Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1372549

HÃY LÀ MÔN ĐỆ TA

Hãy là môn đệ của Ta

(Suy niệm của Msgr. Edward Peter Browne – Lm. Gioan Trần Khả chuyển dịch)

Sứ Giả và Bản Tin

Tuần trước ở trang đầu của hầu hết các trang báo trên thế giới và các đài truyền hình đã có hình của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Fiedel Castro, và những lời nhận xét của Fidel Castro nói là Đức Giáo Hoàng là một con người vĩ đại, một người thu hút tuyệt vời. Nhưng suốt cả ba mươi năm qua Fidel Castro đã nỗ nực đánh phá giáo hội ở Cuba. Ông đã giết các linh mục, các nam nữ tu sỹ, đã đóng cửa nhiều nhà thờ, cấm dạy giáo lý và giáo thuyết của Giáo Hội Công Giáo, dù thế ông lại cho Đức Giáo Hoàng là một người vĩ đại. Ông yêu thích sứ giả mang tin, nhưng ông lại ghét bản tin.

Vài năm về trước chúng ta có Mẹ Têrêsa thăm đất nước của chúng ta và đã nói chuyện ở vài nơi cũng có sự hiện diện của tổng thống và phó tổng thống tham dự và các vị đã tỏ ra ngưỡng mộ mẹ Têrêsa, nói mẹ là một người tuyệt vời. Nhưng cùng lúc, họ lại ủng hộ phá thai, hợp pháp hóa phá thai, cho phá thai là điều chấp nhận được, và đã ủng hộ lối sống luyến ái đồng phái tính. Thái độ của họ là: “Mẹ Têrêsa là một người vĩ đại, một người mang tin tuyệt vời, nhưng chúng tôi không thích bản tin của bà!”

Ngay trong thời của Chúa Giêsu Kitô, dân chúng cũng có thái độ suy nghĩ giống như vậy. Họ thích người mang tin, nhưng lại không thích bản tin. Họ đã đi theo và nghe Chúa Giêsu, họ đã thấy Ngài chữa lành người yếu đau, làm cho người mù sáng mắt, nuôi hàng ngàn người ăn, nhưng khi Chúa Kitô nói với họ, “Hãy tin theo ta, hãy đến đi theo làm môn đệ của ta,” thì không, họ đã không muốn tham dự tí nào cả. Hơn thế, họ đã muốn lên án giết ngài.

Nó là một điều rất được tán đồng đối với quan điểm của thế giới ngày nay cho rằng thật tuyệt diệu để yêu thích người mang tin nhưng không thèm nghe bản tin. Có nhiều người hâm mộ Thiên Chúa, hâm mộ đức Giáo Hoàng, hâm mộ mẹ Têrêsa, nhưng họ lại không muốn làm môn sinh. Họ không muốn chu toàn trách nhiệm đi theo với bản tin.

Hâm Mộ hay Môn Sinh

Như bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta, chúng ta được kêu gọi để nên môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải chỉ là những người hâm mộ. Chúng ta không chỉ muốn nói “đó là một ý tưởng thật hay” và rồi không chu toàn bổn phận. Chúng ta được kêu gọi trở nên các môn sinh. Chúng ta có nhiều loại, có thể nói là, tạp nhạp tín hữu Công Giáo. Có những người Công Giáo chỉ vì đã được rửa tội và không còn gì khác hơn. Ông Bà muốn bảo đảm là đứa cháu phải được rửa tội nhưng cha mẹ của con trẻ đã chẳng quan tâm đến việc nuôi nấng dạy dỗ con trong đức tin Công Giáo. Họ muốn là những người hâm mộ nhưng không phải là môn sinh. Rồi có những người Công Giáo hạng trung bình hoặc là người Công Giáo theo mùa. Họ muốn tham dự và nói, “Đúng, tôi là người Công Giáo,” nhưng họ lại không muốn tham gia tới mức độ của môn sinh. Và sau cùng là những người Công Giáo tốt, Công Giáo thực thụ, Công giáo giòng, họ không những tuyên xưng các giáo huấn của Giáo Hội, của Chúa Kitô, nhưng họ còn thực hành đức tin của mình.

Chúa nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là thật không thể cho là đủ để chỉ là những người ngưỡng mộ, chúng ta còn phải thực hành, và trở thành các môn sinh. Chúng ta được kêu gọi làm môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải chỉ là những người ngưỡng mộ ngoài cuộc. Phần nào đó nó như là một sự trái ngược nơi bài Tin Mừng hôm nay so với Tám Mối Phúc Thật, Bài Giảng Trên Núi, khi Chúa nói “Phúc cho những người nghèo khó, phúc cho những người đói, phúc cho những người khát, phúc cho những người nghèo khổ bần cùng.” Họ được chúc phúc bởi vì họ bỏ tất cả mọi cái ở thế gian vì nước Thiên Chúa. Và bây giờ Ngài lại nói phúc cho những người biết chia cơm sẻ nước cho người đói khát. Nhất là trong mùa lễ Tạ Ơn và Giáng Sinh, người ta tham gia vào các chương trình gói quà Giáng Sinh, gói quà Tạ Ơn, thu góp thực phẩm để giúp những người nghèo, bỏ thêm tiền vào gỉo thu để chúng ta có thể giúp nuôi những người đói, mua sắm áo quần cho người rách mướt, lo cho những người vô gia cư.

Những Người Được Chúc Phúc

Nhưng điều quan trọng hơn cả là chúng ta trở nên môn sinh của Chúa Giêsu Kitô. Bản tin được trao gởi đến cho chúng ta trong Tin Mừng không phải là cho ăn, cho áo, cho nước những người đói khát, mà là cho trọn vẹn về Tin Mừng. Chúng ta đói khát bản tin của Tin Mừng. Chúng ta đói tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta đói giáo huấn của Chúa Kitô, chúng ta khát tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mong được mặc tấm áo ân sủng của Thiên Chúa. Đây chính là cách chúng ta đi đến mức sung mãn của sự sống, bằng cách trở nên các môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, không phải chỉ là những người ngưỡng mộ ngoài cuộc, những người hâm mộ. Chúng ta được kêu gọi hôm nay để trở nên các môn sinh, những người đi theo, thi hành và kiện toàn các giáo huấn của Chúa Kitô và của Giáo Hội và rồi chúng ta sẽ được gọi là những người được chúc phúc của Thiên Chúa Cha. Xin Thiên Chúa chúc lành cho các bạn.

