hôn nhân nên tràn đầy hạnnh phúc. Khi ấy, anh nói em nghe, em nói anh nghe nhưng rồi một thời gian qua đi khi đời sống hôn nhân có thời gian, có bề dày một chút thì cái kiểu mà anh nói em nghe em nói anh nghe không còn nữa và rồi nó gây ra xáo trộn trong gia đình. Khi ấy chồng không phục tùng vợ nữa và vợ cũng chẳng còn phục tùng chồng nữa. Nếu nhường nhịn nhau thì gia đình sẽ ấm êm còn nếu không nhường nhịn nhau thì sẽ đổ vỡ, sẽ chia ly. Nếu ai nào sống trong cái bầu khí bất phục tùng sẽ cảm thấy cực kỳ nhàm chán vì lẽ nó bất an làm sao đó. Khi đó, muốn giải quyết mọi xung đột, muốn mang bình an lại trong gia đình thì vợ và chồng phải nghe nhau, phải nhường nhịn nhau, phải tuân phục nhau.
Khi có con cũng thế, nếu như đứa con trong gia đình dễ dạy, dễ nghe, dễ vâng phục thì gia đình rất bình an và hạnh phúc. Nếu gia đình nào có đứa con ngỗ nghịch hay cãi lại cha mẹ thì ắt hẳn gia đình đó bất an. Ông bà ta vẫn thường nói “Cá không ăn muối cá ươn – con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư!” để diễn tả lối hành xử giữa cha và con qua hình ảnh của con cá. Điều chắc chắn và ai ai cũng biết đó là con cá, nếu không ướp muối, để ngoài gió lát sau nó sẽ ươn, nó sẽ tanh và hôi vô cùng. Với con cái cũng vậy, khi chúng cưỡng lại lời dạy dỗ của cha mẹ thì chắc chắn nó sẽ dẫn đến con đường của hư vong thôi.
Rộng hơn một chút, trong một gia đình, trong một cộng đoàn chắc chắn phải có người trên, kẻ dưới. Kẻ dưới dĩ nhiên phải vâng phục người cầm đầu của gia đình, của cộng đoàn. Nhìn vào thực tế, chúng ta thấy rất rõ, gia đình, cộng đoàn nào mà bề dưới, con cái không vâng phục thì cha mẹ, bề trên của gia đình, của cộng đoàn ấy khổ sở vô cùng. Cha mẹ, bề trên lúc nào cũng muốn con cái mình tốt nên có những luật này lệ kia. Con cái và bế dưới thì khác, chúng muốn sống trong tự do để rồi không còn biết vâng phục cha mẹ, bề trên là gì cả.
Bài học vâng phục ngày hôm nay, chúng ta được xem lại một cách hết sức rõ ràng, thực tế trong đoạn sách ngắn ngủi mà Giêrêmia để lại cho chúng ta. Giêrêmia được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ, người phát ngôn của Chúa, người đại diện cho Chúa, người thay mặt Chúa nói với dân Chúa những lệnh truyền của Chúa. Thiên Chúa, Ngài vốn dĩ mang trong mình dòng máu của tình yêu thương bao dung và tha thứ. Con người bao nhiêu lần bất tuân lệnh truyền, lẽ ra huỷ bỏ giao ước đã thiết lập nhưng không. Thiên Chúa mãi yêu con người, tạo mọi cơ hội, mọi điều kiện để con người bỏ đường gian ác mà quay về đường ngay nẻo chính.
Dân Israel đã huỷ bỏ giao ước. Hôm nay, qua miệng của Giêrêmia, Thiên Chúa lập giao ước mới với dân: “Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa – Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết Đức Chúa”, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi (Gr 31,31-35)
Với Giao Ước Mới, Thiên Chúa hứa là sẽ không nhớ đến lỗi lầm của Israel nữa và Ngài còn hứa Israel sẽ tồn tại mãi mãi.
Thế nhưng, tiếp tục nhìn vào lịch sử Israel, mối tình giữa Israel và Thiên Chúa nó làm sao ấy. Thiên Chúa mãi mãi yêu thương còn dân thì lại cứ bất tuân luật Chúa, không vâng phục lời của Ngài. Dân Chúa ương ngạnh, không vâng phục cho đến nỗi Ngài phải sai chính Con Một của mình đến để dạy do dân bài học vâng phục. Không đơn giản để học bài học vâng phục. Chúng ta thử đặt trường hợp của chúng ta vào Chúa Giêsu chúng ta sẽ cảm thấu được nỗi âu lo, sao xuyến, căng thẳng của một người sắp bước ra pháp trường.
Chúa Giêsu mang trong mình sự giằng co của một con người tự do và một con người vâng phục. Ngài hoàn toàn tự do để lựa chọn sự sống hay cái chết của Ngài. Suy nghĩ lắm chứ! Đắn đo lắm chứ! Buồn và đau đớn để rồi Ngài mới thỏ thẻ với Cha mình: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến (Ga 12,27)
“Chính vì giờ này con đã đến”! Phải! Chính vì cái giờ đau thương, giờ quyết liệt này mà Chúa Giêsu phải đến.
Tác giả thư Do Thái đã nói với chúng ta điều ấy:
“Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người (Dt 5,7-9).
Để vâng phục không đơn giản, để vượt qua những trở ngại của vâng phục phải trải qua biết bao nhiêu đau khổ nhưng khi vượt qua đau khổ đấy sẽ được đến vinh quang. Thánh Phaolô, trong thư của Ngài gửi tín hữu Philip xác tín với chúng ta về thái độ, về hành động vâng phục của Chúa Giêsu:
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngườivà tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. (Pl 2,6-9)
Vì sao Thánh Phaolô nhắc tín hữu Philip gương của Chúa Giêsu. Chắc có lẽ trong cộng đoàn Philip lúc bấy giờ có sự đụng chạm, có sự cãi vả nhau nên Thánh Phaolô phải nêu gương vâng phục của Chúa: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. (Pl 2,1-5).
Thái độ, hành động vâng phục tuyệt vời của Chúa Giêsu ngày hôm nay quả là bài học quý giá cho mỗi người chúng ta. Hôm nay, chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình. Là linh mục, là tu sĩ, là ông, là bà, là cha, là mẹ, là con, là cháu trong gia đình, chúng ta nhìn lại xem chúng ta có vâng phục giám mục địa phận, bề trên giám tỉnh, bề trên cộng đoàn, ông, bà, cha mẹ của chúng ta hay không? Nếu chúng ta thật sự vâng phục bề trên, ông bà cha mẹ thì gia đình chúng ta sẽ ấm êm, hạnh phúc.
Các đấng các bậc làm bề trên và làm cha làm mẹ ắt hẳn có kinh nghiệm thực tế về chuyện vâng lời vâng phục của bề dưới, của con cái. Đành biết con người có cá tính, có lý lẽ riêng của mình nhưng vì hạnh phúc chung, vì lợi ích chung của gia đình, của cộng đoàn ta phải cố gắng bỏ đi cái ý riêng, cái lẽ riêng của ta để gia đình, để cộng đoàn được hạnh phúc hơn.
Nhìn lại như vậy để rồi chúng ta cầu nguyện cho nhau để ngày mỗi ngày chúng ta cân chỉnh cuộc đời của chúng ta sống sao vâng phục người trên của chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu là thầy dạy vâng phục ban thêm ơn cho chúng ta để chúng ta sống bài học vâng phục như Chúa đã từng vâng phục Cha.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam