Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 39
Tổng truy cập: 1372823
HÃY DỌN ĐƯỜNG
Hãy dọn đường - Mark Link
Chủ đề: “Mùa vọng là thời gian để trở về với những gì nền tảng và đặt Đức Giêsu Kitô lên hàng đầu trong cuộc đời ta”.
Trong cuốn “Nội lực nơi bạn” (the power within you), Pat William ở tiểu bang Philadelphia có kể một câu chuyện đặc biệt sau đây:
Năm 1980, vào một buổi trưa Chúa nhật nóng bức, một bệnh nhân trẻ bị chứng tê liệt não bộ tên là Cordell Brown đang đi bộ đến câu lạc bộ quán quân thế giới Philadelphia Phillies. Cordell bước đi hết sức khó khăn, nói năng cũng rất là khó. Ăn uống đối với anh là một bổn phận hết sức nặng nhọc. Khi thấy Cordell tới, nhiều người quay mặt đi đàng khác, hoặc cố tình không nhìn thấy anh. Đó là cách phản ứng của một số người trong hội Phillies khi thấy Cordell đi tới câu lạc bộ.
Cordell làm gì trong câu lạc bộ Phillies vậy? Anh được mời tới đó để nói chuyện với những tay ăn chơi trong một buổi nói chuyện tại nhà nguyện câu lạc bộ.
Cordell có thể nói gì với những ngôi sao màn bạc như Steve Carleton và Mike Schmit, những người sống rất xa cách với thế giới đau khổ và dị tật của anh?
Một vài người trong hội Phillies cũng tự hỏi như thế khi họ ngồi xuống để chuẩn bị nghe anh nói. Cordell bắt đầu bằng cách làm sao cho các tay ăn chơi đó cảm thấy thoải mái dễ chịu. Anh nói: "Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn". Rồi anh trưng đoạn thư Thánh Phaolô (1Cr. 15,10): nhưng nhờ ơn của Thiên Chúa mà tôi được như thế này.
Suốt 20 phút kế đó, Cordell đã nói về lòng nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc sống của anh. Anh kết luận bằng cách trả lời cho câu hỏi này: Anh có thể nói gì với những siêu minh tinh nổi tiếng như Steve Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa cách với thế giới của những người đau khổ tật nguyền như anh?
Cordell nói một cách rất duyên dáng: "Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp hòm quan tài của bạn lại, thì bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc mà mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng: các bạn cần một điều mà tôi đang có, đó là Đức Giêsu Kitô".
Tôi thích câu chuyện này vì hai lý do:
Trước hết, nó nói cho chúng ta về Mùa vọng. Nó mời gọi chúng ta trở về với những gì nền tảng. Nó mời chúng ta tự hỏi chính mình xem: Cái gì thực sự là quan trọng đối với chúng ta? Nó mời chúng ta nhìn vào những cái chúng ta phải coi là ưu tiên trong cuộc đời mình. Nhất là nó hỏi chúng ta xem Đức Giêsu Kitô có phải là ưu tiên số một trong cuộc đời của chúng ta hay không?
Và điều này dẫn chúng ta tới điểm thứ hai về câu chuyện của Cordell Brown. Nó nói với chúng ta về những bài học Thánh Kinh ngày hôm nay.
Cả ba bài đọc đều nói nói về sự cần thiết phải dọn đường cho Chúa đến. Cả ba bài đọc đều nói rằng: chúng ta không sống đúng như cái mình phải sống, thì chúng ta phải chịu trách nhiệm về điều đó.
Nói cách khác, nếu chúng ta đi sai không đúng theo căn bản, thì những bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về với những cái nền tảng ấy.
Nếu chúng ta đặt công việc của chúng ta lên hàng đầu trước cả gia đình chúng ta, thì những bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta sửa chữa lại tình trạng ấy.
Nếu chúng ta đặt sự thành công lên trước tương quan cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa, thì các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta thay đổi thái độ đó.
Tại Tu viện Westminster ở Luân Đôn, có một nhà nguyện nhỏ tên là "nhà nguyện thánh Grêgôriô". Nhà nguyện này được xây lên để tưởng niệm những người dân Luân Đôn bị mất mạng vì máy bay oanh tạc thời đệ nhị thế chiến. Trong nhà nguyện có bốn cuốn sách lớn, trong đó có ghi tên 6.000 tên các nạn nhân cuộc không kích đó. Một cuốn mở ra và trên trang sách lấp lánh ánh sáng có ghi một số tên nạn nhân. Mỗi ngày người ta giở ra một trang để phơi ra một số những tên mới. Khi bạn nhìn và đọc cột tên dài ấy, bạn không sao biết được người có tên mà bạn đọc thấy nghèo hay giầu, da đen, da trắng hay da nâu, là Kitô hữu, là Do Thái hay là vô thần, gìa hay trẻ, đẹp hay xấu.
Lúc đó không còn có một khác biệt nào nữa. Lúc đó tất cả những gì xẩy ra đều tùy thuộc vào bản chất con người mà mỗi người tạo ra cho mình còn sống trên dương thế.
Câu chuyện của Cordell Brown và câu chuyện nhà nguyện Thánh Grêgoriô của Tu viện Westmister khiến chúng ta tự hỏi: chúng ta phải làm gì nếu chúng ta thấy mình đã không sống đúng như cách chúng ta phải sống? chúng ta phải làm gì nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta không chuẩn bị ngày giờ chết, hay chuẩn bị cho ngày Đức Giêsu tái lâm bất chấp ngày nào đến trước?
Dĩ nhiên câu trả lời là: chúng ta phải làm đúng những gì Gioan Tẩy Giả đã đề nghị cho dân chúng thời ông làm. Chúng ta phải sám hối, phải xin Thiên Chúa tha thứ những lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta phải cải tà qui chánh và phải bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là tất cả những gì Mùa vọng muốn nói đến. Đó là thời gian để chúng ta kiểm tra lại đời sống của mình và làm tất cả những thay đổi cần thiết trong đời sống.
Điều này đem chúng ta trở lại với câu chuyện đáng ghi nhớ của Cordell Brown và câu hỏi được nêu ra trong câu chuyện. Anh có thể nói gì với các siêu minh tinh như Steve Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa cách với thế giới đau khổ tật nguyền của anh? và Cordell phải nói gì với bạn và tôi?
Cordell đã trả lời câu hỏi đó một cách duyên dáng:
"Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi này giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, ngày đó bạn sẽ chẳng khác gì tôi chút nào. Đó là lúc mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng điều duy nhất tôi chắc chắn là: các bạn cần cái tôi đang có, và đó chính là Đức Giêsu Kitô".
Để kết thúc, chúng ta hãy thưởng thức một bài thơ cổ, nói về cuộc đời này chóng qua thế nào và điều gì quan trọng vào giây phút cuối cùng:
" Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười và khóc, thì lúc đó thấy thời gian bò tới.
" Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn, thì thấy thời gian đi bộ.
" Khi tôi trưởng thành, tôi là một người chững chặc, thì thấy thời gian chạy.
" Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, thì thấy thời gian bay.
" Chẳng bao lâu nữa là tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất.
" Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa.".
67. Thay đổi
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Gioan Tẩy Giả là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế. Ngài đã sống và thi hành sứ mạng của ngài thế nào? Ngài sống rất khổ hạnh từ buổi thiếu thời: y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, là một kiểu áo hãm mình mà các ngôn sứ xưa thường dùng, ngang lưng thắt một dây da cho gọn ghẽ, còn của ăn lại càng bấp bênh hơn nhờ vào “may rủi”, là ăn châu chấu độn với mật ong rừng. Gioan ăn mặc như thế mà đi rao giảng khắp vùng Giu-đê, Ga-li-lê và quanh sông Gio-đan. Bấy giờ mùa màng vừa gặt hái xong, thời vụ mới cũng chưa tới, nên dân chúng rảnh rang kéo nhau đến rất đông để nghe ngài giảng, cả những người lãnh đạo cũng sai người tới hỏi ngài là ai? Ngài chỉ mượn lời ngôn sứ I-sai-a để trả lời: tôi không là ai cả, chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Thực vậy, ngài làm phép rửa và rao giảng kêu gọi mọi người thay đổi đời sống để đón Đấng Cứu Thế đến. Phép rửa của Gioan, xét về hình thức thì giống như phép rửa của đạo Do Thái, là dìm mình ở nước sông Gio-đan, để từ bỏ ngoại giáo và dứt khoát trở về tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng phép rửa của Gioan có một hướng mới, khác hẳn đạo Do Thái, là hướng về luân lý, dùng công bằng, bác ái, chân thật để sửa soạn cho nước Đấng Cứu Thế. Vì vậy, phép rửa của Gioan chuẩn bị cho phép rửa của Chúa Giêsu, giúp người ta sám hối, sửa soạn cho việc tha tội. Cho nên, phép rửa của Gioan không phải là một bí tích, nghĩa là không tự động tức khắc tha tội.
Đàng khác, cùng với việc làm phép rửa, Gioan Tiền Hô còn giảng dạy, kêu gọi mọi người hãy thay đổi đời sống để đón nhận Đấng Cứu Thế: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Điệp khúc rao giảng của ngài là hãy ăn năn sám hối, lời giảng của ngài làm chấn động mọi tầng lớp, mọi thứ người, từ lớp rắn lục trở xuống, nghĩa là những người có chức quyền, nhưng lươn lẹo, cố chấp, cả vua Hê-rô-đê cũng bằng lòng nghe ngài giảng. Sử gia Phơ-la-vi-ô đã ghi nhận: “Gioan có ảnh hưởng sâu đậm trên quần chúng, đến nỗi họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì ông dạy bảo, hết mọi hạng người đến gặp ngài để xin ngài chỉ dạy cách phải sống”.
Đối với chúng ta ngày nay, lời kêu gọi “hãy ăn năn sám hối” của Gioan phải chăng đã nhàm chán và lỗi thời? hoặc trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, lời kêu gọi hãy thay đổi đời sống của Gioan phải chăng không còn cần thiết? Nhàm chán thì có nhàm chán thật, vì lúc nào chúng ta cũng nghe lặp đi lặp lại những lời khuyên đó hoặc những lời tương tự như hãy tu thân tích đức, đừng kiêu ngạo, đừng gian tham, đừng bất công, đừng sống phản bác ái, lỗi tình thương… Nhưng còn lỗi thời thì sao? có lỗi thời không? Có thể nói, ngày nào còn con người là còn luân lý, còn giáo dục, còn khuyên răn, và bao lâu còn tội lỗi, còn tranh chấp, còn tệ đoan, còn tiêu cực, thì còn phải sửa chữa, phải thay đổi để trở nên tốt hơn, và như vậy lời kêu gọi của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết, không bao giờ lỗi thời.
Tất cả chúng ta đều biết: bước đầu tiên để kiến tạo một xã hội, một thế giới tốt đẹp, là con người phải hiểu rõ “cái tôi” của mình, từ đó mới làm chủ được bản thân và cùng hòa nhịp vào cuộc sống với mọi ngưới, đúng như quan niệm từ ngàn xưa của Khổng Tử: “Thành ý, chính tâm, tu thân” rồi mới “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Con người sống trong xã hội có ảnh hưởng hỗ tương và liên đới trách nhiệm với nhau rất mật thiết, một con én không làm nên mùa xuân, nhưng một phần tử xấu cũng đủ làm hư hỏng một gia đình và cả xã hội, “con sâu làm rầu nồi canh” là như thế.
Vì vậy, mỗi Mùa Vọng chúng ta lại có dịp xét mình, kiểm điểm đời sống, cách suy nghĩ qua lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn. Nói khác đi, chúng ta cần phải thay đổi cách sống và lối suy nghĩ không phù hợp với lời Chúa hay không đúng với lương tâm và lương tri của mình.
Trên đời này có cái gì không thay đổi chăng? có người nói chơi: chỉ có chữ “thay đổi” là không thay đổi mà thôi, nghĩa là cái gì trên đời này cũng thay đổi. Thế giới này có nhiều sự thay đổi, và có những cái thay đổi ảnh hưởng tới chúng ta, nhưng cái cần thiết nhất là lòng chúng ta phải thay đổi. Khi lòng mình được thay đổi thì mọi sự sẽ được đổi thay. Chúng ta đừng mong ngoại cảnh thay đổi lòng mình, chính lòng chúng ta phải được thay đổi trước đã thì ngoại cảnh mới thay đổi theo, như câu chuyện sau: có một cụ già kia sống giữa hai gia đình: một gia đình làm nghề thợ rèn và một gia đình làm nghề thợ mộc, cả hai gia đình này gây tiếng động ồn ào suốt ngày. Cụ già không chịu được, năn nỉ họ đổi đi nơi khác, nhưng họ cứ nhùng nhằng mãi, sau cùng họ đồng ý đổi đi, họ đổi đi đâu? họ đổi nhà cho nhau, như vậy cụ già kia chẳng được gì. Muốn thay đổi, chính cụ phải thay đổi, chính cụ phải dọn nhà ra đi.
Đàng khác, có người không muốn thay đổi gì hay chỉ ưa thay đổi tạm bợ và bằng lòng với phương pháp gọi là tu sửa ít phần trăm, có người lại sợ đổi mất cả cái ít phần trăm đó, vì thế, dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào thì lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô vẫn là một lời khẩn thiết, xin mỗi người hãy lắng nghe và thực hiện để kinh nghiệm được những ơn phúc của Mùa Vọng. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều thay đổi, đều đổi mới từ tư tưởng tới hành động để trở thành những con người mới thực sự.
68. Sứ vụ của Gioan – Lm FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Có thể theo G. Gnilka mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin Mừng Máccô: phần này đăt trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng khung với từ “Tin Mừng” ở đầu và cuối đoạn). Như thế, đoạn văn 1,1-8 là đoạn mở đầu của Lời tựa này liên hệ đến hoạt động của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Danh hiệu của Tin Mừng (1,1);
2) Hoạt động của Gioan (1,2-6):
a) Câu trích Isaia xác định vai trò của Gioan (cc. 2-3),
b) Giới thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động của Gioan (cc. 4-6);
3) Lời loan báo của Gioan (1,7-8).
3.- Vài điểm chú giải
- Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (1): Câu này là tiêu đề của cc. 1-8 nói về công việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả, hay là tiêu đề của phần Mở (cc. 1-15), hoặc của toàn tác phẩm? Phải chăng sứ vụ, cuộc Khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu chỉ là khởi đầu của Tin Mừng, và Tin Mừng sẽ được tiếp tục loan truyền nhờ sứ vụ của Giáo Hội? Thật ra, không có gì cho thấy rằng Mc coi hoạt động của Giáo Hội như một phần của Tin Mừng cả, y như thể Giáo Hội phải tự rao giảng về chính mình. Cứ theo nội dung của tác phẩm, ta thấy Tin Mừng mà Giáo Hội phải công bố chính là biến cố cứu độ đã xảy ra trước khi có Giáo Hội và đã khai sinh ra Giáo Hội, đó là sứ vụ của Đức Giêsu và cuộc Vượt Qua của Người.
Có thể nói c. 1 này là tiêu đề của phần Mở của Tin Mừng Máccô: hoạt động của Gioan, vị Tiền Hô loan báo và ban phép rửa cho Đức Kitô, trong hoang địa, là phần mở cho biến cố cánh chung (sứ vụ, cuộc đời đau khổ và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu).
Từ ngữ “Tin Mừng”, được vay mượn từ Cựu Ước (x. Is 40,9; 52,7; 61,1…), được hiểu tương đương với lời loan báo tiên khởi (kêrygma) được triển khai rộng ra (x. Công vụ). Thế mà kêrygma của các Tông đồ (x. Cv 1,21t; 10,37; 13,24) cũng như TM Mc bắt đầu với sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Vậy chính mầu nhiệm này là “khởi đầu Tin Mừng” (x. cùng một kiểu diễn tả: Hôsê 1,2).
- Tin Mừng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa: Phần Mở từ c. 1 đến c. 15: hai từ ngữ “Tin Mừng” đóng khung bản văn này. Kiểu nói “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” có thể hiểu là “Tin Mừng về [= có đối tượng là] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ đối tượng, objective genitive), hoặc “Tin Mừng của [= đến từ] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ chủ từ, subjective genitive), hoặc “Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách giải thích, epexegetic genitive; xem sự song đối giữa “vì Đức Kitô” và “vì Tin Mừng”: 8,35; 10,29; 13,9).
Dưới ánh sáng của biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, theo nghĩa là Người không còn phải là Đấng Mêsia trần thế và dân tộc mà người Do Thái từng mong đợi, nhưng là Đấng huyền nhiệm, đã tỏ mình ra là “Đức Chúa” (x. Cv 2,36) và “Đấng Kitô” (4,26t; 10,38), qua biến cố Phục Sinh, nay ở vào tư thế có thể giải thoát mọi người khỏi Satan, tội lỗi, đau khổ và cái chết. Bây giờ khi đọc lại câu truyện trước Phục Sinh Mc viết ra, họ hiểu rằng tại hoang địa và qua cuộc sống công khai (với những cuộc trừ quỷ), Đức Giêsu đã khai mào chiến thắng bằng sức giải phóng ấy. Họ cũng hiểu rằng Đức Giêsu truyền lệnh giữ thinh lặng (“bí mật thiên sai”) là vì không muốn người ta hiểu lầm về tư cách và sứ vụ của Người: Phêrô đã hiểu sai nội dung danh hiệu Mêsia (x. 8,29-33); Người chỉ nhận là Con Thiên Chúa (14,61t) và kẻ đại diện cho thế giới ngoại giáo chỉ tuyên xưng Người như thế (15,39) vào lúc Người bị kết án và xử tử. Người ta chỉ có thể hiểu tất cả các danh hiệu của Đức Giêsu xuyên qua mầu nhiệm đau khổ của Người. Và các Kitô hữu cũng phải hiểu rằng họ chỉ có thể tuyên xưng Đức Giêsu thật là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa, bằng cách bước theo Người trên con đường đau khổ (x. 8,34; 10,35-45).
- Câu 2-6:
Phân đoạn này có lược đồ A-B-B’-A’:
A = cc. 2-3: mở đầu, trích các ngôn sứ,
B = c. 4: Gioan rao giảng phép rửa tỏ lòng sám hối.
Câu này song đối với câu sau,
B’= c. 5: đám đông đến với Gioan để thú tội và nhận phép rửa,
A’= c. 6: kết, nói đến kiểu sống của Gioan như là một ngôn sứ.
So sánh cc. 2-3 trích Ml 3,1 và Is 40,3 với Mt (3,3; 11,10), Lc (3,4-6; 7,27) và Ga (1,23), ta hiểu các tác giả Tin Mừng có chung một nguồn, nhưng Mc đã vừa thêm vừa tổng hợp câu truyện Gioan rao giảng với bài tường thuật của ngài về nhóm sứ giả, để làm nên một mở đầu long trọng và để có thể nêu bật ý tưởng này là khởi đầu Tin Mừng Cứu Độ đã được chính các ngôn sứ xác định nơi cuộc xuất hiện của Gioan Tẩy Giả.
Mc đã trích Ml 3,1a (… “mặt Ta”) dưới ảnh hưởng của Xh 23,20 LXX (“mặt Con”) để biến vị sứ giả thành tiền hô không phải của Thiên Chúa mà là của “Đức Chúa” (x. Ml 3,1b), là Đức Giêsu. Ngoài ra, hẳn là Mc cũng nghĩ đến đoạn cuối của sách Ml (3,23t): ngôn sứ Êlia có vai trò tiền hô.
Tác giả cũng sử dụng bản văn Is 40,3 (LXX) cùng với các tác giả Tin Mừng khác: “Đức Chúa” đây là Đức Giêsu Kitô, và “vạch lối cho thẳng để Thiên Chúa đi” được sửa thành “để Người đi”.