 

52. Lễ Chúa Kitô Vua

"Hoàng tử và người hành khất" là câu chuyện của Mark Twain về hai em bé sống cách đây 300 năm ở nước Anh. Hai em bé không chỉ là bạn tốt của nhau, mà chúng còn giống nhau như như anh em sinh đôi. Một em là Edward, hoàng tử xứ Wales, em kia là Tom Canty, một chú bé nghèo khổ.

Một ngày kia, thật là trò vui, hai em quyết định chuyển địa vị, chúng thay đổi quần áo. Edward mặc quần áo rách tả tơi của đứa trẻ nghèo khổ và đi lang thang khắp các khu nhà ổ chuột ở London, sát cánh với những người hành khất và thấp kém.

Sau một thời gian hai chú bé mệt mỏi vì trò chơi của chúng. Trong bộ quần áo rách rưới, Edward cố gắng nói cho người cảnh sát biết rằng chú là hoàng tử. Nhưng chú bị tống giam. Ngay khi Tom sắp sửa được phong vương, Edward tỏ lộ và thuyết phục các viên chức chú là hoàng tử thật. Do kết quả kinh nghiệm của mình, Edward trở thành một nhà lãnh đạo công minh và nhân ái.

Tình cảnh giữa Chúa Kitô và chúng ta cũng có cái gì giống như thế. Chúa Kitô là hoàng tử, Con thật của Thiên Chúa. Ngài đã chuyển địa vị với chúng ta, những kẻ nghèo khó. Ngài mang lấy thể xác nghèo hèn chúng ta. Rồi Chúa Kitô làm cho mỗi chúng ta thành hoàng tử bằng cách mặc cho chúng ta áo ân sủng của Ngài, chia sẻ chính sự sống thần linh của Ngài cho chúng ta.

Là Thiên Chúa, Chúa Giêsu biết những thống khổ của loài người. Nhờ trở thành con người, Ngài thực sự chịu đau khổ như mọi người phải chịu. Như hoàng tử trong câu chuyện, Chúa Giêsu học biết yêu thương những người nghèo khổ, Chúa Giêsu học biết yêu thương những người thiếu thốn mọi sự.

Bạn đừng ngạc nhiên vì Chúa Kitô, Vua của chúng ta, đặt để thử thách này cho được vào nhà vĩnh cửu của Ngài: Bạn có giúp đỡ những người thiếu thốn không? Tin Mừng hôm nay là một trong những truyện quan trọng nhất của Chúa Kitô - Tin Mừng cho những người giúp đỡ những ai thiếu thốn, tin buồn cho những ít hay không chú ý đến những nhu cầu của người khác.

Hôm nay bạn hãy xét mình đi. Bạn có bao giờ cung cấp của ăn cho người túng đói không? Có lẽ bạn chưa bao giờ gặp mầu nhiệm chết đói. Tuy thế ai cũng biết có hàng triệu người đang phải chịu cảnh đói. Bạn có giúp đỡ gì qua các cơ quan từ thiện không? Có khi nào bạn thăm viếng tù nhân không? Không phải chỉ là những người ở sau hàng giậu sắt, nhưng còn là những người ở sau hàng giậu cô đơn, dốt nát, sầu khổ.

Bạn đã làm gì cho những người chết đói về tinh thần, bệnh tật về tinh thần, xa lạ về tinh thần, bị giam hãm về tinh thần? Nếu bạn mới chỉ làm ít hay chưa làm gì, thì bạn hãy nghe lệnh truyền "Khởi hành".

Tin Mừng còn đi xa hơn, những gì bạn làm cho người túng thiếu là bạn làm cho chính Chúa Kitô. Hãy lưu ý: "Ta đói... khát... ốm đau... là khách lạ". Những gì các con làm hay không làm, là các con đã làm hay không làm cho chính Ta. Chúa Kitô tự đồng hóa với những người túng thiếu, Vua chúng ta đói, Vua chúng ta khát, Vua chúng ta là khách lạ, Vua chúng ta trần trụi, Vua chúng ta yếu đau. Vua chúng ta bị cầm tù.

Phải, chúng ta phụng sự và tôn thờ Chúa Giêsu Kiô Vua chúng ta trên bàn thờ này, nhưng chúng ta cũng phải phụng sự và tôn thờ Ngài trong những người túng thiếu của Ngài. Rồi Ngài sẽ gọi chúng ta vào buổi tận cùng. "Hãy đến".

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

 

53. Lễ Chúa Kitô Vua.

Chúng ta hãy tưởng tượng giả sử ngày hôm nay có một người khách lạ nào đó chưa bao giờ nghe đến Kitô giáo là gì, và người đó đang ở giữa chúng ta, cùng tham dự Thánh lễ Chúa Nhật hôm nay với chúng ta, khi nghe chúng ta tung hô "Chúa Giêsu là Vua vũ trụ". Ngỡ ngàng, người đó hỏi chúng ta: "Quí vị có một vị Vua à? Ngài ở đâu? Làm sao có thể gặp Ngài được?". Lúc đó có lẽ đức tin sẽ soi sáng giúp chúng ta tìm ra những câu trả lời thật hay, thật ý nghĩa. Nào là Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha kể từ khi Ngài từ cõi chết sống lại. Nào là Ngài đang hiện diện với cộng đoàn các tín hữu. Nào là Ngài là Vua của vũ trụ, vì Ngài đã tạo dựng vũ trụ này cho con người.

Đó là những câu trả lời đúng nhưng chưa đủ, vì chưa trả lời câu hỏi: "Làm sao để gặp được Ngài?. Trong đời sống cụ thể của chúng ta, Chúa Giêsu đang ngự trị ở đâu? Lúc nào và thế nào? Ngài hiện diện ở bất cứ nơi nào của một con người, bất luận nam hay nữ, màu da hay sắc tộc hoặc ngôn ngữ nào. Bởi thật, tất cả những ai đang khao khát muốn tìm gặp được Ngài và muốn yêu mến Ngài, chúng ta phải cố gắng thực hành đức bác ái huynh đệ đối với những người anh chị em ấy.

