Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 184

Tổng truy cập: 1371956

HÃY ĐẾN MÀ XEM

HÃY ĐẾN MÀ XEM (*)- Chú giải của Noel Quession

Mùa Phụng vụ được cấu trúc dựa theo hai lễ lớn: Giáng Sinh và Phục Sinh. Mỗi “thời điểm đặc biệt” trên lại được một thời gian chuẩn bị trước, gọi là Mùa Vọng và Mùa Chay, và được kéo dài theo sau bằng Lễ Hiển Linh và Mùa Phục Sinh.

Ngoài hai giai đoạn lễ quan trọng này, thời gian phụng vụ trong năm trở nên “thông thường” hơn, đó là các Chúa Nhật xem ra ít sắc thái hơn. Tuy nhiên, đó không phải là những Chúa Nhật tẻ nhạt, kém phong phú đâu. Đời sống của ta không chỉ bao gồm những thời gian đặc biệt. Cần phải biết chấp nhận cả những chuỗi ngày bình thường nữa.

Sau những ngày lễ hội Giáng Sinh và Năm mới, hôm nay chúng ta lại bước vào một chuỗi dài các Chúa Nhật, qua đó Giáo hội trình bày cho ta cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu.

Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông”.

Đây là biểu tượng cho “nếp sống thường ngày”, bắt đầu lại mỗi buổi sáng, bề ngoài có vẻ tầm thường, lu mờ, ảm đạm… cứ khởi sự lại hoài hoài, nhưng thực sự có phải chỉ dẫn ta đến buồn chán hay không?

Đâu phải vậy, chính trong bối cảnh tẻ nhạt đó, thông thường xem như “không có cái gì xảy ra”, thì lại sắp phát sinh cái mới mẻ! Không có buổi sáng nào tầm thường cả.

Thiên Chúa đều hiện diện ở đó. Hôm nay, một điều gì đó sẽ xảy đến.

Thánh Gioan đã có ý soạn thảo chương thứ nhất Tin Mừng của ông, như một “Tuần lễ đầu tiên”: chủ yếu là gây chú ý “buổi khởi đầu của Đức Giêsu. (Ga 1,19) đó là ngày thứ nhất. Một phái đoàn Do Thái đến chất vấn Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.

Ga 1,29: Ngày thứ hai “Hôm sau, Gioan Tẩy Giả xác định Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.

Ga 1,35: Ngày thứ tư, “Hôm sau, Đức Giêsu kêu gọi thêm hai môn đệ khác.

Ga 2,1: Ngày thứ bảy, “Ba ngày sau”, phép lạ đầu tiên đã xảy ra tại tiệc cưới Ca-na, qua đó Đức Giêsu biểu lộ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người.

Qua các dàn dựng như trên, Thánh sử Gioan muốn báo cho chúng ta một “Tin Mừng”: đây là một cuộc sáng thế mới, một cuộc tạo dựng mới được khởi sự, một việc lặp lại trang đầu tiên của Kinh Thánh. Toàn thể “mạc khải” như kêu lên cho chúng ta biết: Không, thời gian không thể tầm thường, tẻ nhạt, buồn chán. Chính thời gian sẽ phát sinh ra điều mới lạ căn bản, thới gian luôn mang chứa năng lực sáng tạo, thời gian sẽ thực hiện công cuộc Tạo dựng.

Đối với tôi mỗi buổi sáng có mang lại một điều gì mới mẻ không?

Lạy Chúa, xin giúp con biết chăm chú đến những gì sắp gây ra đến “biến cố” sắp xảy đến thường gây bất ngờ cho con, Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa đang chờ đợi con.

Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là chiên Thiên Chúa”.

Vâng, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu, và đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: ông sắp chuyển giao các môn đệ của mình. Họ sẽ rời bỏ Gioan Tẩy Giả để theo một ông Thầy khác. Tước hiệu đầu tiên trên đây, được dành cho con người mà cho tới nay, vẫn được coi là chàng thợ mộc Na-da-rét, có ý nghĩa gì? Chàng là “Chiên Thiên Chúa” sao!

Đó là tên gọi mà ta thường hát đi hát lại trong mỗi thánh lễ Dưới tên gọi để chúng ta mặc cho nó một ý nghĩa nào? Gioan Tẩy Giả nhằm nói lên điều gì? Ta chỉ cần gợi lại toàn diện bối cảnh Do Thái lúc đó. Tước hiệu này thực sự là bước “chuyển tiếp” từ Cựu ước sang Tân ước; đó là vị ngôn sứ cuối cùng và là chứng nhân đầu tiên Đức Giêsu Kitô. Vào ngày lễ Vượt qua, mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên và lấy máu bôi lên cửa nhà mình trong lúc dùng bữa cơm tối: đó là biểu tượng cho công cuộc “giải phóng” ít-ra-en. Ngoài ra, từ “con chiên” trong tiếng A-ra-mên, ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng, cũng có nghĩa là “tôi tớ”. Mọi người Do Thái sùng đạo đều mang trong đầu lời sấm nổi tiếng của ngôn sứ Isaia (53,7), giới thiệu “người Tôi tớ của Thiên. Chúa” hoàn hảo như “một con” chiên bị người ta dẫn tôi lò sát sinh mà không mở miệng kêu than”. Vậy Đức Giêsu đã được chỉ định như Đấng sắp bị người ta sát tế trong thinh lặng, sắp vì yêu mà hiến mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi trần gian. Theo tập truyền Do Thái thời Đức Giêsu, người ta thường nói tới một “con chiên Chúa”, có thể mọc sừng cừu đực và lãnh trách nhiệm “bảo vệ cả đoàn chiên”. Ngoài ra, đó cũng là hình ảnh mà Gioan sử dụng lại trong sách Khải Huyền, khi ông giới thiệu Con chiên, được chọn từ đoàn chiên, đảm trách việc bảo vệ các anh em mình, tấn công và đánh tan kẻ thù. Chúng ta có đi quá xa bài thánh ca dịu dàng “Đây Con chiên vô cùng hiền lành” không! Thực ra, Chiên Thiên Chúa nơi chúng ta ca ngợi trước khi trước lễ không phải là hình ảnh con vật dịu hiền, trìu mến và vô hại… Đúng ra đó là hình ảnh một kẻ giao chiến hiếu thắng nhưng phải đổ đầm đìa máu huyết để cứu thoát chúng ta khỏi bất hạnh!