- đi trước mặt Con = đi trước Con.
- Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện (4): Câu này với các câu trích ở trên chỉ là một câu duy nhất, được ngắt bằng dấu phết: “Chiếu theo lời đã chép …, ông Gioan Tẩy Giả…”. Những gì bây giờ được nói về Gioan thì làm ứng nghiệm các sấm ngôn, đặc biệt sấm ngôn Is 40,3: ông ở “trong hoang địa”, và tại đó ông “hô” để kêu gọi người ta hoán cải, mà “dọn sẵn con đường của Đức Chúa” (Đức Giêsu).
Gioan “rao giảng thanh tẩy hối cải, để được tha thứ tội khiên” (NTT). Đấy là hai hành vi tách biệt nhưng liên hệ với nhau, vì thế đã được diễn tả trong một công thức duy nhất.
- sám hối, metanoia: sự hoán cải, do động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải”. Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương diện tích cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).
Trong Tin Mừng Máccô, danh từ metanoia được dùng 1 lần (1,4) và động từ metanoeô được dùng 2 lần (1,15; 6,12), như thế là ít hơn các TMNL khác (metanoia: Mt 2 lần, Lc 5x, Ga 0x, Cv 6x, Phaolô 4x, Dt 3x, 2 Pr 1x; metanoeô: Mt 5x, Lc 9x, Ga 0x, Cv 5x, Phaolô 1x, Kh 12x), nhưng lại có một cách áp dụng độc đáo. Tác giả áp dụng hai từ này cho hoạt động của Gioan Tẩy Giả (1,4), Đức Giêsu (1,15) và Nhóm Mười Hai (6,12), như vậy liên kết vị Tiền Hô, Đức Giêsu và các sứ giả của Người với nhau (xem một cách dùng tương tự cho hai động từ kêryssein [loan báo]: 1,4.7; 1,14.38t; 3,14 và 6,12; paradidonai [giao nộp]: 1,14; 9,31; 10,33; 13,9.11). Các từ đó lại luôn lệ thuộc động từ kêryssein, nghĩa là các từ đó chính là nội dung của sứ điệp các ông phải mang đi truyền bá.
- phép rửa tỏ lòng sám hối: Cụm từ Hy Lạp baptisma metanoias (thanh tẩy hối cải, x. Lc 3,3; Cv 13,24; 19,4): metanoias ở thuộc-cách (genitive) xác định đặc tính của phép rửa Gioan loan báo. Đây là một kiểu nói Sêmít, có nghĩa là “một phép rửa tượng trưng hoặc diễn tả sự hoán cải”. Cho dù Gioan có thuộc về phong trào Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương tự phép rửa của người Êxêni, nhất là ở điểm cả hai phép rửa đều diễn tả một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai điểm: không nghĩ rằng tội lỗi gây nên một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự đến.
- Mọi người từ khắp miền Galilê và thành Giêrusalem (5): Máccô nhắm cho thấy mục tiêu của sứ vụ Gioan Tẩy Giả là khai mạc giai đoạn cuối cùng của Chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người. Như thế, kiểu nói phóng đại (“toàn thể”, “khắp”) về miền Giuđê và Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của Do Thái giáo, không phải là không có chủ ý, nhất là lại có quy chiếu về việc thanh tẩy Giuđa và Giêrusalem thể theo Ml 3,4 hoặc quy chiếu về sứ điệp vui tươi được ngỏ với Giêrusalem và các thành Giuđa thể theo Is 40,9t. Nay đã khởi sự biến cố cánh chung: câu hỏi phải đặt ra là không biết Dân Thiên Chúa có nhận biết chăng “Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (c. 1) chính là “Đấng quyền thế hơn” (c. 7), Đấng mà Gioan đang dọn đường đón tiếp.
- kéo đến: Thì vị hoàn (imperfect) exeporeueto diễn tả chuỗi người liên tục kéo đến để nghe Gioan giảng và nhận phép rửa. Giới từ ek (out, of) muốn nói là ra khỏi miền Giuđê và thành Giêrusalem.
- Gioan mặc áo lông lạc đà… (6): ên.. endedymenos: trợ động từ eimi ở thì vị hoàn cộng với phân từ quá khứ của động từ chính endyô nói lên cách thức ăn mặc quen thuộc của Gioan. Ông được giới thiệu có cách sống như một con người của hoang địa, một nhà khổ hạnh, một na-dia (x. Lc 1,15), tương tự ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8; Dcr 13,4).
Trichas kamêlou, “lông lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà. Đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “girdle, waitsband; ceinture”, không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ như cái “ruột tượng” của ta (x. Mc 6,8).
- Ăn châu chấu: Châu chấu luộc trong nước muối rồi nướng trên than và mật ong rừng là hai thứ lương thực của dân cư sa mạc. Vì bản văn không kể ra thứ lương thực nào khác, ta hiểu ở đây tác giả muốn nêu bật nếp sống khắc khổ của vị Tẩy Giả.
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do động từ Hy Lạp kêryssein, “công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn, để diễn tả đây là một hoạt động thường xuyên của Gioan. Chúng ta đến đỉnh cao của đoạn văn này, bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô cho.
- Đấng quyền thế hơn tôi: Có lẽ danh xưng này ám chỉ đến Is 40,10 (“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [= đến với sức mạnh], tay nắm trọn chủ quyền”). Sự tương phản giữa hai bên lớn đến nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người”, mà đây là công việc thấp hèn đến nỗi một nô lệ Do Thái cũng không buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x. Mt 3,11; Lc 3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- trong Thánh Thần (8): Các bản văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố Triều Đại cánh chung của Thiên Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến phán xét. Nhờ đó, Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý nghĩa tích cực là một cuộc tái sinh bên trong.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Danh hiệu của Tin Mừng (1)
Cả bốn quyển mở đầu bộ Tân Ước chỉ bắt đầu được gọi là “Tin Mừng” nhiều năm sau khi được viết ra. Vào thời tác giả Máccô, “Tin Mừng” không có nghĩa là một quyển sách, mà là “những tin vui” do một sứ giả mang đến. “Các tin mừng” là những tin về các chiến thắng, các biến cố may lành, các hiệp ước hòa bình và nhất là tin về các cuộc chào đời. “Các tin mừng” làm bừng lên những niềm hy vọng về một cuộc sống tiện nghi, sức khỏe, bình an, nên dân chúng vui sướng khi nghe được.
Mc 1,1 dùng từ ngữ “tin mừng” để giới thiệu “lời rao giảng của Kitô giáo”, cho chúng ta biết việc cứu độ và hạnh phúc không còn là kết quả của những tin vui về hoàng đế hoặc về một ai đó giống như hoàng đế, nhưng là kết quả đến từ lời rao giảng của Đức Giêsu, cũng là lời giảng về Đức Giêsu, cho thấy đã đến lúc Thiên Chúa can thiệp chung kết vào lịch sử loài người.
* Hoạt động của Gioan (2-6)
Câu trích tổng hợp Is, Ml và Xh (cc. 2-3) có mục đích xác định vai trò của Gioan trong quan hệ với Đấng Mêsia mà ta biết là chính Đức Giêsu. Nhưng một nét được nêu bật là Gioan không phải là vị Tiền Hô của Con Người sẽ đến, mà là của Đức Giêsu trần thế.
Còn cc. 4-6 giới thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động của Gioan: ông loan báo phép rửa bày tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Tác giả đặt đối lập phép rửa bằng nước của Gioan và phép rửa bằng Thánh Thần của Đấng Mêsia. Phép rửa bằng Thánh Thần liên hệ rõ ràng đến phép rửa tội Kitô giáo. Nói đến “để được ơn tha tội” là nêu một khẳng định liên hệ đến Thiên Chúa: Ngài sẵn sàng tha thứ các tội lỗi; nói đến “sám hối” là nêu một khẳng định về loài người: họ có tội và được dạy rằng Thiên Chúa tha tội cho họ. Sứ điệp của Gioan đưa đến cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui.
Dân chúng đã từ khắp nơi kéo đến (khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem); tác giả không nói đến Galilê, vì theo ngài, hoạt động của vị Tiền Hô tập trung vào miền nam. Họ thú nhận tội lỗi: ta có thể nghĩ đến một hành vi tương tự mà các thành viên ở Qumrân làm vào lễ tái lập giao ước (1 QS 1,22–2,1) hoặc người Do Thái làm vào ngày Lễ Xá Tội.
* Lời loan báo của Gioan (7-8)
Tương hợp với câu trích Is nói về tiếng nói của người loan báo, hoạt động của Gioan được mô tả như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”; “phổ biến” (kçryssein). Hành vi này đưa ông đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ (3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối lập giữa phép rửa của ông với phép rửa của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang đến.
+ Kết luận
Đến đây, chúng ta đã có thể hiểu vì sao sứ vụ của Gioan lại là “khởi đầu Tin Mừng”. Bởi vì Tin Mừng là biến cố trước khi là sứ điệp. Qua vị Tẩy Giả, Thiên Chúa thực hiện các Lời Ngài hứa (cc. 2-3); Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Giêsu, Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần (cc. 6-8). Như thế, sứ vụ của Gioan đã thuộc về biến cố cánh chung, biến cố này xảy ra khi Đức Giêsu bắt đầu rao giảng tại Galilê và các môn đệ rao giảng khắp tứ phương thiên hạ.
Gioan chỉ là một sứ giả “đi trước mặt” Đức Chúa (c. 2). Nhưng cũng chính ông có nhiệm vụ viết trang dẫn nhập vào Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Chính vì thế, “trong số phàm nhân lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta được mời gọi tin vào sự trung tín của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì khi đến thời Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan loan báo mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho họ biết rằng họ bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót đối với họ và Ngài muốn thắng vượt tình trạng thất sủng của họ. Đoạn văn này cũng cho thấy Ba Ngôi (Đấng xưng là “Ta”, “Đấng quyền thế hơn” và “Thánh Thần”) cùng làm việc để thực hiện công trình cứu độ.
2. Gioan không xác định tội ông nói đến là tội gì. Dĩ nhiên ông có thể hiểu ngầm rằng những người đang nghe ông biết các tội của họ. Từ sự hiểu biết này phát sinh ước muốn thú nhận các tội lỗi của mình (1,5). Tuy nhiên, tội căn bản là loài người không nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình và là Chúa tể của mình, không tự hỏi về ý muốn của Thiên Chúa, nhưng muốn làm chúa tể của chính mình, đi theo những ý muốn của mình. Đặc biệt tội hệ tại việc không tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa vì các điều răn cho biết ý muốn của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
4. Vị Tẩy Giả nhìn người ta lên khỏi nước. Ông gạt đi các lời cám ơn và ca ngợi. Ông nói với họ về “Đấng quyền thế hơn”, Đấng sẽ ban cho họ Thần Khí của đời sống mới. Đời sống này sẽ khởi sự khi người ta nhận ra và đón tiếp Đức Kitô cùng với sự khôn ngoan của Người vào lòng. Họ đang ở tại bờ của một khởi đầu; họ cần sẵn sàng, khao khát, mở lòng ra.
69. Chú giải và suy niệm của Quesson
Hôm nay, chúng ta sẽ đọc trang đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô. Trong suốt năm phục vụ này, năm B, chúng ta sẽ đọc cách đặc biệt Tin Mừng Maccô.
Truyền thống thường giới thiệu Maccô như môn đệ của Phêrô. Vì thế trong trình thuật của ông, ta được nghe lại những kỷ niệm và giáo lý của vị tông đồ, đã từng mục kích Đức Giêsu. Người ta cho rằng: Tin Mừng này đã được soạn thảo tại Rôma, khoảng năm 70, và gửi cho một cộng đồng Latô gồm những người gốc ngoại giáo, chưa từng sống tại Palestine.
So sánh với ba Tin Mừng khác, Tin Mừng của thánh Maccô rất thực tế: đó là câu truyện của một người bình dân, có những nét gây thích thú. Nhưng ta đừng vội lầm, Maccô cũng là một nhà thần học, sẽ tỏ lộ cho ta cuộc khám phá dần dần của Phêrô. Suốt trong phần đầu, mọi người đều tự hỏi: “Đức Giêsu là ai!” Đức Giêsu thể hiện những hành động, nói những lời luôn đặt thành vấn đề. Nhưng thật lạ lùng. Người vẫn đặt “bí mật” trên con người mình. Mãi tới phần thứ hai của đời sống công khai, người mới từ từ thông tỏ về bản thân Người.
Khung cảnh địa lý Máccô sử dụng cũng mang tính thần học. Theo đó ông đề cao xứ Galilê, miền đất mở ngở và để đón nhận sứ điệp của Đức Giêsu, nghịch lại với Giêrusalem, thành phố luôn chối từ Đức Giêsu.. Hơn nữa đối với Maccô, biển hồ Galilê mang một ý nghĩa biểu tượng (Phêrô người thuyền chài, biết rõ từng vũng nhỏ trong hồ ông sinh sống!). Bờ hồ phía tây, là người Do Thái. Bờ hồ phía đông, là anh em dân ngoại Máccô có ý nhấn mạnh cho ta thấy, Đức Giêsu đang đi vào "miền đất ngoại giáo "... như thế khai mở "vùng truyền giáo" của Giáo Hội mà Tin Mừng ông muốn gửi tới.
Cuối cùng Tin Mừng của Maccô đượm vẻ "bi thảm”. Ba nhóm người được miêu tả trong đó. Trước hết đó là Đức Giêsu và các môn đệ của Người, luôn chung sống với nhau. Rồi tới đám dân chúng theo Đức Giêsu, nhưng không hiểu biết gì về Người. Sau hết, đó là các kẻ thù nghịch, ngay từ đầu chỉ xoi mói rình rập nhằm kết án Đức Giêsu.
Khởi đầu Tin Mừng.
Có lẽ không phải là ngẫu nhiên mà lời đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô cũng là lời đầu tiên trong Bộ Kinh thánh: 'Khởi đầu trời và đất" (St 1,1). Thánh Gioan cũng sử dụng cùng một từ đó, cũng bắt đầu Lời tựa trong Tin Mừng của ông: “Khởi đầu vẫn có Ngôi Lời" (Ga 1,1). Còn Mát-thêu và Luca, cũng gợi lên thực tại của một khởi đầu này: “Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô " (Mt 1, 18; Lc 1 3). Như thế, cả bốn thánh sử đều gợi lên cho ta thấy, nhờ Đức Giêsu, chương trình của Thiên Chúa đã có một bước khởi đầu mới: Có thể nói, một cuộc tạo thành mới đang khởi sự. Và mỗi năm, Mùa Vọng bắt đầu, cũng là một dịp khởi đầu lại. Lạy Chúa, thế mà chúng con vẫn thích dừng chân tại chỗ để thốt lên: Đủ rồi, xin Chúa không ngừng ban lại cho chúng con tinh thần biết "khởi sự". Xin làm sống lại trong chúng con niềm hy vọng.
“Tin Mừng": Chúng ta quá quen thuộc với từ này. Nó dịch từ tiếng Hy Lạp “Evangélion”. Nhưng từ này không có ý diễn tả “một cuốn sách" hay một sự việc. Đó là Tin Mừng nước Thiên Chúa đã khơi sự trong con người của Đức Giêsu. "Tin Mừng”, đó là sự sống lại, là Phục sinh, là sự chiến thắng vĩnh viễn của sự sống? Tin Mừng phát xuất từ sấm ngôn của I-sai-a, khi ông loan báo cho những người bị lưu đày biết tình trạng khổ ái của họ sắp chấm dứt: “Hãy an ui, hãy an ủi dân Ta... Dịch vụ của nó mãn rồi. Hãy nhủ lòng cùng Giêrusalem, hãy công bố tội của nó được tha. Hãy lên núi cao, hỡi Sion, người loan Tin Mùng. Hãy gióng tiếng lên cho mạnh và loan báo: Kìa Thiên Chúa của ngươi đang đến... (Is 40,1-11). Tôi có tin tưởng như thế không? Đức tin của tôi có là một thứ gánh nặng, tôi phải vất vả đeo mang, hay là một Tin Mừng “Vui tươi”, “Tốt đẹp”, "Tuyệt diệu”.
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, con Thiên Chúa.
Ngay từ dòng đầu của Tin Mừng, Máccô đã nói ngay nếu ông muốn bàn. Những “tước hiệu" trên đây của Đức Giêsu là chìa khóa khai mở toàn bộ trình thuật của ông. Những tước hiệu đó sẽ được lặp lại vào giây phút cuối đời; khi một người "dân ngoại" nhận biết Đức Giêsu chết trên thập giá: “Quả thật người này là con Thiên Chúa" (Mc 15,39). Đó là điều ta thường gọi là một thứ “hệ luận” theo kiểu nói “Xê-mít". Đó là kiểu cách văn chương nhằm biểu thị ý nghĩa sâu xa của một câu chuyện, mà toàn bộ "bao gồm" trong hai từ được lặp đi lặp lại từ đầu đến cuối.
Giêsu... trong ngôn ngữ Do Thái muốn nói lên "Thiên Chúa cứu độ " – “Yéshouah”. Đó là một từ quen thuộc, diễn tả tính cách nhân bản, lịch sử trần thế của con người Na-za-rét. Kitô.... trong ngôn ngữ Do Thái có ý nghĩa Đấng được “Đức Chúa xức dàu": “Meshiah" Tước hiệu này biểu lộ, Đức Giêsu chính là Đấng mà toàn dân ít-ra-en mong đợi, là con cháu nhà Đa-vít, là "Vua nước Thiên Chúa”.
Con Thiên Chúa... tước hiệu cuối cùng này, chỉ mang ý nghĩa trọn vẹn, lúc Chúa sống lại: Vào thời Maccô viết Tin Mừng, các Kitô hữu đã dùng kiểu nói mạnh này để tuyên xưng đức tin vào thần tính của Đức Giêsu.
Trong sách Ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi tnrớc Con, để dọn đường cho con đến". Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi".
Một lần nữa không phải ngẫu nhiên, mà Tin Mừng Máccô bắt đầu bằng một câu trích dẫn trong Cựu ước. Đức Giêsu không phải là một “sao băng" từ một hành tinh khác mà đến. Ngài được ghi tên trong tịch sử của một dân tộc Ngài được người ta "mong chờ', "loan báo”, "chuẩn bị"... Từ sau Công đồng Vatican, bài đọc Cựu ước mà ta đọc mỗi Chúa nhật, không phải là một việc làm mới lạ của Giáo Hội hiện nay. Các Kitô hữu tiên khởi, các tín hữu của Máccô, cũng như của Mátthêu, Luca và Gioan, đã từng đọc Kinh thánh Cựu ước... và ứng dụng cho Đức Giêsu. Còn chúng ta thìn sao? Chúng ta thường phàn nàn vì không gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng ta có coi Kinh thánh như phương thế tiếp gặp Chúa chưa?”
Ta làm gì để gặp gỡ Chúa? Ta có chuẩn bị con đường cho Chúa đến không? Mùa Vọng này có thể là một thời gian để ta suy niệm lại Kinh thánh.
Ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi dân chúng chịu phép rửa, tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ tại sông Gio-đan.
Chúng ta đừng có mơ tưởng rằng, ta sẽ “gặp" được Thiên Chúa, chẳng- hạn như dịp Noen này, mà không cần phải “chuẩn bị" cho Người đến, không cần phải thanh tẩy, không cần phải làm việc để hoán cải thay đổi đời sống.
Chính Gioan Tẩy Giả không chút nể nang thính giả của ông. ông bảo họ: "Các ngươi phải thay đổi hoàn toàn nếp sống... Hãy trở lại!. Đó là ý nghĩa của từ “Metanoia" bản dịch là "hoán cải". Các người đã làm điều này sao? Giờ đây, hãy làm ngược lại. Điều xấu, điều ác mà các ngươi đã thực hiện, hãy chấm dứt ngay? Điều tốt lành như vậy mà sao các ngươi không làm, hãy bắt tay thi hành ngay đi! Phải thay đổi, cần thay đổi gấp!