Với niềm tin đích thực của người Kitô hữu, chúng ta tin rằng Chúa Kitô Vua vũ trụ đang hiện diện và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống, nhưng Ngài đang bị xã hội ruồng bỏ và quên lãng. Sự hiện diện của Chúa Kitô luôn ở bên những người nghèo khổ, rách rưới bị mọi người bỏ rơi. Ngài hiện diện nơi những ngươi bệnh hoạn tật nguyền đang mất hết ý vị của đời sống mà hằng ngày phải chết dần, chết mòn bởi sự cô đơn buồn tủi. Ngài hiện diện nơi những người bị bạc đãi và bị hiểu tầm, vì là nạn nhân của tranh giành ganh tị, chỉ vì khác ý thức hệ, đang lủi thủi chịu số phận hẩm hiu mà không biết than thở cùng ai. Ngài hiện diện nơi những trẻ em bạc phúc bị ruồng rẫy, lầm lạc, đang tìm kiếm một cách vô vọng một chút lương tâm, một chút yêu thương của người khác để lớn lên và phát triển.

Thật vậy, nước Ngài sẽ bao trùm cả nhân loại, vương quốc của Ngài sẽ rạng rỡ huy hoàng khi người khó nghèo được chia cơm sẻ áo, khi con tim người bệnh hoạn tật nguyền buồn đau khổ sầu được an ủi nâng đỡ, khi nhân loại mở rộng vòng tay đón nhận những đứa trẻ chưa bao giờ được yêu thương. Nước Ngài sẽ đến khi công bình và bác ái ngự trị, cho nên vương quốc của Ngài là vương quốc của "Tình Yêu". Tình yêu đó được thể hiện qua từng hành động, từng lời nói của Đức Giêsu Kitô, Vị Vua Chí Tôn Chí Thánh.

Khi đọc Tin Mừng của Ngài, chúng ta chỉ thấy sứ điệp của Ngài là sứ điệp "Yêu Thương", một vị Vua luôn chăm sóc và dạy dỗ thần dân con đường hạnh phúc thật, để cùng nhau sống yêu thương hạnh phúc ở đời này như là một tiền nghiệm của hạnh phúc trường sinh đời sau, nơi nước tình yêu không bao giờ tắt.

Là con dân của nước Thiên Chúa, nước của tình yêu, chúng ta hãy cùng nhau làm tròn bổn phận công dân của mình là góp phần xây dựng cho tình yêu được ngự trị lên mặt đất này. Nếu tôi yêu mến Chúa, tôi không thể nào ngồi yên để hưởng tiện nghi trong đời sống của tôi, trong lúc bao nhiêu người lầm than cực khổ xung quanh tôi đang cần đến tình yêu thương chia sẻ. Tôi biết rằng, tôi không thể làm được gì thêm cho Chúa cả, vì Người là Đấng trọn tốt trọn lành. Nhưng tôi là thần dân trong nước của Chúa, tôi không mang lại cho anh chị em của tôi một cái gì và đó chính là điều tôi bị xét đoán. Sự xét đoán ấy là xét đoán về tình yêu đối với đồng loại.

Vì thế, nếu tôi chỉ biết thu mình trong cái vỏ ốc ích kỷ, tôi cũng sẽ nghe Chúa tuyên phán với tôi rằng: "Ta đói các ngươi không cho ăn, Ta khát các ngươi không cho uống. Ta rách rưới các người không cho áo mặc. Ta không có nơi cư ngụ, các ngươi không cho nơi nương tựa. Ta là người nghèo khó vô sản, ngươi đã không thiết tập lại công bình". Rồi còn bao nhiêu án nữa sẽ tuôn xuống trên con người không biết thương xót.

Yêu ai thì giống người ấy. Tôi không thể yêu Thiên Chúa là Vua Tình Yêu, khi tôi không giống Người là Đấng hay thương xót. Tình yêu của con người đối với Thiên Chúa là chiêm niệm và cầu nguyện, nhưng đối với tha nhân là linh hoạt và hay phân phát. Cho nên khi đã nhận Đức Giêsu Kitô là Vua chúng ta phải cố gắng sống xứng đáng là công dân của nước Người, nước của tình yêu.

 

54. Chúa Giêsu là vua

Vào năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập lễ Đức Kitô vua, mục đích là để xác định vai trò và chỗ đứng đặc biệt của Chúa Giêsu trong đời sống riêng tư của mỗi người, cũng như trong sinh hoạt của cộng đồng Giáo hội. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tước hiệu cao cả này.

Trước hết là trong Cựu Ước.

Với những thánh vịnh, vua Đavít đã cho chúng ta thấy Đức Kitô chính là vua, một vị vua hòa bình sẽ đến để cai trị trong yêu thương:

- Ta sẽ đặt một vị vua ở Sion, trên núi thánh của Ta.

Trong khi đó, tiên tri Isaia lại giới thiệu với chúng ta một vị vua đầy quyền năng:

- Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài, Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Ngài sẽ không bao giờ cùng.

Tiếp đến là trong Tân Ước.

Qua Tin Mừng, chúng ta thấy được nơi Đức Kitô hình ảnh ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài là một vị vua vinh hiển, điều khiển cả vũ trụ. Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ đến trên mây trời để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Chính Đức Kitô, trong những giây phút cuối cùng, đối diện với cái chết, Ngài vẫn xác quyết trước mặt Philạô:

- Phải, tôi là vua.

Chính vì thế, bản án của Ngài đã được ghi:

- Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái.

Thế nhưng, tước hiệu Kitô vua nổi bật hơn cả trong bầu khí phụng vụ. Đúng thế, chúng ta có thể nói: Tất cả niên lịch phụng vụ đều xoay quanh chủ đề này.