Đó là cách thức Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như thể ngay ngày thứ ba khởi sự đời sống công khai của Người.

“Hai môn đệ nghe ông nói đều đi theo Đức Giêsu”.

Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng trên. Đức Giêsu đang bước đi trên một con đường mòn dọc theo bờ sông. Hai người theo gót chân Người, thái độ nhút nhát, vẻ hồi hộp… Họ chưa gặp Người bao giờ. Đó là một người lạ mặt. Những gì sắp xảy ra đây?

Thật là quá “liều” khi theo một người lạ như thế. Có lẽ, đây là một cuộc mạo hiểm. Nhưng những cuộc hành trình vĩ đại đều bắt đầu như thế cả, vì nhờ đó mới mở ra một con đường mới.

“Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi…”

Đức Giêsu đã nghe thấy bước chân họ đạp trên sỏi đá, phía sau Người. Người quay lại. Tôi thử quan sát cảnh tượng này. Đây cũng là “cái nhìn đầu tiên” của Đức Giêsu đối với những người lạ mặt…

“Các anh tìm gì thế?”

Đây là lời đầu tiên của Đức Giêsu được ghi nhận trong Tin Mừng thánh Gioan. Câu hỏi này Đức Giêsu muốn đặt ra cho mọi người. Hôm nay, Người cũng đang hỏi tôi như thế. “Bạn tìm gì đó? Bạn đặt cho đời mình ý nghĩa nào? ước muốn của bạn là gì?

Ta cần ghi nhận, sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một “khẳng định”, nhưng là một “câu hỏi’. Vì thực ra, để đến với Đức Giêsu, cần phải có thái độ “cởi mở”, không thể “khép kín” trong một hệ thống đóng khung, như các “tư tế và trợ tế” đã đến gặp Gioan Tẩy Giả. (Ga. 1,19). Đối với những loại người này, cuộc đối thoại đã sớm kết thúc vì thực ra họ ‘không tìm cái gì cả’. Lời đầu tiên của Đức Giêsu muốn lưu ý ta rằng, điều kiện trước hết để làm phát sinh và đào sâu đức tin, phải là thái độ “tìm kiếm, Đức tin trước hết phải là thái độ tìm hiểu đạo: đó là một cuộc kiếm tìm, một câu hỏi. “Lạy Chúa, Chúa là ai?”, kẻ nào cho mình biết tất cả, sẽ bị khựng lại trong những xác tín của mình, sẽ không bao giờ tiến bộ được. “Không có Thiên Chúa! – Bạn có tin chắc như thế không? Thiên Chúa hiện hữu. Người là Đấng này.. Đấng kia – Bạn có xác tín như thế không?”. Một triết gia tầm cỡ như Descartes đã nói: “Muốn cho khoa học tiến bộ, cần phải biết “hồ nghi”. Cũng vậy, cần phải biết “đặt câu hỏi”, như một thứ điều kiện để phát triển đức tin. Còn Péguy đã diễn dịch như sau: “Có những tâm hồn hoàn toàn khép kín, không để một ngõ ngách nào cho ân sủng thâm nhập. Không có chỗ có thể “thấm ướt” được, thì làm sao có thể tiếp thu… “.

Lạy Chúa, xin ban cho tâm hồn chúng con biết mơ mộng, biết kiếm tìm.

Họ đáp: ‘Thưa Rapbi, (nghĩa là thưa Thầy) Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”.

Tìm kiếm… bước theo… cư ngụ… đó là ba thái độ cốt yếu của tình yêu. Tôi có kiếm tìm Thiên Chúa không? Tôi có theo vết chân Người không? Tôi có luôn ở cùng Thiên Chúa không? Đức Giêsu đáp lại lòng mong muốn, thái độ kiếm tìm của họ. Nhưng, cách đáp trả của Người luôn tôn trọng tự do của họ: “Hãy đến mà xem?” Đức Giêsu không bó buộc các ông đi theo. Người không phải là một nhà tuyên truyền, một người quảng cáo, khi cần thiết có thể tìm mọi cách và áp lực người ta hoán cải. Phần tôi, cách tôi sử dụng để trình bày đức tin như thế nào?

“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều”.

Có những từ mà Gioan không những gặp đi lặp lại.

Không phải ông nghèo ngữ vựng, nhưng ông chú ý sử dụng vậy. Nhờ cách lặp đi lặp lại như thế, ông có thể diễn tả bước tiến của “người môn đệ”: “kiếm tìm”(1,38), “đến xem” (1, 39 và 46), “quan sát” (l,39 và 41), “gặp thầy” (1,41 và 45), “bước theo” (l,37.38.40.43) “ở lại” (l,38.39).

Gioan Thánh sử là một trong hai người đã bước theo Đức Giêsu. Kỷ niệm của ông rất chính xác, như kỷ niệm lần đầu gặp gở của hai người yêu nhau. Ong ghi lại cả giờ giấc sự kiện đó đã diễn ra vào lúc “bốn giờ chiều’, (thời đó người ta gọi đó là giờ thứ mười). Hôm đó, họ đã trao đổi với nhau những gì? Hẳn là hai ông đã kể lại đời sống, những khát vọng, những mong ước, thái độ “tìm kiếm” của họ. Còn Đức Giêsu, có thể Người đã nói cho họ biết về những dự tính, những ước muốn riêng của Người.

“Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô”.

Một nét đặc thù đáng ghi nhận, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, hay “ơn gọi”, thực tế được truyền đến tai con người, nhờ các mối tương quan nhân loại. Để nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa, cũng cần phải chăm chú tới tiếng gọi của con người. Đó là những trường hợp của Gioan Tẩy Giả, trước hết ông gọi Anrê và Gioan. Rồi đến lướt Anrê và Gioan lại kêu gọi Simon. Sau này, Philipphê cũng sẽ mời gọi Nathanaen như thế.