Sắp tới lễ Noen rồi, mọi Kitô hữu lại được mời gọi lãnh nhận “bí tích giao hòa" để được ơn tha tội. Ngay từ bây giờ, tôi muốn chuẩn bị lãnh nhận, để nhờ bí tích đó tôi có một bước tiến đáng kể, trưởng thành và có trách nhiệm hơn. Và cũng như dân chúng xưa kia tuôn đến sông Giođan, tôi cần phải bắt đầu “nhận biết” tội lỗi mình, cách sáng suốt. Lạy Chúa xin mở rộng đôi mắt con.
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng".
Đó là y phục tiêu biểu của những "người vùng hoang địa”, những con người du mục.
“Hoang địa"! Để tới đó theo sự lôi cuốn của Gioan Tẩy Giả, dân chúng phải rời bỏ một thế giới nào đó họ đang sống, để bước vào một thế giới khác. Lui vào "hoang địa" nghĩa là từ chối dễ dãi, tiện nghi. “Hoang địa" đó là vùng đất mở tới rất xa, là nơi không thể nhận rõ dấu vết lộ trình, là tiếng mời gọi ta dấn thân mạo hiểm? “Hoang địa" đó cũng là nơi cô tịch và yên lặng: Mời gọi ta hướng đến cuộc gặp gỡ nội tâm? ở đây ta không thể vui chơi giải trí hay lánh ẩn để kiếm tìm những việc bề ngoài, những điều xem ra giả tạo mà là nơi con người gặp lại bản thân, đối mặt với chính mình, trong tình trạng bị bóc lột trần trụi. Trong tư thế lột xác và thinh lặng này, Thiên Chúa mới có thể làm cho ta nhận ra tiếng Người: Đó là lời mời gọi ta nhận ra thực tại của bản thân, khi các mặt nạ đã được trút bỏ, trong tiếng Nga, từ “hoang địa" được dịch là “poustinia”. Và luôn luôn có những người nam cũng như nữ lui vào trong “poustinia" của họ: Cuộc gặp gỡ giữa họ với Thiên Chúa sẽ mang tính chất nào, đều phụ thuộc vào giá trị này cả. Tôi có lợi dụng Mùa Vọng này, để tạo cho mình một thời gian chính thức sống cô tịch không?
Ông loan báo: "Có một Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi. Tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần".
Gioan Tẩy Giả chỉ hiện diện tại đó để tiến dẫn một kẻ khác, một người nào đó chưa được gọi tên: “Đấng đang đến"... Đấng quyền năng nhất"... “Đấng xứng đáng nhất!... Đấng dìm trong Thánh Thần”... Nếu ta quyết định hoán cãi Thiên Chúa sẽ không là người phong kiến ngoại cuộc: Người sẽ dìm chúng ta trong Thần Khí của Người.
*******
THÁI ĐỘ CẦN CÓ ĐỂ ĐÓN NHẬN CHÚA
Charles Lamb là một văn sĩ nổi tiếng của nước Anh vào thế kỷ thứ 18. Buổi tối nọ, năm sáu văn sĩ khác tụ họp ở nhà ông để thảo luận về các đề tài văn chương. Bỗng nhiên, có người đặt vấn đề: Chúng ta sẽ làm gì nếu được gặp gỡ các danh nhân thế giới trong các thời đại đã qua. Có người gợi ý:
- Nếu giờ đây Dante bước vào phòng này?
- Giả như đêm nay có Shakespeare cùng tham gia thảo luận với chúng ta?
Charles Lamb hô to: - Tôi sẽ hân hoan giơ tay đón tiếp các vị như các hoàng đế của tư tưởng.
Cuối cùng một người nói:
- Còn nếu bây giờ Đức Kitô bước vào phòng này?
Charles Lamb nghiêm nét mặt nói:
- Dĩ nhiên tất cả chúng ta đều quỳ xuống.
Đó là thái độ đúng đắn để tiếp đón Chúa Kitô. Người khác với mọi danh nhân trong lịch sử, vì Người là Thiên Chúa.
Chúng ta vừa nghe thánh sử Maccô mở đầu sách Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Đây là một câu chuyện, nhưng là một câu chuyện đem lại ơn cứu độ. Tuy nhiên để đạt hiệu quả mong muốn chúng ta phải chuẩn bị cho mình một thái độ đặc biệt để tiếp nhận câu chuyện về Đức Kitô cùng với những lời truyền dạy của Ngài.
Đầu tiên, Đức Kitô là Thiên Chúa. Người tới trần gian như một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại. Câu chuyện bắt đầu bằng những từ ngữ trang trọng giống như những lời khởi đầu toàn bộ Kinh Thánh: “Khởi đầu của Tin Mừng…”
Câu chuyện về cuộc đời Đức Kitô bắt đầu bằng lời ngôn sứ Isaia: “Có tiếng kêu nơi hoang mạc: Hãy dọn đường cho Chúa”. Đức Kitô xuất hiện muộn màng trong lịch sử, nhưng Người chính là trung tâm của lịch sử, toàn bộ Cựu Ước cốt chuẩn bị cho nhân loại đón tiếp Người. Trước khi tới trần gian, Người đã hiện diện với tư cách Thiên Chúa, nhưng chỉ khi nhân loại được dọn dẹp, được dạy dỗ, được huấn luyện bằng các biến cố lâu dài, bằng những lời mặc khải cặn kẽ, lúc ấy con người mới có đủ khả năng và tư cách tương đối xứng đáng đón nhận Chúa.
Sau khi được chuẩn bị bằng cả chiều dài lịch sử, Gioan Tiền Hô dạy chúng ta dọn dẹp chính tâm hồn mình bằng thái độ thống hối ăn năn. Nếu không cải thiện, không đổi mới hoàn toàn, ta sẽ chẳng bao giờ gặp được Đức Kitô. Để đón mừng Chúa trong lễ Giáng Sinh, chúng ta phải đổi mới ngay từ bây giờ. Những việc xấu đã từng làm phải ngưng lại. Những việc thiện còn chần chừ ngần ngại phải sẵn sàng bắt tay làm ngay.
Dọn lòng trí đón tiếp Chúa với thái độ của một người hành trình qua sa mạc. Bỏ hết xa hoa hào nhoáng, từ chối cao lương mỹ vị, sẵn sàng chay tịnh và ăn mặc đơn sơ nghèo khó.
Khi đó chúng ta mới có thể gặp được Chúa và con đường theo Chúa mới thực sự là một Tin Mừng chứ không phải một gánh nặng. Vì một khi chúng ta đã cố gắng hết sức, Chúa sẽ ban phép rửa bằng Thánh Linh, chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh và hân hoan.
Xin Chúa ban Thánh Thần cho chúng con. Nhờ Người, tâm tư tình cảm chúng con được đổi mới, cũng nhờ Người, chúng con tích cực chuẩn bị đón Chúa bằng cách nghe, suy niệm và thực thi lời Chúa dạy bảo.
70. Theo gương Gioan, hãy dọn đường cho Chúa đến.
(Suy niệm của Phêrô Hà Anh Tiến, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô thuật lại việc Chúa Kitô đến loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa rằng: đã đến giờ Thiên Chúa thực hiện công trình cứu độ là giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi, và kéo nhân loại về với Chúa Cha. Tin Mừng mà các Tiên tri loan báo, dân Israen đang mong chờ ngày được thực hiện. Dân Israen biết rằng Đấng Thiên Chúa sai đến thực hiện là Đức Kitô.
Thánh Marcô còn cho chúng ta biết Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã đến và cũng cho biết Thiên Chúa đang sử dụng những tháng ngày sau cùng của chương trình Cựu Ước là sai Tiên tri loan báo để dọn đường cho Chúa Kitô xuất hiện.
Vị Tiên tri sau cùng của Cựu Ước là thánh Gioan Tẩy Giả được thánh sử mô tả, giới thiệu cho chúng ta biết chân dung khổ hạnh của người: mặc áo lông lạc đà, thắt đai lưng bằng da thú, thức ăn là châu chấu và uống mật ong rừng. Sống tu trì, khổ hạnh nhiều năm trong sa mạc, bây giờ người xuất hiện trên dòng sông Gióc-đan miền Giê-ri-cô, nơi chỗ nước cạn gọi là Bêthabara, giảng dạy cho dân về sự thống hối – sự ăn năn và kêu gọi dân chúng quay trở về với Chúa. Nhiều người đã chịu phép rửa của ngài.
Thánh Marcô nhấn mạnh đến việc rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, là Đức Kitô sắp đến, uy quyền hơn thánh nhân; có giá trị cao vời đến nỗi thánh nhân không xứng đáng làm người đầy tớ, làm nô lệ, không đáng cởi dây giày cho Người. Đức Kitô sẽ đến thanh tẩy dân trong Thánh Thần.
Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng chuẩn bị đón Chúa Kitô đến, và Chúa Kitô đã đến thực sự làm ứng nghiệm lời Tiên tri Isaia đã loan báo. Này Ta sai thần sứ Ta đi trước mặt Người, dọn đường cho Người. Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi. Nếu Chúa Kitô không đến, thì lời rao giảng của thánh Gioan trở nên mơ hồ. Vì thế, công việc chính của thánh Gioan, mục đích chính của cả cuộc đời thánh nhân là chuẩn bị và giới thiệu Chúa Kitô, cho dân biết phải thanh tẩy, phải từ bỏ đường tà và quay về với nẻo chính đường ngay, phải từ bỏ mọi chướng ngại là tội lỗi. Chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến.