Thực vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta mong đợi một vị vua sẽ đến. Với lễ Giáng sinh, chúng ta không chỉ mừng kính một hài nhi bé nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, mà còn mừng kính một vị vua hòa bình. Nhất là với lễ Hiển linh, chúng ta nhìn thấy vị vua ấy xuất hiện và tỏ lộ vinh quang cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ Phương Đông. Và chúng ta có thể tóm kết tinh thần của mùa giáng sinh, đó là Đức Kitô đến để thiết lập một vương quốc của ánh sáng và tình thương.

Bước vào mùa phục sinh, Giáo hội không phải chỉ dừng lại ở những đau khổ của Đức Kitô, nhưng qua những đau khổ ấy, Giáo hội còn nhìn thấy cả chiến thắng vinh quang của Ngài. Trong ngày lễ lá, chúng ta tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, một cách long trọng như một vị vua và chúng ta không ngừng tung hô:

- Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô Chúa trên các tầng trời.

Tiếp đến, ngày thứ sáu tuần thánh, ngày u buồn nhất của năm phụng vụ, chúng ta thấy Giáo hội đã nhìn thập giá như ngai tòa, như lá cờ của một vị vua đang tiến lên, như bước khởi đầu cho vương quốc của Chúa, như lời Ngài đã phán:

- Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.

Rồi trong ngày lễ Phục sinh và lên trời, chúng ta mừng kính cuộc khải hoàn của Đức Kitô, để rồi từ đó Ngài vĩnh viễn thiết lập vương quốc và trở thành vua của cả vũ trụ.

Tóm lại, niên lịch phụng vụ luôn nhìn ngắm Đức Kitô như một vị vua. Đó cũng là điều mà toàn thể thế giới Công giáo ngày hôm nay tuyên xưng.

Thế nhưng tuyên xưng mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống điều chúng ta đã tuyên xưng, nghĩa là, chúng ta phải trung thành với Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, bằng sống một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó góp phần làm cho vương quốc của Đức Kitô được mở rộng trên trần gian này.

 

55. Tình yêu

Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Côcadơ ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một ông vua Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực, ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ. Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng hay hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng. Điều không may xảy ra cho ông, người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông, sự kiện này làm cho ông đau khổ khó nghĩ. Không có luật trừ hay châm chước nào đối với sắc lệnh mà ông đã ban hành.

Liên tiếp ba ngày liền nhà vua ngồi yên trong phòng để suy nghĩ, sang ngày thứ tư, ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai người lính trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo luật định. Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên người mẹ ông, thì nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà, ông mở trói cho bà, rồi ra lệnh cho hai người lính trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua, với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói: “Bây giờ thì các ngươi có thể ra về, luật đã được thi hành, máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội ác này”. Kể từ ngày đó, trong đất nước, người ta không còn bao giờ nghe đến nói tội tham nhũng hay hối lộ nữa.

Hình ảnh của ông vua trên đây có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào điều mà Giáo Hội gọi là mầu nhiệm nhập thể cứu độ. Chúa Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa hoá thân làm người để cứu độ con người. Cũng như ông vua Hồi giáo trên đã chịu đòn thay cho mẹ và diệt trừ tham nhũng, hối lộ khỏi đất nước, Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người, trải qua tất cả những cảnh huống của con người, kể cả cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ con người.

Nói rõ hơn, Thiên Chúa yêu thương con người. Tình yêu ấy không phải là một lý thuyết trừu tượng nhưng đã trở nên hữu hình, và loài người có thể cảm nghiệm được qua con người và cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là chính tình yêu của Thiên Chúa giữa người trần, có nghĩa là vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho chúng ta. Ngài dùng con Ngài để thực hiện ý định yêu thương của Ngài, như thánh Gioan đã viết: “Cứ dấu này chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, là Ngài đã sai con một xuống trần để cứu chuộc chúng ta”. Chúa Giêsu đã đến, Ngài đã giảng dạy và cuối cùng, Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá. Thập giá là đỉnh cao cuộc đời Chúa Giêsu và cũng là đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa, như Chúa đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì người mình yêu”.

Nếu Thiên Chúa là tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay đã thuật lại. Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin Mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết: “Tôi bảo thật, những gì anh em làm cho một trong những người bé nhỏ của tôi, là anh em đã làm cho chính tôi”. Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nơi chính mỗi người Kitô hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lên lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người.

 

56. Tình thương

Cách đây ít lâu, một người lính Mỹ đang ngồi trên xe buýt ở Thụy Điển nói chuyện với một người đàn ông ngồi bên cạnh rằng, “Nước Mỹ là một quốc gia dân chủ nhất trên thế giới. Những người công dân bình thường có thể đi tới toà Bạch Ốc để gặp tổng thống và thảo luận công việc”. Người đàn ông bên cạnh trả lời, “Điều đó đâu có đáng là gì. Ở Thuỵ Điển, nhà vua và dân chúng cùng đi với nhau trên cùng một chiếc xe buýt kìa”. Khi người đàn ông vừa nói chuyện đó bước xuống khỏi xe buýt, người lính Mỹ đã được các hành khách khác còn lại trên xe nói cho biết người ấy chính là vua Gustav Adolf VI.

Trong bài Phúc âm hôm nay nói về “Dụ ngôn cuộc phán xét chung” nói lên những điều nghịch thường của đức tin Kitô giáo. Ngày nay nói đến sự cai trị, người ta nghĩ đến sức mạnh của vũ trụ, quyền lực, kinh tế, tiền bạc, quảng cáo, thị trường… Chúa Giêsu nói đến sự cai trị bằng tình yêu, phục vụ và trách nhiệm. Chúa Giêsu là Đức Vua. Người đến không phải để được phục vụ, nhưng phục vụ, và hy sinh mạng sống của Người làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Vương quốc của Người gồm những người cùng cực, nghèo khổ, đói khát, trần truồng, bị bỏ rơi và tù tội. Những ai săn sóc, phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của họ thì thuộc về vương quốc của Người.

Ngược lại, chúng ta sẽ bị phạt “nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng những nhu cầu nghiêm trọng của những người nghèo khó và của những kẻ bé mọn, anh chị em của Ngài”. “Thiên Chúa chúc phúc cho những ai giúp đỡ những người nghèo và Ngài lên án những kẻ ngoảnh mặt đi”. Trong cuốn sách “One Heart Fullof Love”, Mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã cảnh giác:

“Đức Kitô đã lấy sự trao ban trọn vẹn toàn thân mình làm điều kiện để có sự sống. Người sẽ phán xét chúng ta khi giờ chết đến. Chúng ta sẽ được xét đoán trên những gì đã làm cho người nghèo khổ, trên thái độ chúng ta đối với họ. Người nói với chúng ta: “Ta đói nhưng các ngươi đã không cho Ta ăn. Ta đói bánh, đói sự công bằng, đói nhân phẩm con người, nhưng các ngươi đã bỏ mặc Ta! Ta trần truồng và bị tước hết mọi điều cần thiết, Ta bị sự công bằng chối từ, và ngay cả điều đơn giản nhất được nhìn nhận rằng Ta cũng giống như các ngươi, được cùng một Thiên Chúa tình yêu tạo dựng nên để yêu thương và được yêu thương, ngay chính điều đơn giản đó, Ta cũng bị khước từ. Các ngươi đã để mặc Ta chết, mặc Ta cô đơn và bị xua đuổi. Ta đã bị quẳng ra đầu đường xó chợ, không một ai đoái hoài, không một ai thương xót và chôn vùi trong quên lãng”.

Một người thanh niên tên là Michael Christensen đã trải qua một thời gian phục vụ chung với Mẹ Têrêsa trong những xóm dân nghèo ở Calcutta. Trong cuốn sách của anh tựa đề là “City Streets, City People”, anh mô tả về một gánh nặng đau đớn không thể tưởng tượng nổi mà Mẹ Têrêsa đã phải chứng kiến mỗi ngày:

Anh kể lại rằng một ngày nọ Mẹ Têrêsa đã cứu được một em bé bị bỏ rơi dưới cống rãnh. Cánh tay và bàn chân của em đã bị lũ chuột rúc rỉa mất gần hết. Vào cuối ngày hôm đó, Mẹ Têrêsa hỏi Michael Christensen rằng anh đã trông thấy Chúa Giêsu chưa. Christensen vẫn còn đang tập trung vào những hình ảnh kinh hoàng xẩy ra chung quanh, đã chấp nhận rằng anh không thấy Chúa Giêsu ở đâu cả. Mẹ Têrêsa đã dùng những lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong chương 25 của thánh Matthêu về việc săn sóc những người nghèo đói, yếu đuối để giải thích cho anh. Và sau cùng Mẹ chỉ nói rất đơn giản rằng, “Con đã làm cho chính Ta”. Mẹ Têrêsa đã nhìn thấy Chúa Giêsu chung quanh Mẹ mỗi ngày.

 

57. Tình thương

“Dụ ngôn cuộc phán xét chung” cũng trình bày một bối cảnh người mục tử tách rời chiên ra khỏi dê. Đây là điểm sẽ tạo nên ngạc nhiên. Ai là chiên? Ai là dê? Đã có những người không nhận ra rằng họ đang phục vụ cho Chúa Kitô khi họ cho những người đói khát ăn uống, cho kẻ mình trần mặc, đón tiếp khách lỡ đường, viếng thăm người đau ốm, tù đày. Và cũng có những người đã không nhận ra rằng họ đã thực sự chểnh mảng, không săn sóc Đức Kitô, khi họ làm ngơ trước những nhu cầu của những người nghèo khổ.

Ngày 12 tháng 4 năm 1961, phi hành gia Yuri Gagarin của Nga Sô, người đầu tiên bay vào không gian du hành xung quanh quỹ đạo của trái đất, tuyên bố khi trở về rằng đã không nhìn thấy Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào trong cuộc hành trình vào không gian bao la của mình. Nghe được lời phát biểu của ông, một linh mục người Nga đã bình luận rằng: “Nếu bạn chưa nhìn thấy Thiên Chúa trên trái đất, bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy Ngài ở trên các tầng trời được”. Thật đáng thương cho Yuri, vào năm 1968 ông đã bị tử nạn trong một tai nạn máy bay khi làm huấn luyện viên phản lực cơ MIG.

Làm thế nào để tìm thấy Thiên Chúa trên trái đất? Chúa Giêsu trả lời: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù các ngươi đã đến thăm”. “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.

Văn sĩ Kitô giáo, C.S. Lewis, người đã chết vào cùng ngày với tổng thống John F. Kennedy bị ám sát, đã đưa ra nhận xét này. “Khi chúng ta đi lên trời, sẽ có ba điều ngạc nhiên: Trước hết, chúng ta sẽ ngạc nhiên bởi những người chúng ta gặp thấy ở đó, chắc chắn rằng nhiều người chúng ta không mong muốn nhìn thấy họ. Ngạc nhiên thứ hai là chúng ta sẽ kinh ngạc vì những người vắng mặt – những người chúng ta đã nghĩ rằng phải ở trên thiên đàng, nhưng lại không có mặt. Ngạc nhiên thứ ba, dĩ nhiên, sẽ là vì chúng ta có mặt ở đó.

Phúc âm nói rất rõ, người được cứu và người không được cứu, chiên và dê sẽ bị phân chia ra bởi tiêu chuẩn căn bản dựa trên những việc làm bác ái yêu thương, chứ không phải dựa vào danh giá, chức vụ và địa vị xã hội. Và đây chính là điều làm cho nhiều người phải ngạc nhiên.

Một văn sĩ Kitô giáo khác, Frederick Buechner đã diễn tả cùng một tư tưởng này như sau: “Nhiều người vô thần là một người có lòng tin mà không biết. Ngược lại, nhiều người có lòng tin lại là một người vô thần mà không hay biết. Bạn có thể thành thật tin tưởng rằng không có Thiên Chúa nhưng lại sống như thể có một Đấng Tối Cao. Ngược lại bạn cũng có thể thành thật tin tưởng rằng có một Thiên Chúa nhưng lại sống như thể không có gì”.