Tôi có nuôi tư tưởng khi có dịp sẽ hướng dẫn một người nào đó tới gặp gỡ Đức Giêsu không? Khám phá ra Đức Giêsu rồi, tôi có lo truyền đạt cho kẻ khác hay chỉ biết giữ riêng cho mình?

“Ông dẫn em mình đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Si-mon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan. Anh sẽ được gọi là Kêpha”, “tức là Phêrô”.

Trở nên môn đệ, nghĩa là “thay đổi” đời sống… đó là bước vào một, cuộc phiêu lưu mới, trở nên một “con người mới”. Đó là ý nghĩa việc đổi tên cho Simon. Đối với các môn đệ đầu tiên, mỗi khi hồi tưởng lại, các ông đều cảm thấy việc thay đổi đời sống của mình thật là phi thường.

Đó là khởi đầu cho một định hướng hoàn toàn khác lạ trong đời sống của các ông. Trong não trạng của người Sêmít, việc đổi tên cũng có nghĩa là, Thiên Chúa hoàn toàn ảnh hưởng trên Simon Phêrô. Những con người đó đã “tìm kiếm” Đức Giêsu, đúng vậy? nhưng chính Đức Giêsu cũng kiếm tìm họ… Chinh Người khởi xướng trước nhờ “ân sủng” kỳ diệu của Người. Ơn gọi: vừa là tiếng kêu gọi của con người… vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa.

 (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- B

TỪ LỜI CHỨNG…- Chú giải của Fiches Dominicalaes

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

*1. Từ lời chứng của Gioan đến cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu:

Người đọc có thể nhận ra ngay những điểm dị biệt so với bài tường thuật về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên nơi các Tin Mừng Nhất lãm.

Theo sự trình bày của Gioan, các môn đệ đầu tiên, những con người sẽ tập hợp thành cái nhân ban đầu, của nhóm Mười Hai, quả là dân gốc gác xứ Galilê. Nhưng câu chuyện họ được Chúa gọi ở đây lạt không xảy ra ở ngay tại Galilê, bên bờ hồ nào đó thuộc miền ấy, mà lại ở bờ sông Giođan nơi họ từng theo làm môn dê của Gioan Tẩy Giả.

Cũng vậy, trong lúc nơi các Tin Mừng Nhất lãm, lời kêu gọi của Chúa mặc hình thức một lệnh truyền: “Các anh hãy theo tôi”, thì ở đây, hai môn đệ đầu tiên, là Anrê và chắc là Gioan, con ông Giêbêđê, lại được khỏi động bởi lời chứng của Gioan Tẩy Giả: “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, tác giả Tin Mừng viết, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời chứng xác nhận các điều đã hứa xưa, nay đã được thực hiện nơi Đức Giêsu. Rồi thánh sử Gioan tiếp ngay: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (“đi theo”, trong ngôn ngữ Kinh Thánh có nghĩa là: làm môn đệ).

Tuy nhấn mạnh tới vai trò quan trọng của lời chứng ông Gioan trong quá trình gặp gỡ Đức Giêsu, tác giả Tin Mừng thứ tư cũng quan tâm không kém đến tư cách chủ động của Chúa trong suốt bài tường thuật.

Chính việc Đức Giêsu “đi ngang qua” đó là cơ hội để Gioan Tẩy Giả làm chứng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Chính Người đã “quay lại”, thấy hai môn đệ của Gioan đi theo mình, mới hỏi: “Các anh tìm gì thế? Câu hỏi này là lời nói đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan. Cũng một câu hỏi tương tự như thế sẽ là lời đầu tiên Đấng Phục Sinh sau này nói với Maria Mácđala: “Bà tìm ai?”. Câu hỏi đó đã gợi lên cho hai người môn đệ ý thức rõ điều thực sự họ đang tìm kiếm, và đồng thời mời gọi chính chúng ta là những độc giả Tin Mừng hôm nay, biết đặt mình trước mặt Chúa, để làm sáng tỏ ý nghĩa sau cùng của cuộc hành trình nội tâm của chúng ta.

Anrê và người bạn kia đáp lại bằng cách hỏi Chúa: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi vượt xa chuyện đơn giản chỉ liên can đến nơi ăn chốn ở của Chúa, nó đã hướng tới đời sống thân mật của Đức Giêsu với Chúa Cha.

Và chính Đức Giêsu mời gọi các ông: “Đến mà xem”. Lời mời không chỉ là đến tham quan cho biết chỗ Người chọn làm nhà ở, mà là đi vào một cuộc gặp gỡ thiết thân với Người, là biết người một cách thâm câu hơn, là “kiểm nghiệm bằng một thấy tai nghe, bằng con người xương thịt, cái thực tại lịch sử sẽ làm nền tảng cho đúc tin” (x: P.E Jacquemin, “Assemblées du Seigneur”, số 33, trang 57). Chúng ta đọc thấy nơi Ga 1,1-3: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã, chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến… Chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi”.

*2. Từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đến lời chứng của các môn đệ:

– Thế là có một cuộc gặp gỡ: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, thánh sử viết tiếp, và ở lại với Người ngày hôm ấy”.

Marchadour ghi nhận: “Cuộc gặp gỡ được bao trùm trong một bức màn kín đáo, đem đến cho bài tường thuật một chiều kích vừa mầu nhiệm vừa sáng tỏ: từng người tín hữu chúng ta, đầu được mời gọi thực hiện cùng một bước đi ấy” (L’evangile de Jean, Centurion, trang 48).

Việc láy đi láy lại động từ “ở (lại)” (“demeurer”) lôi kéo chú ý của người đọc đến một yếu tố cốt thiết. A. Marchadour nhận xét thêm: “ở (lại)” trong Tin Mừng của Gioan, vẫn theo tác giả trên, là một thuật ngữ thần học chỉ sự hoàn tất trong Đức Tin, sự gán bó trọn vẹn vào Đức Giêsu… Đó là những bước đi đúc kết nên Đức Tin: đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ ngồi ở, ở lại với người: (Sđd, trang 47).