Ngày nay, tiếng nói của thánh nhân vẫn có giá trị, vẫn vang vọng lên mãi mọi nơi và được Hội Thánh nhắc lại trong Mùa Vọng - Mùa Chúa đến. Việc làm trước tiên của chúng ta là phải thống hối. Chúa sẽ đến với ta khi ta biết thống hối. Vì thế, chúng ta cần phải noi gương thánh Gioan trang bị cho mình những đức tính cần thiết như: từ bỏ xa hoa xét ra không cần thiết, khiêm nhường trước mặt Chúa và mọi người, sống yêu thương và phục vụ. Người nào sống xa hoa, phung phí tiền bạc, không đọc và suy gẫm Kinh Thánh, không có lòng khiêm nhường, chưa nói về Chúa cho người khác biết và chưa sống cuộc đời của thánh Gioan, thì cần phải xem lại bản thân. Hãy bạt cho bằng những gồ ghề nơi tâm hồn, hãy sửa cho thẳng những quanh co, gian dối, xảo trá, những bất công, bất hòa trong cuộc sống, hãy lấp cho đầy những hố sâu ngăn cách. Hội Thánh còn mong muốn chúng ta chẳng những nghe lời thánh Gioan, mà còn truyền lời thánh nhân lại cho mọi người. Vai trò của thánh nhân nay trao lại cho mỗi người chúng ta là:
“Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Người đi”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, cuộc đời mỗi người chúng con đều có một con đường riêng biệt. Mỗi người theo con đường của mình để nhắm về cùng đích là Thiên Chúa. Nếu chúng con nhắm đúng đích, dấu chỉ con đường chúng con đi là ngay thẳng. Chỉ có con đường thẳng, nhắm đúng đích mới dẫn chúng con đến bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu là Nước Trời. Lạy Chúa, bản tính chúng con được dựng nên thuở ban đầu tự nhiên hướng về con đường thẳng là: Chân-Thiện-Mỹ. Thế nhưng, nhiều khi chúng con bị lầm tưởng, chúng con bị mê hoặc bởi những cái đẹp giả tạo, cái thiện ảo tưởng nên chúng con nhắm không đúng đích, vì thế con đường chúng con đi trở thành quanh co và không đón nhận được ơn cứu độ.
Xin Chúa ban Thánh Thần của Người đến sửa lại con đường quanh co nơi tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con gặp được Đức Kitô là Đấng đem lại nguồn ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
71. Trích chú giải của William Barclay
I. GIOAN RAO GIẢNG (Mc 1,1-4)
Một trong những câu chuyện kể về Kitô giáo có thể làm gì là câu chuyện lịch sử đã ghi lại một vụ nổi loạn trên tàu Bounty. Bọn cướp tàu ấy bị tống lên đảo Pitcaim. Có chín tên nổi loạn, sáu người đàn ông bản xứ, mười đàn bà bản xứ và một bé gái mười lăm tuổi. Một trong đám người đó có người biết nấu rượu. Kết quả là tình hình trở nên khủng khiếp. Tất cả đều chết, ngoại trừ Alexander Smith. Smith may mắn gặp một quyển Kinh Thánh. Ông ta đọc sách ấy và quyết tâm xây dựng một quốc gia với thổ dân trên đảo, lập nền trên Kinh Thánh. Mãi 20 năm sau mới có một chiếc thuyền buồm nhỏ đến thăm đảo, người ta gặp tại đó một cộng đồng hoàn toàn Kitô giáo. Ở đó không có nhà tù vì không có tội ác. Không có bệnh viện vì không ai đau ốm. Không có dưỡng trí viện vì không ai bị loạn trí. Không có ai mù chữ và không có nơi nào trên thế giới sinh mạng và tài sản được an toàn bằng tại đấy. Kitô giáo đã thanh lọc xã hội ấy. Nơi nào Chúa Cứu Thế được mời đến thì chất sát trùng của niềm tin Kitô đã tẩy sạch chất độc của xã hội, khiến nó trở nên trong sạch, thuần khiết.
Gioan đến, rao giảng một phép rửa tỏ lòng sám hối. Người Do Thái vốn quen thuộc với nghi lễ tẩy rửa. Lêvi 15 đã mô tả chi tiết các nghi lễ ấy. Tertulian nói “người Do Thái tắm rửa hằng ngày vì mỗi ngày họ đều bị nhiễm ô uế”. Các biểu tượng về tẩy rửa và thanh lọc được đưa vào chính cơ cấu và nghi lễ của dân Do Thái. Người ngoại nhất thiết bị kể là ô uế vì chẳng hề giữ luật Do Thái. Cho nên khi một người ngoại nhập đạo Do Thái, nghĩa là tin theo Do Thái Giáo, thì người ấy phải làm ba việc. Thứ nhất, phải chịu phép cắt bì, vì đó là dấu hiệu về một người của giao ước. Thứ hai, phải dâng một sinh tế, vì với tư cách là người ngoại, người ấy cần được chuộc tội, mà chỉ có máu mới chuộc được tội lỗi. Thứ ba, phải chịu phép rửa vì tượng trưng cho việc mọi ô uế trong quá khứ của mình đều đã được tẩy sạch. Cho nên, lẽ tự nhiên phép rửa không phải chỉ là việc rảy nước lên người nhưng là việc tắm toàn thân trong nước. Người Do Thái biết rõ phép rửa, nhưng chuyện lạ trong phép rửa của Gioan, là ở chỗ Gioan là người Do Thái mà lại dạy người Do Thái cần phải chịu một nghi lễ chỉ có người ngoại mới phải chịu. Gioan đã có một khám phá phi thường là một người Do Thái theo phương diện chủng tộc vẫn chưa phải là thành viên của tuyển dân của Chúa; một người Do Thái cũng ở địa vị như một người dân ngoại, không phải hễ là người Do Thái thì tự nhiên thuộc về Chúa, nhưng người có đời sống được thanh tẩy, đó là người của Chúa.
Phép rửa kèm theo việc xưng tội. Bất cứ hành động nào liên quan đến sự trở về cùng Chúa, việc xưng tội được đòi hỏi đối với ba đối tượng:
1) Người ta phải tự xưng tội với chính mình. Bản tính con người thường là muốn nhắm mắt làm ngơ trước những gì ta không muốn nhìn thấy, và trên hết là chúng ta vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với tội lỗi của chính mình. Người ta kể câu chuyện về bước đầu tiên đến được với ân sủng của một người kia. Một hôm, lúc đang cạo râu, ông ta thấy mặt mình trong gương, thình lình ông ta thét lên “À ra mày, mày là một thằng khốn nạn, bẩn thỉu”. Và từ đó, ông ta trở nên một người khác hẳn. Chắc chắn sau khi bỏ nhà ra đi, người con trai hoang đàng nghĩ rằng mình là nhân vật tử tế, thích mạo hiểm. Nhưng trước khi quyết định trở về nhà, anh ta đã nhìn lại mình thật kỹ và tự nhủ “ta sẽ đứng dậy, trở về nhà và nhận rằng ta là một đứa con hoàn toàn hư hỏng” (Lc 15,17.18). Trên đời này, đối diện với chính mình thì khó hơn là phải đối diện với bất kỳ ai khác, và bước đầu của hoán cải, của việc làm hòa lại với Chúa là phải tự thú nhận tội lỗi của mình với chính mình.
2) Người ta phải xưng tội với kẻ mình đã đối xử sai quấy. Thưa với Chúa rằng ta ăn năn hối tiếc là vô ích nếu trước đó ta chưa ăn năn hối hận với những người đã bị ta xúc phạm và gây thương tổn, làm buồn phiền. Phải cắt bỏ các chướng ngại giữa người và người với nhau trước khi có thể gỡ bỏ các chướng ngại với Chúa. Thông thường xưng tội với Chúa vốn dễ hơn xưng tội với người, nhưng nếu không có sự khiêm nhường hạ mình, thì vẫn không có tha tội.
3) Người ta phải xưng tội với Chúa. Kết thúc kiêu ngạo là khởi điểm của tha tội. Chỉ khi nào một người nói “tôi có tội”, mới có hy vọng được Chúa phán “Ta tha tội cho con”. Không phải kẻ muốn đến gặp Chúa với tư cách tay đôi như hai người ngang hàng với nhau mà được tha tội, nhưng phải là người quỳ gối xuống với tấm lòng khiêm hạ, ăn năn, thống hối, xấu hổ thì thầm “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”.
II. GIOAN SỨ GIẢ (Mc 1,5-8)
Rõ ràng chức vụ của Gioan đã có kết quả lớn vì mọi người đổ xô đến nghe ông giảng và chịu để ông làm phép rửa cho họ. Tại sao Gioan lại gây được ảnh hưởng lớn trên dân tộc ông như vậy?
1) Gioan là người sống theo sứ điệp ông rao giảng. Chẳng những ông chỉ phản đối bằng lời nói, mà còn bằng cả đời sống của ông nữa. Có ba điều ở ông đã chứng thực cho lời phản đối của ông về đời sống tạm bợ này.
(a) Nơi ông ở. Ông ở trong hoang địa. Giữa trung bộ xứ Giuđê và Biển Chết, có một vùng hoang địa khủng khiếp nhất thế giới. Đó là một hoang địa đá vôi trông gồ ghề, vặn vẹo. Nó phản chiếu lấp lánh dưới sức nóng gay gắt, các khối đá vôi nóng bỏng làm phỏng da, người ta có cái cảm giác như chúng rỗng ruột, như đang đi trên một lò nung ở dưới mặt đất. Nó nghiêng về phía Biển Chết rồi tạo thành những dốc thẳng đứng đáng sợ, dẫn xuống những hố sâu không thể nào leo lên được về phía bờ biển. Trong Cựu Ước, thỉnh thoảng nó được gọi là Jeshimmon nghĩa là nơi hoang vu. Gioan không phải là một thị dân. Ông là người từ hoang địa, từ nơi hoang vu vắng vẻ mà đến. Ông là người từng đi tìm cơ hội để được nghe tiếng Chúa phán dạy.
(b) Y phục ông mặc, ông mặc áo dệt bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Êlia cũng từng ăn mặc như vậy (Lv 1,8). Nhìn một người như thế người ta sẽ không thể liên tưởng tới một nhà hùng biện thời danh, ăn mặc đúng thời trang, nhưng nhớ lại các ngôn sứ thời xưa từng sinh sống hết sức giản dị, tránh mọi lối xa hoa yếu mềm, yểu điệu, thường giết chết tâm hồn.