Chưa bao giờ sự chênh lệch giữa những người giàu có và những người nghèo khổ lại càng ngày càng tách biệt như ngày nay. Người Mỹ chiếm tỷ lệ 4/o dân số thế giới, nhưng đã tiêu thụ đến 40/o số dầu hỏa của nhân loại. Họ nắm trong tay 80/o của cải của thế giới. Tài tử Jack Nicholson chỉ nói mấy câu tếu táo trong phim Batman đã lãnh được 10 triệu đôla. Nhà võ sĩ quền Anh hạng nặng Buster Douglas xuất hiện trên võ đài 7 phút để bị thua trận đổi lấy 24 triệu đôla. Tài tử Bill Cosby với lợi tức cả trăm triệu đôla hàng năm nếu di chuyển đến sống ở một quốc gia nhỏ bé nào đó, có thể làm cho lợi tức của toàn thể quốc gia đó tăng lên gấp đôi. Ca sĩ Michael Jackson đã thương lượng với nhà xuất bản để ra một CD với hợp đồng đòi hỏi tăng từ 18 triệu tới 25 triệu đôla. Tất cả các cầu thủ thể thao về bóng rổ, baseball và football, đều là các triệu phú! Michael Jordan ký hợp đồng 37 triệu đôla một năm…

Trong khi đó theo báo cáo của hội nghị quốc tế về tình trạng của các trẻ em trên thế giới. Mỗi năm, có khoảng 14 triệu trẻ em chết oan uổng vì đói ăn, suy dinh dưỡng, và thiếu sự săn sóc về thuốc men. Bà Oprah Winfrey trên show truyền hình đã đề nghị rằng chỉ cần mỗi người Mỹ bỏ ra 19 xu một tuần, chưa tới 10 đôla một năm, có thể cứu vớt được 14 triệu sinh mạng trẻ em dễ dàng. Có người đề nghị rằng chỉ cần cắt giảm 10/o ngân sách quốc phòng của Mỹ cũng có thể cứu sống được 14 triệu sinh mạng hàng năm.

Đối diện với tình trạng khủng hoảng của thế giới hiện nay, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi mọi người hãy dấn thân xây dựng một nền văn minh mới:

“Chính ngài nói với bạn “Hãy chỗi dậy! Hãy chỗi dậy!” Ngài yêu cầu bạn từ bỏ các ngẫu tượng của thế giới và chọn Ngài là tình yêu, thứ tình yêu mang lại một ý nghĩa hoàn toàn cho cuộc sống của bạn và kêu mời bạn hướng về tuổi xuân cũng như về mùa xuân, vui vẻ sống mùa xuân trong việc trao tặng, trao tặng chính mình, trao tặng Chúa Kitô, trao tặng Ngài cho mỗi một người chúng ta, và sau đó trao tặng chúng ta cho Ngài, trao tặng chúng ta cho tha nhân cũng như trao tặng chúng ta cho Ngài qua tha nhân. Đó là viễn ảnh của việc xây dựng một nền văn minh khác, một nền văn minh mới: nền văn minh tình thương.

Thật vậy, Giáo Hội xét như hiền thê của Chúa Giêsu, tiếp nối công việc mục vụ của Người, Giáo Hội luôn dứt khoát chọn lựa đứng về phía những người nghèo và những kẻ bị bỏ rơi. Giáo Hội đã không ngừng lên tiếng, kêu gọi và đấu tranh chống lại sự nghèo đói, bất công xã hội dưới mọi hình thức, nghèo về vật chất, tinh thần, và đặc biệt nghèo tình thương yêu.

Trong cuộc cách mạng Pháp vào năm 1789 đã xảy ra một câu chuyện về một bà mẹ đi lang thang trong rừng ba ngày với hai người con, họ không có gì ăn, phải ăn rễ và lá cây rừng để sống. Vào ngày thứ ba, bà mẹ nghe thấy tiếng của những người lính đang tiến đến gần, bà vội lôi kéo hai người con chui vào một bụi rậm ẩn trốn. Viên trung sĩ chỉ huy đám lính đi lục soát các bụi rậm đã nhìn thấy người mẹ đói khổ và hai đứa con thì chạnh lòng thương bèn đem cho họ một ổ bánh mì. Bà mẹ cầm ngay lấy nó, bẻ ra làm hai miếng, và cho mỗi người con một nửa. “Bà mẹ chẳng giữ miếng nào cho bà ấy cả”, viên trung sĩ nói. “Bà ấy không đói sao?” một người lính hỏi. “Không phải vậy, vì bà ấy là mẹ”, viên trung sĩ trả lời. Đứng trước nhu cầu của thế giới hiện nay, Mẹ Giáo Hội nhận thấy cần phải đáp lại bằng một nền văn minh của tình thương, qua lời nhắn nhủ của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tình thương đó dựa trên tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Vua của lòng thương xót, là nền tảng cho tất cả các giá trị phổ quát mà con người đang đi tìm kiếm.

 

58. Làm sao tự định giá

Khi Albert Einstein thường đi nhiều nơi nói về thuyết Tương Đối. Ông thường có người lái xe cho ông. Một hôm, đang trên đường, anh tài xế nói: "Thưa tiến sĩ Einstein, tôi nghe ngài giảng bài này cả chục lần, tôi thuộc lòng rồi và tôi bảo đảm tự tôi có thể giảng cũng được." Einstein trả lời: "Được lắm, tôi cho anh có cơ hội. Những người tại đại học này chưa gặp mặt tôi. Khi đến đó, tôi sẽ đội mũ tài xế và anh sẽ giới thiệu tôi là tài xế của anh rồi anh bắt đầu giảng." Mọi việc xảy ra y như họ dự tính và anh kia giảng bài một cách trơn tru. Đến khi một giáo sư đứng lên hỏi một vấn đề liên quan đến công thức toán, anh ta nhanh trí trả lời: "Câu giải đáp của vấn đề đó quá đơn giản. Tôi không ngờ giáo sư lại hỏi tôi. Để thấy vấn đề đơn giản thế nào, tôi sẽ để tài xế của tôi trả lời."

Làm thế nào để nên trọn lành? Làm thế nào để biết chính mình và mình phải làm cái gì? Làm thế nào hiểu rõ được mình thực đáng giá và thực có mục đích? Câu trả lời thật đơn giản và chúng ta nghe Chúa Giêsu trả lời: "Hãy đến, các con được Cha chúc phúc, hưởng phúc thiên đàng Cha đã sắm sẵn từ tạo thiên lập địa" (Mt 25,34). Họ đã học được bí quyết trở nên hoàn hảo. Chúa Giêsu nói tiếp về đức tính thương người, tế nhị của họ: "Các ngươi đã cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ yếu đau, tù đầy, an ủi người cô đơn..."

Chúng ta có tin lời Chúa Giêsu không? Chúng ta có chấp nhận quan điểm của Chúa Giêsu về Nước Thiên Chúa không? Chúng ta có chấp nhận khi Ngài nói đến điều để thuộc về hay không thuộc về Nước Thiên Chúa, đó là "cùng với người khác" (together) không? Theo Chúa Giêsu, để thuộc về Nước Thiên Chúa, để nên hoàn hảo, chúng ta phải đối xử tử tế với mọi người, hành động tử tế xuất phát từ lòng yêu thương quan tâm đến sự cần thiết của người khác.

Đạt được tự tin, tự trọng cao, tâm trí bình an, có cảm nghĩ mình giá trị, mình có mục đích cho cuộc sống, mình ổn định, đó là điều mọi người mong muốn. Đúng vậy, chúng ta đều muốn trở nên hoàn hảo, nhưng làm thế nào để được như vậy. Thời nay người ta viết không biết bao nhiêu sách chỉ dẫn làm thế nào gỡ rối chính mình và làm thế nào ráp nối lại chính mình. Các sách tâm lý phổ thông nhiều vô kể và nó có thể giúp được một số người nhưng đối với số đông thì nó gây rối thêm. Khi hiểu được các điều mà các nhà chuyên môn đề nghị để giải quyết vấn đề thì các điều đó nhấn mạnh rằng: "Để được thành toàn trong cuộc sống, người ta cần để ý đến nhau, cần hiểu nhau hơn. Chúng ta không thể nên viên mãn lẻ loi."

Lời Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay nói lên một cách đơn thành rằng nên hoàn hảo là tuyệt đối chấp nhận tiêu chuẩn Chúa đề ra là quan tâm đến người khác: "cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, thăm tù nhân và kẻ ốm đau."

Nước Thiên Chúa không nên coi là một viễn tượng không đạt được hay một ước mong không thực tế. Hiện thực hoá Nước Thiên Chúa tùy thuộc mỗi người chúng ta. Nước Thiên Chúa hiện hữu và phát triển ngay trong đời sống của mọi người chúng ta trên trần gian. Mỗi người chúng ta có trong mình một tình yêu được thừa hưởng vì là con cái Thiên Chúa: "Sẽ không còn sự chết, không còn buồn đau, không còn nước mắt, không còn than khóc hay đau đớn. Thế giới cũ đã qua đi." Những điều đem lại lộn xộn và phá hủy nhân loại là do con người. Trách nhiệm của chúng ta, những người theo Chúa Kitô, là bắt đầu thay đổi cái thế giới cũ đó, là bắt đầu sống một đời sống mới trong tình yêu, và đó là Nước Thiên Chúa ngay giữa chúng ta.

Thiết lập Nước Thiên Chúa trong thế giới này là một ưu tiên trước hết của những người theo Chúa Kitô. Chúng ta được gọi để công bố Nước Chúa trong hòa bình, công lý và yêu thương. Tác giả sách Khải Huyền diễn tả: "Tôi thấy trời mới đất mới. Trời cũ đất cũ đã qua đi... Tôi thấy thành thánh Giêrusalem mới xinh đẹp như cô dâu trang điểm ra gặp chú rể. Tôi nghe tiếng nói lớn: "Đây là nơi Thiên Chúa ở với con cái loài người. Họ là dân của Chúa và Chúa là Chúa của họ. Chúa sẽ ở với họ." Đây không phải chỉ là một thành phố mới nhưng là một bầu khí mới.

Làm thế nào hiểu rõ được mình thực đáng giá và thực có mục đích? Câu trả lời được tìm thấy trong lời Chúa Giêsu: "Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống..." Hãy yêu kẻ khác như Chúa yêu chúng ta và chúng ta sẽ trở nên toàn vẹn như Chúa muốn cho mỗi người chúng ta.

 

59. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Người đời chúng ta dựa vào tiêu chuẩn nào để phân biệt người tốt kẻ xấu? Khi Thiên Chúa phán xét nhân loại, Ngài có phân biệt theo kiểu của chúng ta không? Ngài có mạc khải về những tiêu chuẩn phân biệt của Ngài không?

2. Thiên Chúa phân biệt kẻ xấu với người tốt dựa trên tiêu chuẩn nào? Tại sao vậy? Phân biệt theo tiêu chuẩn ấy có hợp lý không?

3. Qua bài Tin Mừng này, bạn có rút ra được bài học gì mới cho việc nên thánh của bạn không? Quan niệm về nên thánh của bạn có gì thay đổi không?

Suy tư gợi ý:

1. Viễn cảnh cánh chung: phân biệt chiên và dê

Bài Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời gian, cũng là của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ phân mọi người trên trần gian thành hai loại: một bên là những kẻ thật sự tin theo Ngài, bên kia là những kẻ không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng lời nói, nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin. Để ám chỉ hai hạng người này, bài Tin Mừng dùng hình ảnh chiên và dê, là hình ảnh mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng (x. Ed 34,17-24). Vì chiên và dê là hai loài thú cùng được chăn nuôi chung trong một đồng cỏ, ở chung với nhau trong một ràn. Chỉ đến thời kỳ xén lông thì người ta mới phân rẽ chúng theo loại. Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) cũng cho thấy hai loại cây cùng sống chung với nhau - không phân biệt được - trên cùng một thửa ruộng. Cả hai cùng lớn lên bên cạnh nhau cho tời mùa gặt, chỉ tới lúc đó chúng mới bị phân rẽ: “cỏ lùng thì bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho lẫm” (13,30). Tương tự, chỉ tới ngày cánh chung, kẻ tin và không tin, kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin mới được phân chia và tách biệt. Chúng ta hãy thử tự xét xem, vào ngày đó, mình thuộc loại nào?