Đàng khác, tác giả Tin Mừng dừng lại lâu để mô tả cái phản ứng dây chuyền phát sinh từ cuộc gặp gỡ ấy với Đức Giêsu. Anrê gặp em mình là Simon, và dẫn ông này đến gặp Đức Giêsu, người mà ông xưng là “Đấng Mêsia’? Và rồi Đức Giêsu đặt cho ông em này một tên mới, mang ý nghĩa tượng trưng, cái tên công bố và biểu lộ ơn gọi rất riêng của ông ta, giữa hàng ngũ các môn đệ: “Anh là Sirnon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Képha (tức là Phêrô) ”.

Theo truyền thống Nhất Lãm, Anrê và Simon cả hai được Đức Giêsu kêu gọi cùng một lần. Theo Gioan, Simon đến gặp Đức Giêsu qua trung gian giới thiệu của anh mình; một cách nào đó ông là “kẻ đến sau”? Tuy nhiên điều đó không phủ nhận chút nào vị thế hàng đầu của Simon trong nhóm các môn đệ, bởi chính ông này, theo tường thuật của Tin Mừng thứ tư, là người được vinh dự Đức Giêsu ngỏ lời riêng đầu tiên.

Sau đó, Đức Giêsu gặp Philípphê và nói: “Anh hãy theo tôi (Philípphê là người Bétxaiđa, đồng hương với Anrê và Phêrô). Và Philípphê lại tiết lộ với Nathanaen: Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth” (c.45).

Cứ như thế, theo lối diễn tả của X. Léon-dufour, “ngọn lửa loan tin được chuyền đi, từ người này sang người khác” (Lecture de l’evangile selon Jean, tập 1, Seuil, trang 185). Phải chăng cũng chính nhờ lời chứng của các môn đệ đầu tiên đó mà biết bao tín hữu khác, đến lượt mình, cũng đã gặp gỡ được Đức Giêsu, là Đức Kitô? Làm sao Anrê và người bạn kia của ông đã phát hiện được Đấng Mêsia, nếu không nhờ Gioan Tẩy Giả? Simon Phêrô cũng thế, nếu không có anh mình là Anrê? Và cả Nathanaen, nếu không có Philípphê? Đến lượt chúng ta cũng vậy chúng ta sẽ chẳng bao giờ lãnh nhận được đức Tin nếu không nhờ sợi dây chuyền vĩ đại móc nối chúng ta với những môn đệ đầu tiên ấy.

BÀI ĐỌC THÊM

*1. Những cuộc gặp gỡ đầu tiên”. (Mgr. L.Daloz, Nous avons vu sa gloire, Desclée de Brouwer, trang 2830).

“Tin Mừng thứ tư không hề mô tả cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Gioan Tẩy Giả. Không một lời trao đổi nào giữa hai vị được thuật lại. Gioan nhìn thấy Đức Giêsu, giới thiệu Đức Giêsu, nói về Đức Giêsu. Ông là nhân chứng, là bạn, là tiếng nói. Điều ông phải nói, ông đã học được từ Đấng sai ông. Ông không phải là môn đệ của Đức Giêsu. Ông là vị tiền hô. Sau ông, sau Đức Giêsu, là một thời mới đã khởi đầu. Sau phép rửa trong nước là phép rửa trong Thánh Thần. Gioan vừa là kẻ được chiêm ngưỡng cái thực tại mới mẻ, như ông Môsê được từ xa nhìn thấy đất Hứa, vừa đồng thời là người hướng mọi người về đó, bằng cách giới thiệu Đức Giêsu: “thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: Đây là Chiên Thiên Chúa. Lời nói của Gioan tác động ngay trên các môn đệ: Các ông đi theo Đức Giêsu. Gioan phải có được một sức mạnh từ bỏ lớn như thế nào để có thể sẵn sàng gởi chính những môn đệ của mình đến với Đức Giêsu. Ong không chỉ đã dọn đường cho Chúa, mà còn đã dọn lòng những con người, để họ biết Chúa và theo Chúa. Ngay khi vừa tiếp nhận những môn đệ của Gioan, Đức Giêsu khai trương sứ mạng của Người. Mẩu đối thoại thật ngắn gọn, dứt khoát: “Các anh tìm gì thế? Thưa Rápbi, Thầy ở đâu? Đến mà xem? Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Tác giả xác định giờ giấc của cuộc gặp gỡ ban đầu ấy: Lúc đó là khoảng giờ thứ mười. Như vậy, bước thứ nhất của những kẻ sau này sẽ là tông đồ và nhân chứng của Đức Giêsu là nhận biết Người, đi theo Người, ở lại với Người. Vấn đề trước hết không phải là đi đâu và làm gì. Điều này vẫn luôn luôn đúng cho chúng ta. Đức Giêsu là: Đấng đến để hoàn tất công việc mà Chúa Chúa đã giao phó cho: Người loan báo Nước Trời, Người chết cho mọng người, người cứu chuộc qua mầu nhiệm Vượt Qua của người. Trước tiên, chúng ta cần phải bước vào Nước ấy, phải nhận biết Đức Giêsu, phải làm môn đệ của Người. rồi sau đó chúng ta mới sẽ là nhân chứng của Người. Nếu chúng ta tưởng rằng chính chúng ta sẽ ra đi cứu độ thế gian thì coi chừng lầm to. Chỉ có một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu. Không ai có thể làm chứng nhân nếu trước hết không là môn đệ.

Dù sao, cuộc gặp gỡ ban đầu này đã mau chóng dẫn đến hành động làm chứng đầu tiên: Anrê đi gặp em mình trước hết: Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia. Câu nói nghe thấy đơn giản làm sao! Chúng ta không còn được nghe thấy âm thanh cảm xúc có thể đã dâng trào trong cõi lòng người thanh niên Do Thái dám thốt lên lời đó. Đấng Mêsia, niềm khát vọng của Israel… Thánh sử Gioan cho phép chúng ta cảm thấy điều lạ lùng trong việc Đấng Messia đọc được điều thầm kín trong lòng con người, và ngay từ giây phút đầu đã ghi dấu đậm đà trên cuộc đời những kẻ người gọi. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha tức là Phêrô? Đức Giêsu luôn biến đổi những ai đến với người. Người đặt cho họ một tên mới. Người trang bị cho họ khả năng để nhận lãnh sứ vụ mà Người sẽ sai thực hiện.