(c) Thực phẩm. Thực phẩm của ông là châu chấu và mật ong rừng. Cả hai từ này đều có thể có hai nghĩa. Châu chấu là giống vật được luật cho phép ăn (Lv 11,22.23), nhưng cũng có thể đó là một loại đậu hay hột gọi là carob, vốn là lương thực của kẻ nghèo. Mật ong có thể là mật của loài ong rừng đóng tổ trong các bọng cây hoặc cũng có thể là một loại nhựa ngọt chảy ra từ lớp vỏ của một vài loại cây. Từ này có nghĩa chính xác vẫn không là vấn đề quan trọng. Dầu thế nào đi nữa thức ăn của Gioan rất đạm bạc, ông đã xuất hiện trong tình trạng như vậy. Thiên hạ thường thích nghe những người như thế. Người ta kể về Carlyle rằng “Ông giảng hai mươi bộ sách Phúc Âm bằng sự im lặng”. Ngược lại có nhiều người đã đem đến một sứ điệp mà chính đời sống họ lại phủ nhận nó. Lắm người có nhiều tiền gửi ngân hàng, nhưng lại giảng rằng đừng tích trữ của cải ở dưới đất; nhiều người ca tụng các phúc lộc của kẻ nghèo, nhưng lại sống trong một biệt thự khang trang, trưởng giả. Nhưng trong trường hợp của Gioan, ông là con người của sứ điệp, sống theo chính sứ điệp rao giảng và vì thế dân chúng đã nghe ông.
2) Thông điệp của ông sở dĩ được hiệu nghiệm vì ông nói với dân chúng điều mà thâm tâm họ vẫn biết, ông đem đến cho họ điều mà họ vẫn mong đợi.
(a) Người Do Thái có câu “nếu dân Israel giữ trọn luật Chúa chỉ trong một ngày thì Nước Trời sẽ đến”. Khi Gioan kêu gọi họ hoán cải là ông đặt họ đối diện với sự chọn lựa, với quyết định mà tự đáy lòng họ đã biết rất rõ đó là việc họ phải làm. Từ xưa, Plato đã nói rằng giáo dục không phải là nói với người ta những điều mới lạ nhưng là rút ra từ ký ức họ những gì họ đã biết rồi. Không có sứ điệp nào hiệu nghiệm cho bằng nói với chính lương tâm con người, và sứ điệp ấy hầu như trở thành điều họ không thể cưỡng lại được khi nó được một người đầy đủ thẩm quyền nói ra.
(b) Dân Israel biết rõ rằng từ ba trăm năm qua, tiếng nói ngôn sứ đã im bặt. Họ đang chờ đợi một tiếng nói thật sự từ Thiên Chúa đến và họ đã nghe được nơi Gioan. Trong mọi lãnh vực của đời sống, người ta dễ nhận ra ai là nhà chuyên môn. Một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng kể rằng ngay khi Toscanini đứng lên chiếc ghế nhạc trưởng, toàn ban cảm thấy uy quyền của con người ấy tràn qua trên họ. Chúng ta nhận biết ngay một vị bác sĩ mát tay. Nghe một diễn giả thấu hiểu đề tài mình trình bày, chúng ta nhận biết ngay. Gioan vốn từ Thiên Chúa đến, chỉ nghe ông nói là đủ để nhận ra.
3) Thông điệp của ông sở dĩ hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép (bản Việt văn dịch là ‘giày’) chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì đó là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ việc gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang loan báo. Ông quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng nghe ông.
4) Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng dân chúng chú ý đến một điều, một nhân vật cao cả vượt trội. Ông bảo dân chúng rằng qua phép rửa, ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước tẩy sạch thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Tiến sĩ G.J Jeffrey có dùng một ví dụ mà ông rất tâm đắc. Khi ông gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài mà nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông”. Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng đài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích duy nhất của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.
72. Chú giải theo Fiches Dominicales
LỜI TỰA TIN MỪNG MÁCCÔ:
TỪ GIOAN TẨY GIẢ ĐẾN ĐỨC GIÊSU
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một lịch sử mới bắt đầu
Tin Mừng thánh Maccô hôm nay bắt đầu bằng một câu không có động từ, gồm một ít tiếng được chọn lọc kỹ càng, mỗi chữ đều rất nặng nghĩa: tác giả đã cho thấy rõ trọng tâm sứ điệp của Đức Kitô và phác hoạ cho độc giả con đường đức tin.
Đó là sự "Khởi đầu”, J.Hervieux lưu ý: "Trong Kinh Thánh, sách Sáng Thế và nhiều sách khác đã bắt đầu như thế. Chắc hẳn Thánh sử muốn gợi lên rằng Đức Giêsu sẽ mở đầu một lịch sử thánh mới, một tạo dựng mới ("Tin Mừng thánh Maccô", Centurion, tr. 15).
Đó là sự khởi đầu của "Tin Mừng” (tiếng Hy Lạp: Evangile). Điều mà tiên tri Isaia đã loan báo (bài đọc 1 của Chúa nhật này) - tức "Tin Mừng” do sáng kiến của Thiên Chúa vì lợi ích cho dân Ngài - đã hoàn tất, mặc lấy xác phàm trong lịch sử loài người.
- Đó là khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Đấng đã giảng dạy Tin Mừng này trước khi trở thành đối tượng của Tin Mừng sau khi Ngài sống lại. Hơn là một cuốn sách, hơn là một sứ điệp mừng vui, Tin Mừng này chính là Đức Giêsu.
- Thánh sử Maccô đã mặc khải về Đức Giêsu bằng hai danh hiệu đầy ý nghĩa: "Kitô", "Con Thiên Chúa".
+ "Kitô": từ mà ngày nay chúng ta không còn hiểu hết ý nghĩa nguyên thủy của nó.
M.E. Boismard lưu ý: "Lẽ ra phải đặt một dấu phẩy giữa hai từ GIÊSU và KITÔ để nhấn mạnh từ thứ hai là một danh hiệu đặt cho Đức Giêsu, đó là một danh hiệu hoàng tộc.
Từ "Kitô”, chuyển âm từ "Christos" của tiếng Hy Lạp. "Christos" dùng để dịch động từ "Meshiah" của tiếng Do thái có nghiã là "xức dầu". Động từ Do thái này cũng biến thành "Messias" trong tiếng Hy lạp. Bởi vậy, "Kitô" có nghĩa tương tự như “ Mêsia” để chỉ người được Thiên Chúa xức dầu, bằng dầu đã được hiến thánh.
Do đó, trong số những người được thánh hiến bằng dầu thánh, các vì vua mà Thiên Chúa chọn dẫn dắt dân Người chiêm một vị trí chính yếu và sau này người được xức dầu thánh chỉ còn dùng để chỉ các vì vua mà thôi.
Như vậy, nghĩa đầu tiên của từ "Kitô" có ý nói Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu để làm vua dân Người.
Đàng khác, chúng ta sẽ thấy cảnh Đức Giêsu chiu phép rửa (1,9-11), được Maccô trình bày như là một sự đăng quang làm vua vậy. ("Giêsu, người Nagiarét”, Cerf, 1996, tr. 14-16).
+ "Con Thiên Chúa”: vào thời Đức Giêsu, danh hiệu này được gán cho Đấng Mêsia. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa che chở cách riêng Đấng Người nhận làm con, và giữa họ có mối dây liên hệ đặc biệt. Nhưng đối với các môn đệ, họ cần thời gian để nhân ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong mối tương quan có một không hai; trong Người, chính Thiên Chúa đến với nhân loại. Các ông chỉ cỏ thể nhận ra điều này sau ngày Chúa phục sinh nhờ Thánh Linh ban ơn trong ngày lễ Ngũ Tuần.
KITÔ, CON THIÊN CHÚA: hai danh hiệu trả lời trước cho câu hỏi luôn vang lên trong suốt 8 chương đầu của Tin Mừng thứ hai: "Người này là ai?”. Hai danh hiệu đã phân chia hai phần lớn của Tin Mừng này:
Phần đầu dẫn chúng ta đến lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: Ngài là Đấng Kitô" (8, 29...).
- Phần thứ hai dẫn ta đến sự hiệp thông với niềm tin của viên sĩ quan Rôma được chứng kiến cái chết của Chúa, đã tuyên xưng: "người này thật là Con Thiên Chúa" (15,39).
- Benoit Standaert kết luận: "Phúc Âm hay Tin Mừng, chính là Đức Giêsu và với Ngài, thời đại mới bắt đầu, màn trời xé ra, Thánh Thần ngự xuống, và quyền năng Thiên Chúa thiên trung quyền lực sự dữ... Ngay những từ đầu tiên của Maccô đã là sự khai mở, từ đó xuất hiện một danh hiệu mới, một sự hiện diện mới: Đức Giêsu, Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Maccô đã nói quá đủ! Ngài chẳng còn gì để nói với chúng ta nữa. (“Tin Mừng theo thánh Maccô”, chú giải, Cerf, tr.41).
2. "Khúc dạo đầu” cho một màn kịch khác.
Ngay sau danh xưng đầy ý nghĩa trên về Đức Kitô, không một lời chuyển tiếp, thánh sử cho Gioan Tẩy Giả xuất hiện: "Và Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong hoang địa". Ở ngay phần đầu, đã có những trích dẫn Thánh Kinh (Xuất Hành 23,20; Mal 3,1 và 23; Is 40,3); điều đó hàm ý ghi tên Gioan Tẩy Giả vào truyền thống ngôn sứ và giới thiệu ông như "sứ giả" được Thiên Chúa sai đến "để dọn đường, như người sẽ mở đường cho Thiên Chúa đến, qua Đấng Mêsia của Ngài.