2. Tiêu chuẩn để phân loại

Chỉ có Thiên Chúa, với trí tuệ sáng suốt vô cùng, nhìn thấu suốt tâm can con người, mới có thể xét từng người để xếp họ vào loại nào. Tin Mừng cho ta thấy:

- ngày ấy, toàn nhân loại chỉ được phân ra thành hai loại: chiên và dê, tượng trưng cho người hiền và người dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa, không có loại thứ ba.

- ngày ấy, Thiên Chúa phán xét theo hành động chứ không theo lời nói của con người. Vấn đề là có làm hay không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay không, có tuyên xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế nào.

- ngày ấy, Thiên Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo một tiêu chuẩn duy nhất: cách mỗi người đối xử với tha nhân chung quanh mình.

Dường như không có một tiêu chuẩn nào khác: Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần biết ai đi lễ nhiều, ai đọc kinh nhiều, ai lần chuỗi nhiều, ai hành hương nhiều, ai cúng vào nhà thờ nhiều, v. v... Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, chính hành động của chúng ta - chứ không phải lời nói hay cái gì khác - quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia.

3. Đó là tiêu chuẩn thực tế để phán xét ai tin và ai không tin

a) Tin vào Đức Giêsu là điều kiện để được cứu độ

Trên nguyên tắc, ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ được cứu độ (x. Cv 16,31; Rm 10,9; 10,13), và người ta được nên công chính là nhờ đức tin (x. Rm 1,17; 3,22.26.30; 9,30; 10,4) chứ không phải nhờ việc làm (x. Rm 3,28; 9,32; Gl 2,16; 3,11;). Thật vậy, người ta không trở nên công chính nhờ vào việc làm, hay nhờ việc tuân giữ nghiêm chỉnh các điều luật dạy. Thật vậy, rất nhiều người có những hành động rất tốt, rất thiện hảo, thậm chí rất vĩ đại, nhưng không phát xuất từ đức tin hay tình yêu thương, mà từ một động lực vị kỷ, nhằm lợi lộc cho mình. Nhiều nhà tỉ phú bỏ tiền ra xây bệnh viện, trường học để phục vụ người nghèo với điều kiện là bệnh viện hay trường học đó phải mang tên mình, để mình được lưu danh muôn thuở là người đạo đức, biết yêu thương người nghèo. Hành động bố thí như thế không làm cho người ấy nên công chính, vì không phát xuất từ đức tin hay tình thương.

b) Đức tin ấy phải đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm

Người ta chỉ trở nên công chính nhờ đức tin. Nhưng đức tin làm cho người ta nên công chính phải là đức tin đích thực: “Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính” (Rm 10,10). Đức tin đích thực không phải là loại “đức tin rẻ tiền”, là thứ đức tin chỉ được tuyên xung ngoài môi miệng mà không đi vào cuộc sống, không được chứng tỏ bằng việc làm hay hành động. Hàng rẻ tiền thường là hàng giả. Đức tin đích thực phải là thứ “đức tin đắt giá”, không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, mà được chứng tỏ bằng hành động, bằng những hy sinh cụ thể theo sự đòi hỏi của đức tin. Đức tin của chúng ta luôn luôn đòi hỏi một thái độ, một sự lựa chọn thích hợp. Vì không thể vừa tin, mà lại vừa có đời sống trụy lạc, hèn nhát, tham lam, ích kỷ... Thánh Gia-cô-bê xác định: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,14.17).

c) Việc làm của đức tin là việc làm gì?

Tin ở đây là tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu. Mà bản chất của Thiên Chúa chính là Tình Yêu, và Đức Giêsu chính là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa giữa nhân loại. Do đó, những ai thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu, ắt phải yêu mến Ngài và trở nên giống Ngài, nghĩa là trở nên một hiện thân của tình yêu giữa những người chung quanh, gần gũi với mình nhất, đặc biệt với những người đau khổ, túng thiếu, bị áp bức, bất công, cần lòng thương xót. Như vậy, muốn biết ai tin vào Ngài, thì cứ xem cách người ấy cư xử với những người chung quanh, những người gần gũi nhất (vợ con, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, bạn bè thân thiết...), và những người nghèo khổ cần được cứu giúp. Nếu tin Thiên Chúa đích thực, người ấy ắt sẽ phải cư xử với họ bằng tình thương, cụ thể qua sự hy sinh, chấp nhận mất mát đau khổ vì họ.

Vả lại, những người chung quanh ta, đặc biệt những người đang đau khổ cần được ta nâng đỡ, cứu giúp, chính là hiện thân của Thiên Chúa hay của Đức Giêsu bên cạnh chúng ta. Đức Giêsu xác định rõ điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Vì thế, yêu Ngài thì ắt nhiên cũng phải yêu hiện thân của Ngài bên cạnh chúng ta. Do đó, tới ngày phán xét, Ngài chỉ cần dùng một tiêu chuẩn để xét xem chúng ta có tin vào Ngài không, là dựa vào cách cư xử của chúng ta với tha nhân.

Để tóm gọn lại cách nên thánh cho chúng ta, Đức Giêsu nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Tóm lại, yêu thương tha nhân chính là tiêu chuẩn để phân biệt giữa môn đệ đích thực của Đức Giêsu với những người khác.

Cầu nguyện

Tôi nghe Đức Giêsu nói với tôi: “Anh tin Thầy và sống đạo của Thầy thế nào, Thầy chỉ cần dựa vào cách anh đối xử với những người chung quanh anh là Thầy biết ngay. Chắc chắn anh không thể tin Thầy đích thực khi anh đối xử với những người chung quanh anh không ra gì. Họ chính là hiện thân của Thầy bên cạnh anh. Anh đối xử với họ thế nào là đối xử với chính Thầy như vậy. Anh yêu họ chính là anh yêu Thầy. Anh làm điều gì cho họ, chính là anh làm điều đó cho Thầy”.

 

home Mục lục Lưu trữ