Cả ba người môn đệ đầu tiên đến với Đức Giêsu nhờ sự dẫn dắt của người khác. Điều đó có thường xảy ra cho chúng ta? Có được bao nhiêu người trên đường đời đã giúp chúng ta nhận ra Đức Giêsu…?”.

*2. “Khởi đầu của một cuộc phiên lưu lạ lùng” . (F. Deleclos).

Có những phút giây hay những lần gặp gỡ mà người ta không bao giờ quên được. Đó là những khoảng khắc của ánh sáng hay của sự đồng cảm sâu xa sẽ mãi mãi ghi dấu và định hướng cuộc đời con người. “Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười…? Năm mươi năm về sau, Gioan còn nhớ chính xác cái ngày hôm đó, khi cùng với ông bạn Anrê, ông đã được nghe tiếng người anh em bà con với Thầy mình đặt câu hỏi: “Các anh tìm gì thế?. Đó chính là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu lạ lùng. Cuộc đời của các ông từ đây sẽ rẽ sang một khúc quanh mới, một hướng đi mới (…).

Bắt gặp một cái nhìn qua đó biểu lộ cả một con người. Cảm nghiệm được nhìn nhận, được tôn trọng và được kêu gọi. Cảm thấy được trở thành chính mình và trờ nên khác, được lớn lên và tiếp tục vươn lên thêm mãi. “Thầy ở đâu? Đến mà xem”? Họ đi theo và đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Tất cả chỉ đơn giản thế thôi và gây ngỡ ngàng biết bao.

“Các anh tìm gì thế”?. Câu hỏi hệ trọng ấy không chỉ đặt ra cho những “hiện tượng hiếm hoi” trong trời đất, hay cho những nhân vật xuất chúng. Nó được dành cho tất cả chúng ta. Nó không chỉ khai sinh ra các bậc ngôn sứ và các vị thánh được tôn phong, nhưng chủ yếu mọi người tín hữu.

Ngày hôm nay, trên khắp mọi nào đường trần gian, chúng ta vẫn có thể giáp mặt với Đức Giêsu khi người đi ngang qua giữa chúng ta, như xưa Người đã “đi ngang qua” giữa các môn đệ bên bộ sông Giođan .

Đức Giêsu không bao giờ ép uổng, không bao giờ giăng bẫy rình bắt ai. – Người chẳng hề làm áp lực, cũng không tìm cách mê hoặc dụ dỗ người nào. Người ta vẫn có thể đi sát một bên

Người mà không hay không biết, vẫn có thể thấy Người mà không buồn nhìn theo. Có khi chúng ta phải cần đến cái nhìn hay lời khuyên của một ai khác, của ai đó thì thầm bên tai: “Đây là Chiên Thiên Chúa”? Tuy nhiên chỉ có những người nào biết tìm kiếm và khao khát chân lý và tình yêu thật mới có thể nắm bắt mới có thể lay động và lắng nghe. Ngoài ra còn phải có thái độ sẵn sàng để đi theo Người và đến mà xem.

Đức Tin chớm nở từ lời hỏi đáp: “Thầy ở đâu?”. Thế là bắt đầu cuộc trao đổi với Chúa. Con người còn cần phải đi theo Người, đồng hành với Vị Thầy và ở lại với Người để hiểu biết thêm”.

 CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- B

MẦU NHIỆM “ƠN GỌI” (*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Vào Chúa Nhật II Thường Niên năm B, Bài Đọc I và Tin Mừng cùng đề cập đến mầu nhiệm “ơn gọi”. Thiên Chúa kêu gọi một cách dứt khoát, bởi vì Ngài nhìn thấu tận cõi lòng sâu kín của con người.

1Sm 3: 3b-10, 19

Bài Đọc I, trích từ sách Sa-mu-en quyển thứ nhất, thuật lại chuyện tích về “ơn gọi” của con trẻ Sa-mu-en. Thần Khí Thiên Chúa sẽ ở với em mọi ngày suốt cuộc đời của em.

1Cr 6: 13c-15a, 17-20

Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô gợi lên phẩm giá của thân xác là  chi thể của Đức Ki-tô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Ga 1: 35-42

Tin Mừng Gioan thuật lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của các môn đệ với Đức Giê-su. Ngài đưa mắt nhìn dứt khoát trên Phê-rô, vị thủ lãnh Giáo Hội tương lai của Ngài.

BÀI ĐỌC I (1Sm 3: 3b-10, 19)

Ngôn sứ Sa-mu-en là một trong những nhân vật hấp dẫn của Cựu Ước. Cuộc chào đời của ông tiên vàn là một “dấu chỉ”.

*1.Đứa con của lời khẩn nguyện.

Mẹ ông là bà An-na, một trong hai người vợ của ông En-ca-na quê thành Ra-ma-tha-gim. Đây vẫn còn thời đại đa thê vào thế kỷ XI trước Công Nguyên. Tuy nhiên, chỉ những bậc vị vọng và giàu có mới có thể có nhiều vợ. Chúng ta ghi nhận rằng hai sách Sa-mu-en và hai sách Các Vua không cho thấy bất kỳ trường hợp đa thê nào khác ngoài trường hợp hy hữu nầy. “Một vợ một chồng” là thể chế gia đình thông thường nhất ở Ít-ra-en. Bà Pơ-nin-na có nhiều con trong khi bà An-na không có một đứa con nào. Vì thế, bà An-na rất khổ tâm và cảm thấy bà Pơ-nin-na như đối thủ đang chọc tức mình để hạ nhục mình.

Chồng bà yêu quý bà và chiều chuộng bà: “An-na, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa trai sao?” (1Sm 1: 8). Tuy nhiên, bà An-na vẫn không nguôi nỗi phiền muộn nên quyết tâm khấn hứa với Đức Chúa.

Vào dịp đại lễ hằng năm, bà cùng gia đình hành hương lên thánh địa Xi-lô. Ở đó, bà khấn hứa với Đức Chúa rằng nếu Ngài ban cho bà một đứa con trai, bà xin dâng hiến trọn cuộc đời cậu để phụng sự Ngài. Khi con trẻ sinh ra, bà giữ trọn lời khấn nguyện. Khi con trẻ lớn khôn, bà dẫn đứa bé lên đền thánh Xi-lô và trao gởi con mình cho thầy cả Ê-li. Vào ngày đó, bà dâng hy lễ lên Đức Chúa và hát bài ca chúc tụng Thiên Chúa. Đây là nguồn cảm hứng đầu tiên mà Đức Ma-ri-a đón nhận khi Mẹ hát lên bài ca “Magnificat” của Mẹ.

*2.Ơn gọi.

Kể từ đó, cậu bé Sa-mu-en phụng sự Đức Chúa bên cạnh thầy cả Ê-li. Nhưng Đức Chúa có những dự định lớn lao hơn đối với đứa trẻ nầy và rất sớm Ngài khai lòng mở trí cho cậu hiểu. Đây là câu chuyện về ơn gọi mà chúng ta đọc vào ngày lễ hôm nay.

Ơn gọi của trẻ Sa-mu-en vén mở khoa sư phạm của Thiên Chúa. Trước hết, Thiên Chúa kêu gọi những kẻ bé mọn và những người yếu đuối để thi hành những ý định của Ngài. Thứ nữa, chính Ngài luôn luôn đề xuất sáng kiến. Thiên Chúa đã kêu gọi ông Mô-sê trong hoang địa theo cùng một cách thức như thế (Sh 3: 1-6) và sau này Ngài cũng sẽ kêu gọi ngôn sứ I-sai-a ở trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem theo cùng cách thức vậy (Is 6: 1-12).

Thiên Chúa ba lần đánh thức cậu khi đang cậu ngủ say trong trạng thái hồn nhiên vô tư lự. Ngài “khẻ đánh thức” cậu, vì thế cậu tỉnh dậy mà không chút sợ hải. Bản văn nói với chúng ta: “Bấy giờ Sa-mu-en chưa biết Chúa, và Chúa chưa mặc khải Lời Người cho cậu”. Suốt cuộc đời mình, “Chúa ở với cậu, và Người thực hiện mọi lời Người đã phán với cậu, không sót lời nào”. Sa-mu-en là vị Thủ Lãnh cuối cùng của dân Ít-ra-en, nhưng là một vị Thủ Lãnh vĩ đại nhất.

BÀI ĐỌC II (1Cr 6: 13c-15a, 17-20)

Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-rin-tô từ Ê-phê-xô, chắc hẳn vào mùa xuân 55. Giáo đoàn Cô-rin-tô là một trong những giáo đoàn thánh nhân đã thiết lập. Tuy nhiên, cộng đoàn nầy gặp phải nhiều vấn đề. Thánh nhân vừa mới nhận được những thông tin thật đáng lo ngại về đạo lý, vì thế thánh nhân ra sức giáo huấn họ. Trong bức thư nầy, chúng ta gặp thấy những quan điểm thần học cao vời của thánh nhân.

Đoạn trích hôm nay đề cập đến những vấn đề thân xác theo những viễn cảnh Ki-tô giáo. Để hiểu được những lời khuyên bảo của thánh nhân, chúng ta phải đặt những lời khuyên này vào trong bối cảnh thành phố Cô-rin-tô đương thời.

*1.Bối cảnh thành phố Cô-rin-tô.

Cô-rin-tô là một thành phố mới; thành phố xưa đã bị phá hủy vào thời đế quốc Rô-ma chinh phục vào năm 146 trước Công Nguyên. Hoàng đế Xê-da đã phục hưng thành phố nầy và thiết lập thành một thuộc địa Rô-ma vào năm 44 trước Công Nguyên. Thành phố hoàn toàn được xây dựng lại và sớm lấy lại vị thế của mình là thủ phủ thương mại.

Với hai thương cảng, một ở phía đông (biển Ê-gê), và một ở phía tây (biển I-o-ni), giữa đường từ Châu Á đến Rô-ma, thành phố nầy được hưởng một hoàn cảnh ưu đãi. Với số lượng phu khuân vác, thợ thủ công, hàng hóa phong phú, nhiều ngân hàng, thành phố tứ xứ nầy tạo nên một vùng đất thuận tiện cho việc phát triển các tệ nạn: óc con buôn, nạn hám lợi và cuộc sống xa hoa. Ngoài ra, ở đây còn có cuộc sống sa đọa do bối cảnh tế tự xa xưa còn được lưu truyền. Vào thuở xa xưa, thành phố đã phụng thờ nữ thần tình ái và sinh sản. Có đám đông nữ tư tế phụ trách việc tế tự này. Đây là một hình thức trụy lạc thánh, tự nguồn gốc được coi như nghi thức sinh sản và hành vi lôi kéo ân phúc của nữ thần. Thành phố Cô-rin-tô chắc chắn không là thành phố đức hạnh.

*2.Sự mới mẽ của Ki-tô giáo.

Những nhà luân lý ngoại giáo tố cáo cuộc sống phóng túng và đề cao sự khổ chế của thân xác nhân danh chủ nghĩa nhân bản thanh cao và lý tưởng. Thánh Phao-lô đem lại cho luân lý Ki-tô giáo một chiều kích hoàn toàn khác: tội lỗi tác hại đến “những mối quan hệ giữa con người và Thiên Chúa”. Người ta dễ thấy điều nầy ở nơi cách thức sử dụng thân xác của mình. Để sống đức độ, thánh nhân công bố: “Thân xác con người không phải để gian dâm, nhưng để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác”.

*3.Ba luận chứng:

Thánh nhân xây dựng lời công bố này trên ba luận chứng vững chắc tựa như “kiềng ba chân”. Luận chứng thứ nhất gây ấn tượng nhất và cũng mới mẽ nhất trong lịch sử tư tưởng: “Thân xác của chúng ta sẽ được sống lại”. Luận chứng thứ hai được gợi ý cách ngắn gọn: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là chi thể của Đức Ki-tô sao?”. Đây là một trong những đề tài chủ đạo và tâm đắc mà thánh nhân sẽ nhắc lại ở nơi các thư khác. Luận chứng thứ ba dẫn chúng ta lên đến một bình diện không kém phần cao vời: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người”. Được kết hợp với Đức Ki-tô, qua cầu nguyện, Thánh Thể, tận hiến, vân vân, chúng ta không còn ý muốn nào khác ngoài ý muốn của Chúa.

Đặt nền tảng trên ba luận chứng trên, thánh Phao-lô đẩy đến cực điểm khi lên án chống lại tội gian dâm: tội duy nhất làm ô uế thân xác của mình. Thánh nhân nêu bật sự tương phản giữa việc kết hợp với Chúa nhờ đó chúng ta được nâng cao lên đến mức hiệp nhất “tinh thần” với Ngài, và những kết hợp thấp hèn đánh mất phẩm giá của thân xác.

*4.Thân xác chúng ta là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.

Tiếp đó, thánh nhân khai triển phép Rửa Ki-tô giáo: thân xác chúng ta đã trở nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, vì thế, không còn thuộc về chúng ta nữa. Dâng hiến thân xác của mình cho một thần linh nào khác là tội thờ ngẫu tượng (đây cũng là đề tài trong thư gởi tín hữu Ga-lát và thư gởi tín hữu Ê-phê-xô).

*5. Giá máu cứu chuộc của Đức Giê-su.

Lời ghi nhận cuối cùng được diễn tả đầy cảm xúc: “Thiên Chúa đã trả giá rất đắt mà chuộc lấy anh em”. Đức Ki-tô không khinh chê thân xác bởi vì Ngài đã mặc lấy một thân xác như chúng ta. Thân xác này, Đức Ki tô đã hiến dâng để bị đóng đinh vào thập giá, ngõ hầu nhờ hy tế nầy, chúng ta được dự phần vào sự sống thần linh của Ngài. Chúng ta không được làm tổn hại đến thiên ân mà Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt như thế. Vì thế, câu kết luận tất yếu phải có là: “Anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em”.

Trong đoạn văn đậm đặc đạo lý nầy, thánh nhân chỉ gợi ý, bắt đầu với ơn Phục Sinh và kết thúc với ơn Cứu Chuộc, đây là hai thái cực bất khả phân của khoa thần học thánh Phao-lô.

TIN MỪNG (Ga 1: 35-42)

Bài Đọc I tường thuật ơn gọi của cậu bé Sa-mu-en, cậu được thánh hiến cho Thiên Chúa ngay từ lúc còn niên thiếu, trong khi Tin Mừng Gioan trình bày hoàn cảnh ơn gọi của các môn đệ tiên khởi của Đức Giê-su; tâm hồn của họ đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị rồi.

*1.Thời gian: ngày thứ ba của Tuần Lễ Khai Mạc.

Hoạt cảnh được định vị ở bên bờ sông Gio-đan hay trong vùng phụ cận. Theo diễn tiến thời gian của “tuần lễ khai mạc”, hoạt cảnh nầy được định vị vào ngày thứ ba sau ngày thứ nhất Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Đức Giê-su trước giáo quyền Do thái và ngày thứ hai ông làm chứng cho Đức Giê-su trước đám đông dân chúng. Hoạt cảnh diễn ra cuộc cuộc gặp gỡ này được định vị “vào ngày thứ ba” thật có ý nghĩa, nó gợi lên biến cố Phục Sinh tương lai. Chính là vào buổi chiều “ngày thứ ba” của biến cố Phục Sinh sau khi Đức Giê-su đã chịu chết và mai táng trong mộ, các Tông Đồ đã phân tán, nay quy tụ lại, nghĩa là Giáo Hội được khai sinh. Vì thế, việc khai sinh Giáo Hội ẩn hiện trong câu chuyện nầy. Ơn gọi của ba môn đệ đầu tiên trong đó có Phê-rô, vì thế, Giáo Hội được ươm mầm rồi. Chính đó là lý do tại sao thánh ký đặt việc Chúa Giê-su đổi tên ông Si-mon thành “Kê-pha” (“Phê-rô”) ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên.

*2.Tước hiệu: “Chiên Thiên Chúa”.

Hoạt cảnh rất sống động và tự nhiên. Gioan Tẩy Giả đang đứng với hai môn đệ của mình. Khi thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông nói với hai môn đệ về Đức Giê-su dưới tước hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Tước hiệu nầy muốn nói lên điều gì?

*2.1-Chiên Vượt Qua.

Đối với người Ki-tô hữu, mà sách Tin Mừng thứ tư này viết cho họ, tước hiệu nầy gợi lên Hy Tế Vượt Qua của Đức Giê-su, Ngài bị kết án tử vào đúng thời điểm chiên Vượt Qua bị sát tế ở tại sân Đền Thờ (Ga 19: 14). Ngoài ra, các bản văn Kinh Thánh đã mô tả “Người Tôi Trung” bị nhục mạ, bị ngược đãi thậm tệ, chẳng mở miệng oán than, “như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53: 7). Chúng ta biết các Tông Đồ đã trải qua biết bao khó khăn mới có thể chấp nhận ý tưởng về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ và bị đóng đinh.

Rõ ràng đây không thể là quan niệm của vị Tiền Hô khi gọi Đức Giê-su dưới tước hiệu Chiên Thiên Chúa, vì thánh nhân không được diễm phúc thấy cuộc Hiến Tế của Đức Giê-su như Con Chiên bị sát tế. Xem ra đối với Gioan Tẩy Giả, “Chiên Thiên Chúa” là hình ảnh của sự tinh tuyền và thánh thiện. Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã thấy “Thần Khí ngự xuống trên Ngài” (Ga 1: 32), được sánh ví với “Chiên Vượt Qua” mà Luật đòi buộc “không tì vết”.

*2.2-Chiên Khải Hoàn.

Mặt khác, vài bản văn thuộc trào lưu khải huyền Do thái đã gợi ra rằng Đấng Mê-si-a sắp đến như một con chiên yếu đuối, nhưng ở nơi con chiên nầy Thiên Chúa ban sức mạnh và quyền năng, vì thế, đây sẽ là con chiên khải hoàn (không phải Thiên Chúa thường sử dụng những người bé nhỏ và yếu đuối để thực hiện những dự định vĩ đại của Ngài sao?). Trong sách Khải Huyền của mình, thánh Gioan Tông Đồ lấy lại hình ảnh “Chiên Khải Hoàn” được liên kết với hình ảnh “Chiên bị sát tế”. Cả hai hình ảnh nầy diễn tả chỉ một nhân vật: Đức Giê-su Ki-tô.

Vì thế, như thường thấy trong Tin Mừng thứ tư, tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” giả thiết nhiều mức độ đọc và hiểu khác nhau.

*3.Các nhân vật.

Chúng ta biết rất rõ các nhân vật của hoạt cảnh nầy. Tuy nhiên, thái độ của mỗi nhân vật đáng cho chúng ta gẫm suy.

*3.1-Gioan Tẩy Giả.

Trước hết, Gioan Tẩy Giả là một nhân vật đáng được ngưỡng mộ. Ông biết Đấng Mê-si-a có mặt ở đó. Ông mời gọi các môn đệ của mình đến gặp Ngài. Ông sẵn sàng nhường các môn đệ thân tín của mình cho Đức Giê-su. Ông có thể đi theo Đấng mà ông tiên cảm sự cao cả của Ngài. Nhưng không, sứ mạng của ông chính là chuẩn bị các tâm hồn, niềm vui của ông chính là mặc khải cho người khác nhận ra Chúa Giê-su: “Tôi đây không phải là Đức Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn” (Ga 3: 28-29). Ông gieo nhưng Đức Giê-su gặt.

*3.2-Ba môn đệ.

Ông An-rê, một môn đệ ẩn danh mà truyền thống sau này nhận dạng là Gioan Tông Đồ, tác giả của Tin Mừng thứ tư này, và ông Phê-rô là em của ông An-rê. Ba người này làm gì ở trong hoang địa miền Giu-đa này? Họ là những ngư phủ đến từ biển hồ Ti-bê-ri-a để nghe Gioan Tẩy Giả rao giảng, vì danh tiếng của ông đã vang dội đến tận nơi họ đang sinh sống. Lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả rất nghiêm khắc, nhưng chắc chắn đã chinh phục bầu nhiệt huyết của ba ngư phủ trẻ tuổi này. Từ khi vị Tiền Hô chỉ cho họ “Chiên Thiên Chúa”, họ không chút ngần ngại bám theo Đức Giê-su. Như vậy, đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với Đức Giê-su. Đoạn, họ trở về miền Ga-li-lê tiếp tục công việc chài lưới của mình. Tuy nhiên, ơn gọi của họ sẽ chín mùi; và rồi một ngày kia, trước tiếng gọi bất ngờ của Ngài: “Hãy theo tôi”, “họ rời bỏ tất cả mà theo Ngài”. Đó là lần ra đi theo đuổi ơn gọi của mình một cách dứt khoát.

*3.3-Đức Giê-su.

Trong đoạn Tin Mừng nầy, thánh Gioan phác họa đôi nét về Đức Giê-su và ghi lại vài lời đầu tiên của Ngài.

Chính Đức Giê-su có sáng kiến bắt chuyện với hai người thanh niên đang dò dẫm bước đi theo sau Ngài – và sau này cũng sẽ là như vậy khi Ngài mời gọi họ làm môn đệ của Ngài. Khi thấy hai người đi theo mình, Chúa Giê-su quay lại và hỏi: “Các anh tìm gì thế?”; họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Câu trả lời của Đức Giê-su: “Đến mà xem”, thật giản dị nhưng gợi lên sự hiếu kỳ ở nơi họ. Thế là “họ đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy”. Nhưng thánh ký không nói cho chúng ta biết chính xác nơi ở của Ngài, bởi vì trong cuộc đời công khai, Đức Giê-su không có một mái nhà để trú ngụ. Thánh ký không nói cho chúng ta biết bất cứ điều gì về nơi ở của Ngài, cũng không cho chúng ta biết bất cứ điều gì về cuộc chuyện trò đầu tiên của Ngài với hai người môn đệ này. Tuy nhiên, tác động của cuộc gặp gỡ đầu tiên này ghi dấu ấn không thể xóa nhòa trong tâm khảm của họ qua tiếng reo vui của ông An-rê khi gặp em mình là Phê-rô: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a”.

Từ giây phút nầy, thánh ký giữ mãi kỷ niệm sống động nầy, vì thời gian đã trôi qua rất lâu sau đó, ấy vậy, ông không thể nào quên giây phút tuyệt vời này: “Đó là vào khoảng giờ thứ mười” (tức bốn giờ chiều). Đây là chi tiết của một chứng nhân nhưng cũng là chữ ký của người bạn đồng hành ẩn danh của ông An-rê, tức là Tông Đồ Gioan, tác giả sách Tin Mừng mang tên ông.

*4.Hai cái nhìn.

 Chắc chắn ấn tượng chúng ta có khi đọc bản văn nầy đó là câu chuyện bắt đầu và kết thúc trên một cái nhìn. Cái nhìn đầu tiên là cái nhìn của Gioan Tẩy Giả, cái nhìn của một vị ngôn sứ nhận ra Đấng Mê-si-a, nhưng không biết chính xác Đấng ấy sẽ như thế nào. Và cái nhìn của Đức Giê-su trên Phê-rô, cái nhìn thấu suốt đến tận cõi tâm can, cái nhìn xa trông rộng đến tận tương lai, và từ đó xác định sự chọn lựa của mình. Sẽ còn có những cái nhìn khác của Đức Giê-su trên Phê-rô. Thánh ký sẽ khai triển cái nhìn của Đức Giê-su một cách sâu xa trong Tin Mừng của mình.

home Mục lục Lưu trữ