Nơi Gioan Tẩy giả thi hành sứ mệnh là "hoang địa", là nơi của Xuất Hành, là nơi vừa để chịu thử thách vừa để được mặc khối tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa, đồng thời là nơi tượng trưng cho mọi khởi đầu. Và chính vì thế, Gioan "Kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Bên giòng nước sông "Giócđanô" nơi dân Chúa đã băng qua để vào đất hứa, lời ông vang dội "khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem". Một cách nói của thánh sử để cho ta hay là tiếng gọi của con người sa mạc nay gởi đến tất cả mọi người.
Y phục ông làm ta ngạc nhiên. Y phục ấy mang ý nghĩa tượng trưng vì đó cũng là y phục của ngôn sứ Êlia. Sách Các Vua viết: “Ngài mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da" (1V 17,1-6; 9,5-8). Đó là cách thánh sử trình bày Gioan Tẩy Giả như một ngôn sứ Êlia, Đấng mà thời Đức Giêsu người ta tin là phải đến trước Đấng Mêsia.
Cách sống của ông rất khắc khổ, trái hẳn với cách sống của Đức Giêsu. J.Hervieux nhận xét: ‘Người không ăn bận khác thường không ăn chay, Người uống rượu và ăn thịt. Thay vì ở trong hoang địa như Gioan, Người sống trong đời thường, giữa quần chúng’ (sách đã dẫn, tr.19).
Công việc của Gioan là mở đầu thời đại mới: "Khởi đầu Tin Mừng”, và chỉ cho thấy Đấng mà Ngài có bổn phận loan báo rằng: Người đến, rồi tức khắc Gioan rút lui. ‘Đấng đến sau tôi’ – ông tuyên bố cách ngược đời, - bởi lẽ đi đằng sau ai, điều đó có nghĩa làm môn đệ của người ấy – ‘Người quyền phép hơn tôi, tôi không xứng cúi xuống cởi dây giày cho Người’. Chẳng những Gioan tuyên bố không xứng làm môn đệ của Đấng đến sau ông, mà còn cho mình không xứng làm tôi tớ của Người. Ông khẳng định rõ ràng: Phép rửa của Đức Giêsu vượt trên phép rửa của ông: "Tôi đã làm phép rửa cho anh em trong nước, phần Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”.
J. Hervieux kết luận: Sứ điệp rất rõ ràng: Gioan tự giới thiệu như là kẻ đến trước Đức Giêsu. Ông đi trước “Đấng quyền năng" hơn ông. Ông ý thức về sự thấp kém của mình. Ông phải tự hạ trước Đức Giêsu như tôi tớ trước chủ, đến nỗi không xứng cởi dây giày cho Chúa! Sau cùng và nhất là sự khác biệt chính được công nhận giữa phép rửa của Gioan và phép rửa của Đức Giêsu. Gioan đã làm phép rửa trong nước. Đức Giêsu thì làm phép rửa trong Thánh Thần. Cái độc đáo của Đấng Mêsia khi so sánh với vị tiền hô của Người, là Người nắm giữ Thần Khí (xem 1,10). Với ơn Thánh Thần mà Người sẽ ban sau khi phục sinh, Đức Giêsu đem đến ơn tha tội một cách dứt khoát (Cv 2,38).
Vì thế ngay từ trang đầu của Tin Mừng, Maccô đã đặt Gioan Tẩy Giả, sứ mệnh và phép rửa của ông vào đúng chỗ của nó. Tất cả chỉ là để loan báo và để dọn đường cho Đấng Mêsia đến. Phần sau sẽ soi sáng mối liên hệ họ hàng mật thiết giữa Gioan và Đức Giêsu, cũng như sự khác biệt sâu xa giữa hai con người này (Sách đã dẫn, tr. 19)
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. Đáp lại lời mời gọi của Gioan, chúng ta hãy chuẩn bị đón nhận Đức Giêsu. (Mgr. L. Daloz trong: “Ngài là ai”, Declée de Brouwer, tr. 10)
"Lời công bố của Gioan Tẩy Giả như khúc dạo đầu mở màn cho Đức Giêsu, Đấng Mêsia xuất hiện. Đức Giêsu có mặt giữa những người đáp lại lời mời gọi của Gioan nơi hoang địa. Nhưng ý nghĩa của việc Chúa đến được giải thích bằng những lời của tiên tri Isaia: "Hãy dọn đường cho Chúa...". Trước khi Đức Giêsu xuất hiện, một sứ giả đã được phái đến để loan báo dọn đường cho Người. Người ta không thể đón nhận Đức Giêsu nết không có chuẩn bị trước. Người đến với những ai chấp nhận đi vào con đường hoán cải bằng cách xưng thú tội mình, chấp nhận sự đổi mới của phép rửa thống hối. Nhờ thế, chúng ta biết thêm sự cao trọng của Đấng sẽ đến. Ngài là "Đấng quyền năng hơn...", và sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Đây là một thái độ đón nhận, chú tâm, một thái độ hoán cải cần có để chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô. Ngài là người đơn sơ và nghèo khó, người anh em của chúng ta. Nhưng đằng sau dáng vẻ bề ngoài ấy, chúng ta được mời gọi tìm hiểu mầu nhiệm của Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa.
2. “Đức tin, sức mạnh đổi mới” (Mgr. Cl. Dagens trong: “Trình bày đức tin trong xã hội hôm nay”, Cerf, tr. 39-41).
Đánh giá những biến đổi đang diễn ra trong cách sống đạo của những cộng đoàn Kitô giáo không phải nhằm làm một bản tổng kết, nhưng là để nhìn nhận sức mạnh đổi mới do Chúa ban và được thể hiện nhờ việc chúng ta sống đức tin.
- Chúng ta có thể bắt đầu từ sự kiện mới mẻ sau đây: đó là sự đón tiếp và tháp tùng những tân tòng trưởng thành hay những trẻ em chưa được rửa tội học các lớp giáo lý do những bạn bè có đạo dẫn dắt. Con số những người theo học giáo lý như vậy gia tăng không ngừng. Tại sao đức tin nơi nhưng tín hữu đạo gốc lại được đổi mới nhờ những cuộc gặp gỡ này? Thưa bởi vì họ thường đồng hóa Tin Mừng với cách nhìn đời của họ, và vì họ thường có thói quen chỉ giữ lại những gì trong Tin Mừng củng cố lý tưởng nhân loại của mình. Chỉ khi va chạm với những người không thuộc nền "văn hóa công giáo", họ mới thẩm định lại sự mới mẻ nơi Mạc khải của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và sức đổi thay của Tin Mừng. Cũng nhờ đó, họ phát hiện lại sự phong phú của truyền thống phụng vụ và tâm linh trong Kitô giáo, cũng như niềm vui được thuộc về Giáo Hội như một gia đình mới. Gia đình này không tuân theo những luật lệ của xác thịt nhưng tuân theo lời mời gọi của Thánh Thần.
Đó là cách chúng ta phải suy gẫm về những gì đã xảy ra bởi vì Lời Chúa mà các tân tòng khám phá cũng chính là Lời mà chúng ta phải đón nhận và loan báo. Chúng ta không thể phủ nhận cú sốc về niềm tin do hiện tượng trở lại này. Vả lại, cần phải tìm hiểu sâu xa hơn để nhận ra rằng sự kiện tân tòng trở lại, một hiện tượng mới mẻ, biểu lộ sự tìm kiếm đời sống tâm linh của rất nhiều người đương thời. Trong bối cảnh này, trình bày đức tin Kitô giáo không thể là một việc duy ý chí, nhưng chúng ta phải dấn thân vào công cuộc tìm kiếm này, hiểu biết nó, phân định những lời mời gọi, những cám dỗ và cả những ảo tưởng của nó nữa. Bằng những phương tiện của mình, chúng ta cũng cần khắc ghi vào đấy Mạc Khải về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói với mọi người: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tương tự như vậy, chúng ta cũng nên nói đến mục vụ cho trẻ em và thanh thiếu niên. Cần phải có những thái độ sư phạm phù hợp và xác định đâu là vai trò và thẩm quyền của chứng nhân trong việc truyền giảng đức tin trong bối cảnh có sự “đứt đoạn với các truyền thống hiện nay.
Ngay cả ở đây nữa, điều chúng ta cần thực hiện không chỉ là so sánh những ý kiến khác nhau về mục vụ hay giáo dục, nhưng là hiểu biết sự phong phú của niềm tin vào Đức Kitô trong việc khai tâm đức tin cho thế hệ trẻ.
Chúng ta cũng có thể đề cập đến những phương tiện mục vụ đang được cải tiến trong Giáo Hội Pháp.
Sau cùng, chúng ta có thể chứng tỏ niềm tin vào Đức Kitô đã gợi lên và cổ xúy cuộc đấu tranh cho quyền con người thế nào, và nói rõ hơn, niềm tin ấy làm thế nào đã giúp hòa hợp được giữa đấu tranh và chiêm niệm, giữa đời sống tâm linh và dấn thân trong xã hội. Ở đây, những tương quan mâu thuẫn giữa những người bề ngoài như xa cách nhau có thể nói không còn tồn tại: Chiến sĩ công giáo tiến hành, linh mục thợ, thành viên của những công đoàn mới, hoặc đan sĩ nam nữ. Dĩ nhiên, nói vậy không có nghiã là xóa bỏ những khác biệt có thực trong những hình thức dấn thân. Nhưng xét đến động cơ sâu xa của sự dấn thân, chúng ta sẽ nhận ra những đòi hỏi như nhau: không thể sống với Đức Kitô trong thân phận tôi tớ của người mà không sống với những anh em bị xã hội loại trừ; cũng vậy, không thể sống dài lâu với những anh em bị xã hội loại trừ mà không tìm kiếm gặp gỡ Đức Kitô trong chiêm niệm. Nỗi đam mê phục vụ nhân loại hiện rõ đằng sau sự khác biệt về cách sống đức tin.
Do đó, chúng ta có thể trình bày đức tin Kitô giáo như một sức mạnh hoán cải và biến đổi thực sự cho cá nhân cũng như cho xã hội. Bởi vì, trong thực hành của Giáo hội, tin và sống đức tin giúp luôn có những sáng kiến và những đổi mới trong vô số lãnh vực.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam