Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 85
Tổng truy cập: 1367874
HÃY MỞ RA, TỨC THÌ TAI ANH TA MỞ RA, VÀ ANH TA NÓI ĐƯỢC
EPHATA, HÃY MỞ RA, TỨC THÌ TAI ANH TA MỞ RA,
VÀ ANH TA NÓI ĐƯỢC
Chắc chúng ta đã có kinh nghiệm “như câm như điếc” khi chúng ta chưa giỏi tiếng Anh mà phải sống ở ngoại quốc. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi những năm đầu ở Ý và khi sang đi hè ở Mỹ này. Người ta nói mà mình không có hiểu. Mình có tai mà như điếc vậy. Khó khăn ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất của nhưng ai khi ở nước ngoài. Bởi vì tiếng Việt của chúng ta hoàn toàn khác biệt với những ngôn ngữ Tây Phương, khác biệt về cấu trúc, ngữ pháp, cách diễn dạt.. Và nếu nắm vững ngôn ngữ là chúng ta nắm được chìa khóa vạn năng cho các vấn đề khác.
Chúng ta sống và tồn tại là trong tương quan với người khác. Chính nhờ tương quan và hiệp thông với người khác làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú và giàu có. Không ai là một hòn đảo, nhưng mỗi người đều có tương quan trước hết với Thiên Chúa, với Tha nhân và với chính mình. Muốn xây dựng cuộc đời có ý nghĩa chúng ta phải phát triển mình trong ba tương quan đó.
Và để có tương quan với người khác, với thế giới bên ngoài chúng ta cần có lời nói, ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ chúng ta có thể bày tỏ, chia sẽ những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, đồng thời chúng ta có thể lắng nghe được những tâm tư của người khác.
Nếu chúng ta đánh mất khả năng nghe và nói, chúng ta sẽ mất khả năng thông truyền với thế giới bên ngoài. Tự đặt mình trong trường hợp bị câm điếc, chúng ta mới hiểu được nỗi đau của người câm điếc và chúng ta mới thấy quí cái tai và cái miệng của mình. Mình được lành lặn là một hồng ân rồi.
Tim mừng hôm nay nói tới tình cảnh đáng thương của người câm điếc. Anh ta vừa cầm vừa điếc. Bệnh tật đày đọa đã khổ rồi. Nhưng anh còn khổ hơn vì quan niệm của người Dothái cho rằng: bệnh tật là do hậu qủa tội lỗi của anh hay của Cha mẹ anh. Bị loại trừ khỏi cộng đoàn. Và chính Thiên Chúa cũng bỏ rơi nhưng người như thế. Hiểu như thế thì anh ta rất cô đơn trong nỗi đau của mình.
Đức Kitô hiểu được nỗi đau của anh và đã chữa lành anh khi Ngài nói: Ephata, hãy mở ra! Tức thì tai anh ta mở ra và miệng anh ta nói được.
Lời loan báo trong bài đọc I của Tiên Tri Isaia để an ủi Dân tộc Dothái trong cảnh lưu đày đã được Đức Giêsu thực hiện: “Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhãy nhót như nai, và người câm sẽ nói được”. Đấy là lời loan báo về thời kỳ cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta.
Kính thưa anh chị em,
Chúng ta không có câm điếc về thể lý, nhưng đối diện người câm điếc hôm nay, chúng ta không thể không nghĩ tới tình trạng câm điếc tinh thần mà mỗi người chúng ta có thể mắc phải.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình; khi chúng ta không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi niềm ray rứt và tiếng kêu của những người đau khổ xung quang.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu để nói những lời sự thật, lời của yêu thương và hòa giải. Nhiều lúc trong một ngày chúng ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho người khác…
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đánh giá người khác theo tiêu chuẩn bên ngoài, vật chất, trọng người giàu mà coi thường người nghèo như được nói ở bài đọc II.
Đó là một thứ câm điếc tinh thần mà Chúa đã cảnh báo: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc”.
Ephata, hãy mở ra! Lời đó Chúa cũng nói với chúng ta. Hãy mở ra để cho Chúa chữa lành chúng ta. Hãy mở tai của chúng ta để lắng nghe Tiếng Chúa. Hãy mở miệng chúng ta ra để chỉ nói lời Yêu thương và Sự thật. Hãy mở trái tim của chúng ta để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của người xung quang. Nếu được như thế cuộc sống của chúng ta sẽ đẹp lắm, phong phú và đáng sống lắm.
38. Hãy mở ra!
“Thiên Chúa, Đấng mở đường” là một trong những chủ đề lớn trong các sách Tin mừng. Lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng trung thành và giàu lòng thương xót. Còn Israel, dù là tuyển dân được Thiên Chúa ưu ái và săn sóc như “gà mẹ ấp ủ con dưới cánh”, nhưng họ luôn thay lòng đổi dạ, bất trung, bất tín trước nhiều biến cố của đời sống và trong nhiều giai đoạn của lịch sử.
Trước những lầm lạc của dân Do thái, Thiên Chúa luôn tìm cách sửa dạy. Ngài gửi nhiều tiên tri đến cảnh báo và thức tỉnh họ. Và khi họ đã nhận ra sai lỗi của mình mà ăn năn hối lỗi thì Ngài lại rộng lòng thứ tha. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết cho Dân của Ngài hay cho bất cứ con người nào. Trái lại, Ngài luôn thứ tha bằng cách mở ra nhiều con đường cho con người tiến bước. Đối với Thiên Chúa, khi Ngài đóng một cánh của nào đó lại thì Ngài lại mở ra nhiều cánh của khác. Lịch sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều đó.
Bài đọc một trích Sách tiên tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Ngài cũng cho những người đui mù, tàn tật, câm điếc... được trở lại bình thường. Nói cách khác, Thiên Chúa đã “mở đường” cho họ. Đó là con đường dẫn đưa họ về với cuộc sống bình thường, giúp họ hoà nhịp được với cuộc sống của con người.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy rất rõ hình ảnh của Chúa Giêsu là “Đấng mở đường” đích thực. Ngài đã “mở tai và mở miệng” cho một người bị bệnh câm, ngọng từ lúc bẩm sinh, một điều vượt quá sức tưởng tượng và suy nghĩ của con người. Nhìn thấy anh bệnh nhân “vừa điếc vừa ngọng” từ lúc mới lọt lòng mẹ, chắc có nhiều người thất vọng lắm, vì ai có thể chữa trị cho anh bây giờ!
Theo thói thường, khi đứng trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời, con người thường có thái độ bi quan, tuyệt vọng: tuyệt vọng cho chính mình cũng như tuyệt vọng về người khác. Chúng ta thường hay muốn đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình hay của người khác khi thấy không còn lối thoát trong khả năng của mình nữa. Con người là thế, nhưng Thiên Chúa thì không. Ngài luôn luôn là niềm hy vọng của loài người và Ngài muốn chúng ta cũng hãy biết hành xử trong tin tưởng và hy vọng bằng cách mở ra con đường sống cho chính mình và cho người khác.
Có một chuyện kể rằng: Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.
Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ:
“Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này”.
Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:
– Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế!
Ông thưa với thiên thần:
– Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu.
Thiên thần đáp lại:
– Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi.
Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa.
Câu chuyện trên đây cho chúng ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc. Thiên Chúa thật sự là Đấng mở đường. Chúng ta không được phép thất vọng về chính mình hay về người khác. Những hoàn cảnh trớ trêu trong cuộc đời này xảy ra, nếu chúng ta biết tận dụng và có cái nhìn linh thánh về nó, thì nó sẽ trở nên linh dược cứu chữa hồn xác chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng như thế. Tin tưởng ngay khi chúng ta không thấy còn dám tin vào chính mình nữa. Chúng ta cũng hãy can đảm sống niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng mở đường để không bao giờ chúng ta đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của một con người nào dù họ có lầm lỗi, có xấu xa tới đâu đi nữa! “Epphatha- Hãy mở ra” là câu nói của Chúa Giêsu ngày xưa dành cho người bị ngọng và điếc ngày xưa, ước gì cũng là lời luôn sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta khi đối diện với nghịch cảnh và với tha nhân. Amen.
39. Một ngày kia khi vương quốc đến.
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Một biến cố có vẻ như ở bên lề sứ vụ của Chúa Giêsu –việc chữa lành một người câm điếc- làm sao lại có thể gặp gỡ chúng ta và đưa chúng ta đến một suy tư thiết yếu về niềm hy vọng và sự tham gia của chúng ta vào việc làm cho nước Chúa trị đến? Có nhiều lý do. Chúa không làm gì cách nhẹ dạ cả, như thể đối với Ngài có những điều quan trọng và những điều khác không quan trọng. Hơn nữa, mỗi cử chỉ, cũng như mỗi lời nói của Ngài đều diễn tả một cách mới mẻ và luôn luôn thúc bách cùng một sứ điệp đó: Nước Thiên Chúa đã đến, anh em hãy hoán cải và đón nhận nó!
Lời hứa.
Bài đọc một diễn tả lời Thiên Chúa hứa với dân Ngài: Ngày kia sẽ có một thế giới mới, một thế giới khác trong đó người ta sẽ không còn thấy bất cứ nỗi lầm than hoặc sự điên rồ nào của thế giới hiện tại nữa: Sẽ không còn tật nguyền nữa nhưng sẽ đầy sự sống, không còn đói khát, âu lo, chiến tranh nữa, nhưng là hòa bình. Đó là một thế giới tuyệt vời mà chính Thiên Chúa sẽ đến khai mạc.
Những kẻ lắng nghe những tiếng kêu hăng say này của các ngôn sứ phần lớn là những người nghèo nhất và những kẻ thiếu hy vọng nhất trong một xứ sở đã trở thành mồi cho sự xung đột giữa các cường quốc. Họ không có quyền hành gì trên những bức xúc liên lỉ của cuộc sống: Tật nguyền, bệnh tật, sự hiện diện gây ám ảnh của thần chết, đói kém, giặc giã và thiếu tự do.
Có phải đã đến lúc không?
Những người nghèo ấy đã nghe những lời hứa này, đã chờ đợi chúng được thực hiện, biết các dấu chỉ loan báo điều ấy sắp xảy ra. Chắc hẳn họ nhắc lại những dấu chỉ đó trong lòng và chờ đợi chúng. Lời cầu của họ có thể là gì khác hơn là một lời kêu xin lâu dài và kiên nhẫn không?
Vậy nên, khi họ biết được rằng một vị ngôn sứ thực hiện những dấu chỉ đầu tiên trong các dấu chỉ được hứa, rằng những người nghèo, những người đau ốm và tật nguyền, những nạn nhân của nỗi lầm than của con người tìm thấy được nơi Người sự an ủi đã chờ mong từ rất lâu, thì những đám đông lầm than khốn khổ nhưng tràn trề hy vọng tuốn đến với Chúa Giêsu.
Một vương quốc phải bắt đầu.
Quả thật đây là khởi điểm. Nhưng cũng còn là điều gì khác lớn hơn và hấp dẫn hơn nữa.
Tin rằng triều đại Thiên Chúa gồm những phép lạ, một phép mầu biến đổi cuộc sống mà chúng ta không cần làm gì cả ngoài việc ngồi dưới bóng mát và nhìn xem nó từ trời xuống, tức là có một ý niệm rất sai lầm về Chúa, một ý niệm nghèo nàn về con người và ơn gọi của họ, một ý niệm nghèo nàn về Nước Trời.
Như bài Tin Mừng nhắc nhở, Chúa Giêsu đã rất cẩn thận làm cho người ta hiểu ý nghĩa các phép lạ Ngài thực hiện: Đây là những cử chỉ giới thiệu một con đường phải đi và mời gọi người ta đi vào đó như Ngài đang đi.
Nước Chúa phải bắt đầu bằng việc an ủi những kẻ lầm than, chia sẻ với những ai khốn cùng khi làm cho người điếc nghe được, người câm nói được, người què đi được, người mù được sáng mắt. Vấn đề không phải là tìm cách làm cho mình có những quyền phép lạ lùng nhưng, theo lời căn dặn của Chúa Giêsu mà trong mỗi Thánh lễ đều được nhắc lại cho chúng ta, là phục vụ lẫn nhau, theo gương Ngài.
Nước Chúa là một hồng ân. Đây cũng là công việc biến đổi thế giới: thay thế bất công bằng sự công chính, đau khổ bằng sự an ủi, lo âu bằng hy vọng, tính ích kỷ bằng tình thương. Sau khi đã hoàn tất những công việc đó mà chính Thiên Chúa cũng tham gia vào, thì thế giới mới đã được hứa sẽ xuất hiện.
Kết luận.
Niềm hy vọng, vốn là sức mạnh của sự xác tín, phải sống động đủ nơi chúng ta để thúc đẩy chúng ta thi hành những công việc Chúa đề nghị cho chúng ta để thế giới mới mà Thiên Chúa hứa có thể trở thành hiện thực.
40. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
KHÔNG PHẢI CHÚNG TA TỰ MÌNH NGHE ĐƯỢC LỜI CHÚA
MÀ LÀ CHÍNH LỜI CHÚA LÀM CHO CHÚNG TA NGHE ĐƯỢC LỜI NGƯỜI
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm B tuần này trình thuật việc Chúa chữa lành cho một người câm điếc ở miền Thập Thành. Nếu chủ đề của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh thì phép lạ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu có liên hệ như thế nào? Trước hết, chúng ta chẳng những cần phải nhớ lại ý nghĩa của bệnh hoạn tật nguyền với tội lỗi, sau đó phải còn để ý tới tiến trình và cách thức chữa lành của Chúa Giêsu nữa.
Về ý nghĩa của bệnh nạn tật nguyền liên quan đến tội lỗi, chúng ta vẫn được Giáo Lý dạy cho biết đau khổ và sự chết nơi thân xác là hậu quả của tội lỗi, của nguyên tội. Tuy nhiên, bệnh nạn tật nguyền, tình trạng bất toàn về sự sống thể lý và không toàn vẹn của thân xác con người, chẳng những là thực tại của đau khổ và là hiện thân của sự chết thể lý, mà còn là tiêu biểu cho tội lỗi nữa. Thật thế, những thứ tật nguyền như mù lòa, câm điếc, bất toại, kể cả chính tình trạng tột cùng tối hậu của đau khổ là chết chóc, thậm chí cả tình trạng bị quỉ ám, cũng đều nói lên ý nghĩa và tác dụng của tội lỗi nơi con người.
Con người tội lỗi không phải là con người mù lòa hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng bị mù lòa hay sao? Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với viên chức trong Hội Đồng Do Thái là ông Nicôđêmô rằng: “Con người chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Ai làm điều gian ác thì ghét ánh sáng; họ không đến gần ánh sáng vì sợ các việc làm của họ bị bại lộ” (Jn 3:19-20). Trong trường hợp chữa lành cho một người mù từ lúc mới sinh, sau khi nghe Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi đến thế gian để phân rẽ thế gian, để làm cho kẻ mù được thấy còn kẻ thấy bị mù”, các người Pharisiêu nói với Người rằng: “Thế thì ông cho chúng tôi toàn là những kẻ mù hay sao?”, nên đã được Người xác nhận: “Nếu quí vị mù thì quí vị vô tội, đằng này quí vị nói ‘chúng tôi thấy’ nên tội của quí vị vẫn còn đó” (Jn 9:39-41). Nguyên tội chính là tác động mù lòa đầu tiên của con người, ở chỗ, con người đã bỏ Đấng Tạo Hóa của mình để đi nghe theo tên cám dỗ bùi tai, và sau khi đã phản bội Chúa là Thiên Chúa của mình rồi, con người đã đâm ra mù quáng, không biết giơ tay hái cây trường sinh cũng được Thiên Chúa trồng ở giữa vườn cùng với cây biết lành biết dữ (x Gen 2:9) mà ăn để tự giải độc gây ra bởi trái cấm oan nghiệt, lại cuống lên sau khi mở mắt ra thấy mình trần truồng liền ẩn trốn và đổ thừa cho nhau (x Gen 3:7,12-13).
Con người tội lỗi không phải là con người câm điếc hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành câm điếc hay sao? Thật ra, ngay từ ban đầu con người không phải là thành phần câm điếc bẩm sinh, vì ngay sau khi nghe tên cám dỗ xui dại, miệng con người còn nhắc lại những gì tai họ đã nghe thấy chính Chúa là Thiên Chúa của mình dặn bảo (x Gen 3:2-3), những gì đã được Ngài in ấn hay ghi khắc sâu xa trong lương tâm làm người của họ. Và sau khi con người đã sa ngã phạm cái tội đầu tiên được gọi là nguyên tội ấy, con người vẫn còn nghe thấy tiếng Chúa di động trong vườn địa đường như tiếng lương tâm ray rứt, và đã trả lời những vấn đề được Ngài đặt ra (x Gen 3:8-13). Thế nhưng, việc nghe được tiếng Chúa mà còn phạm tội không phải là dấu chứng tỏ con người chủ động muốn trở thành câm điếc hay sao, ở chỗ họ đã muốn bịt tai trước tiếng nói của lương tâm để có thể âm thầm làm theo ý riêng của mình? Ngày nay con người đã đến bậc câm điếc rối loạn, đến nỗi chẳng những không nghe được tiếng lương tâm, ở chỗ đã mất ý thức tội lỗi, nhưng lại nghe được những tiếng quái gở khác, được thể hiện điển hình qua các việc họ cho phép hôn nhân đồng tính và tạo sinh ngoại nhiên.
Con người tội lỗi không phải là con người bất toại hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành bất toại hay sao? Thật vậy, ngay từ ban đầu, con người đã tỏ ra bất lực trước những gì mình biết là tốt, là sự sống mà không làm theo, không làm nổi, trái lại, làm theo những gì sai trái, những gì mang lại chết chóc cho mình. Hậu quả ngay sau nguyên tội là con người đã không có đủ can đảm để nhận sự thật, lại đi đổ lỗi cho nhau. Nghĩa là, cho dù có thể làm được (theo quyền năng tự do) những gì không được làm (vô luân và tội lỗi) nhưng con người thật sự bị bất toại trước sự lành và hoàn toàn trở thành bất toại trước sự thật. Bởi đó, tự do không phải là muốn làm gì thì làm, mà là làm những gì hợp với sự thật để có thể đạt được sự thiện, tức làm những gì khiến con người nên hoàn thiện hơn, đạt được cùng đích chân thật của mình, bằng không, nó sẽ làm cho con người trở thành một thứ nô lệ phục vụ đam mê nhục dục, làm tay sai của sự dữ, làm hiện thân của tử thần. Một con người nghiện ngập không thể chừa bỏ không phải là một kẻ bất toại hay sao?
Con người tội lỗi không phải là con người bị chết chóc hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng bị chết chóc hay sao? Đúng thế, tội lỗi được thể hiện rõ nhất nơi tình trạng chết chóc của thân xác. Nếu chết là trường hợp linh hồn lìa xác, hay xác trở thành vô hồn, thì một khi con người phạm tội là con người không còn được Thiên Chúa hằng hữu ở với họ nữa, nghĩa là một khi Thiên Chúa là nguyên lý hiện hữu của con người và nơi con người không còn ở với họ nữa thì toàn thể hữu thể của họ trở thành như một cái xác vô hồn, mang đầy những tính chất chết chóc, cho tới ngày họ thực sự là bụi đất trở về với đất bụi (x Gen 3:19). Thực tế cho thấy, sau nguyên tội, thậm chí kể cả sau khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội tái sinh, con người vẫn còn ở trong tội lỗi, vẫn mang trong mình những dấu vết của tội lỗi, mầm mống của tội lỗi, vẫn đầy những tính mê nết xấu trong tâm hồn, và vẫn phải chịu đau khổ rồi chết đi nơi thân xác. Nếu chết là tình trạng phân ly giữa hồn và xác thì cuộc sống con người là một cái chết liên lỉ về tâm linh, ở chỗ, như Thánh Phaolô cảm nghiệm những gì tôi muốn thì tôi không làm, còn cái gì tôi ghét thì tôi lại làm (x Rm 7:15), tôi không làm điều lành tôi muốn làm mà là điều xấu tôi không muốn làm (x Rm 7:19). Nếu hiện tượng lạnh ngắt, cứng đơ và nặng trịch nơi thi thể của người chết là dấu hiệu cho thấy sự sống không còn nơi họ thế nào, thì con người còn sống động nơi thân xác đây thật sự cũng mang trong mình những tính chất hay dấu vết của sự chết thiêng liêng như vậy. Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ nhất nơi con người đó là tâm hồn con người “lạnh ngắt” và dửng dưng trước tình trạng cùng khổ của tha nhân, kể cả người thân yêu nhất của mình; việc các cường quốc thực hiện mưu đồ tân thực dân đối với các nhược quốc trong thế giới ngày nay, cùng với trào lưu ly dị và phá thai hiện tại không phải là hiện tượng lạnh ngắt lòng người hay sao? Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ hai nơi con người đó là phản ứng của con người “cứng đơ” trước tiếng lương tâm, ở chỗ họ không thể đáp lại sự thật tối cao và sự thiện chân chính là những gì làm cho họ hoàn toàn sống tự do và hạnh phúc trường sinh vinh phúc. Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ ba nơi con người đó là hành động của con người “nặng trịch” trước việc làm lành lánh dữ.
Con người tội lỗi không phải là con người bị quỉ ám hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành ô uế hay sao? Sự kiện hay hiện tượng con người bị quỉ ám là dấu chứng tỏ rõ ràng nhất cho thấy con người không còn sự sống thần linh là Thiên Chúa ở nơi bản thân họ. Con người của họ đã bị thần dữ chiếm đoạt và làm chủ, xui khiến họ làm những gì bất xứng với phẩm giá của họ, và họ trở thành dụng cụ, thành tay sai hay thừa sai gieo rắn “văn hóa sự chết” cho hắn. Ngoài trường hợp bị quỉ ám thực sự, bình thường con người còn bị các thứ thần ô uế ám nữa. Đó là các thứ đam mê nhục dục, tính mê nết xấu nơi họ, nhất là các thứ ngẫu tượng do họ tạo ra, như đã được đề cập đến trong bài chia sẻ tuần trước về “bảy thần ô uế khác”. Trường hợp bị quỉ ám hay các thứ thần ô uế ám là trường hợp con người còn bị chi phối và điều khiển bởi “quyền thống trị của tối tăm” (Col 1:13), “quyền lực sự chết” (Heb 2:14), “quyền lực tội lỗi” (Rm 3:9), “quyền lực của tên gian ác” (1Jn 5:19).
Tóm lại, việc trừ thần ô uế, hồi sinh kẻ chết và việc chữa lành các thứ tật nguyền bệnh hoạn, như việc chữa lành cho một người câm điếc trong bài Phúc Âm tuần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu, đúng như lời Thánh Gioan xác tín: “Con Thiên Chúa tỏ mình ra là để phá hủy các việc làm của ma quỉ” (1Jn 3:8), tức là Người đến để cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết, đúng hơn Người đến là để tái sinh con người “bởi trên cao” (Jn 3:3), “bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5), nhất là bằng Cuộc Vượt Qua của Người, ở chỗ Người chết đi để tiêu diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống. Như thế, nơi mỗi phép lạ, cách riêng phép lạ chữa lành, đều có hai phần, phần Chúa tỏ mình ra và phần con người nhận biết, chẳng khác gì như việc ánh sáng chiếu trong tăm tối và xua tan tối tăm vậy. Nếu con người, nhất là thành phần nạn nhân của tật nguyền bệnh hoạn, như người câm điếc trong bài Phúc Âm tuần này, nhờ thân xác họ được chữa lành mà tâm linh họ nhận biết “Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc tôi” (Lk 1:47), thì không phải là họ được Lời Nhập Thể là Chúa Kitô tái sinh hay sao? Vì “sự sống đời đời” chính là ở chỗ nhận biết Chúa là Thiên Chúa của mình (Jn 17:3), là trở về với nguyên lý hiện hữu tối cao của mình.
Chưa hết, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, chúng ta còn thấy cách thức Chúa Giêsu chữa lành ngươiøi câm điếc nữa. Vẫn biết, với quyền năng vô hạn của mình, Chúa Kitô có thể chữa lành bằng bất cứ cách nào dễ nhất và nhàn nhất, chẳng hạn phán một lời “Ephrata”, “hãy mở ra” cũng đủ, đằng này, trước khi phán lời quyết liệt đó, Người còn phải dẫn anh ta ra khỏi đám đông, rồi đặt các ngón tay vào lỗ tai của anh ta và bôi nước bọt lên miệng anh ta nữa mới được. Nếu từng tác động Chúa Giêsu làm đều không phải là vô nghĩa thì những tác động Người chữa lành câm điếc cho nạn nhân của bài Phúc Âm Chúa Nhật này cũng phải có một ý nghĩa nào đó? Trước hết, Chúa Giêsu không chữa lành câm trước mà là điếc trước. Bởi vì, bình thường người bị điếc bẩm sinh sẽ là người cũng bị câm luôn, vì một khi bộ phận tiếp nhận âm thanh của họ là đôi tai bị hỏng thì bộ phận phát thanh của họ là miệng lưỡi của họ cũng bị tịt luôn. Đó là lý do Chúa Giêsu đã chữa thính giác của nạn nhân đã rồi mới tới khả năng phát ngôn của anh ta. Phúc Âm đã ghi lại rõ ràng thứ tự này như sau: “Tức thì tai anh ta mở ra… và bắt đầu nói năng bình thường”. Ở đây chúng ta thấy rằng cần phải nhận được mạc khải đã mới có thể loan truyền mạc khải. Chắc hẳn người câm điếc được chữa lành này không hề nghe thấy lời Chúa Giêsu phán “hãy mở ra”, nhưng chính quyền năng của lời này đã làm cho tai anh ta mở ra và nghe thấy. Ở đây chúng ta còn thấy một điều quan trọng khác nữa, đó là không phải chúng ta tự mình nghe được lời Chúa mà là chính Lời Chúa làm cho chúng ta nghe được Lời Người.
Sau nữa, ba cử chỉ Chúa Giêsu làm nơi nạn nhân trước khi Người phán lời “hãy mở ra” mang ý nghĩa gì, nếu không phải đều là những gì cần thiết để nạn nhân có thể được chữa lành sau lời truyền phán “hãy mở ra” của Người. Tự Người không cần phải làm thêm ba cử chỉ này, nhưng sở dĩ Người làm như thế là vì để sửa soạn cho nạn nhân câm điếc, thành phần cần hội đủ ba điều thiết yếu ấy để có thể nghe thấy và nói được. Tu đức đã cho thấy rõ ba tác động cần thiết đối với một tâm hồn vốn bị câm điếc trước mạc khải thần linh, ba tác động có thể giúp họ chẳng những nghe được tiếng Chúa mà còn đáp ứng lời Chúa là ở chỗ, họ cần phải sống yên tĩnh, xa lánh tình trạng ồn ào của thế gian, để nhờ đó chuyên chú lắng nghe Chúa nói qua những gì Người đã dùng ngón tay của Người ghi khắc trong lòng họ (x Rm 2:15), và sau đó sẵn sàng loan truyền những gì (như nước miếng chẳng hạn) “phát ra từ miệng Thiên Chúa” (Mt 4:4).
41. Đức tin là bởi nghe, sự thờ lạy là bởi nói.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller).
Giác quan của chúng ta thì tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Thật khó mà quyết định giác quan nào là thế giá hơn, ánh nhìn của chúng ta hay là đôi tai, nhưng người đàn ông trong Phúc Âm đã không do dự. Ông ta bị điếc và ông biết chính xác điều gì là quan trọng nhất đối với ông ta.
Điếc làm cho anh ta không nghe được; anh ta cũng không thể nghe được những lời mà mình phát âm. Anh ta không thể hỏi Chúa Giêsu về những đặc ân mà mình cần. Khổ thay, một số người liên quan đã mang anh ta đến với Chúa Giêsu và giải thích về hiện trạng của anh. Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh, và cho anh một khả năng để lắng nghe và Người đã làm cho người đàn ông đã có thể nói một cách rõ ràng. Chúng ta không ngạc nhiên khi Chúa Giêsu đã động lòng thương xót. Điều làm cho chúng ta ngạc nhiên đó là tất cả chúng ta một lúc nào đó trong cuộc sống đã bị tình trạng giống như một người điếc, không bị cách thể lý nhưng là tinh thần, cách thiêng liêng. Trước kh chúng ta chịu phép rửa, chúng ta là những người điếc cách thiêng liêng. Chúng ta không có đặc ân đức tin. Kết quả là chúng ta không nghe được lời Chúa nói với chúng ta, và chúng ta cũng sẽ không nói với Thiên Chúa được.
Đức tin đến với chúng ta bằng việc nghe thấy, không phải xuyên qua bộ phận tai nghe của chúng ta nhưng là qua đặc ân đức tin mà chúng ta lãnh nhận nơi phép rửa. Đặc biệt là trong khi cử hành phụng vụ Thánh Lễ, chúng ta có cơ hội lắng nghe bằng đức tin. Chúng ta sẽ đặt chỗ ưu tiên để suy nghĩ về việc lắng nghe Lời Chúa như là một nguồn mạch đức tin của chúng ta, còn có những cơ hội khác trong Thánh Lễ. Kinh Tin kính sau bài giảng đã diễn tả đức tin của chúng ta, như chúng ta hát những ca vịnh, hoặc khi chúng ta đọc những lời linh đặc biệt là kinh nguyện Thánh Thể. Một câu ngạn ngữ xưa nói rằng cách mà chúng ta đọc kinh là diễn tả những gì chúng ta tin (Lexorandi, lexcredendi).
Tuy nhiên đức tin thì bất toàn cho đến khi chúng ta nói với Thiên Chúa về cung cách mà chúng ta sẽ cử hành, hay khi chúng ta đáp trả trong việc thờ phượng. Lời kinh trong phụng vụ sẽ phục vụ cho một mục đích kép đôi: Nó vừa dạy chúng ta đức tin, vừa trao ban cho chúng ta những từ ngữ thích hợp để diễn tả sự thờ phượng của chúng ta. Những điều này được ban xuống là để chúng ta thờ lạy Thiên Chúa bằng việc nói với Ngài những gì mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta. Nói một cách khác, chúng ta dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa bằng việc nói với Ngài những gì mà Ngài đã làm và còn đang tiếp tục làm. Trong thời kỳ Phúc Âm, dân chúng đã tôn kính Chúa Giêsu bằng việc kể lại cách đơn giản những gì Ngài đã làm. Họ nói: “Ngài đã làm cho người điếc nghe được, người câm nói được”.
Thí dụ trong kinh nguyện Thánh Thể thứ ba, chúng ta đọc: “Lạy Cha, Cha là sự thánh thiện và mọi tạo vật của Cha đều phải dâng lời ngợi khen Cha. Tất cả đời sống, tất cả sự thánh thiện đều phát xuất từ Cha”. Thiên Chúa đã mạc khải rằng Ngài là nguồn mạch của mọi sự sống, của mọi sự thánh thiện, chúng ta ngợi khen Ngài bằng việc tuyên xưng Ngài là chân lý thật. Các Thánh Vịnh cũng là hoa quả giúp chúng ta cầu nguyện bằng cách mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta. Trong Thánh Vịnh đối đáp ngày hôm nay, Thánh Vịnh 146: “Thiên Chúa của Giacóp đã giữ lời hứa đến muôn đời, bảo đảm sự công chính cho người bị áp bức, cấp thực phẩm cho người đói, Chúa giải thoát kẻ ngục tù”. Những lời này vừa là lời mạc khải vừa là lời cầu nguyện.
Thiên Chúa không cần chúng ta nhắc nhở Ngài về sự lớn lao mà Ngài có và sự kỳ diệu nơi các việc Ngài đã làm. Ngay trong mối quan hệ của con người, chúng ta ngợi khen người khác bằng việc nói với họ về những gì họ đã làm. Đối với người bạn mà anh ta đã mời bạn đến nhà dùng cơm thì bạn phải nói: “Món mì nóng tuyệt vời mà trước đây tôi chưa hề nếm qua bao giờ”. Thiên Chúa cũng làm cách tốt nhất trong mọi cách cho chúng ta. Đó là những gì chúng ta đã học được khi chúng ta lắng nghe tất cả mọi hình thức của sự mạc khải. Chúng ta là những người khôn ngoan, khi sự thờ lạy mà chúng ta dâng cho Thiên Chúa là theo những gì mà Ngài đã nói về Ngài cho chúng ta, kh chúng ta nói với Người trong cầu nguyện theo cách mà chúng ta có thể.
42. Chúng ta là những kẻ câm điếc được chữa lành.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Từ xứ Galilêa, Chúa Giêsu lên miền Bắc, vòng qua xứ Phênêkia, rồi lại xuống phía nam, về hướng hồ Tibêria (tức biển Galilêa). Khu vực Chúa đi qua mang tên là Đêcapôli. Ở đây sinh sống khá nhiều người Do thái, lẫn trong đám dân phần lớn là người ngoại. Danh tiếng Chúa làm phép lạ lan đến cả đây, cho nên Chúa di chuyển đến đâu là có người chạy đến xin Người chữa những kẻ bệnh tật. Người ta đem đến trước mặt Chúa một kẻ bẩm sinh câm điếc. Chúa chữa lành kẻ ấy. Tuy nhiên ở đây ta chứng kiến một sự biểu dương đặc biệt sự thể Chúa can thiệp vào sinh hoạt con người. Thay vì chữa khỏi kẻ tật nguyền bằng một hành vi ý chí thuần tuý và đơn giản, Chúa chạm tay vào người y. chúa tra ngón tay vào trong lỗ tai kẻ điếc như thể mở tai y. chúa nhổ nước miếng vào tay rồi chạm vào lưỡi kẻ khốn khổ. Từ phép lạ này ta rút ra hai chủ đề suy niệm:
1) Chúa muốn biểu lộ công hiệu của sự tiếp xúc giữa nhân tính Chúa và nhân tính chúng ta.
Người muốn cho thấy rằng mầu nhiệm nhập thể không những là Con Thiên Chúa đến giữa loài người, mà còn là một sự hiệp thông thân mật giữa Người-Thiên Chúa với người phàm. Người ta có thể lầm tưởng rằng có lẽ Đức Kitô mặc lấy dáng vẻ con người, đi qua thế gian giữa nhân loại phàm trần mà vẫn đứng ngoài nhân loại. Cũng đúng là Đức Kitô có thể truyền thông cho chúng ta tất cả mọi hồng ân cứu rỗi, chỉ nhờ vào ý chí Người, từ ngoài xa truyền ơn đến cho chúng ta. Chúa không muốn thế. Chúa đem nhân tính hiển-vinh của Người tiếp xúc với chúng ta, để hiệp thông với chúng ta. Ngày nay thánh lễ tạ ơn là sự làm chứng cao độ nhất cho ý muốn Người. Thánh lễ chính là nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu đến trong chúng ta, và đem chúng ta vào trong nhân tính Chúa để trở nên nơi chốn chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa.
2) Về phương diện thiêng liêng, chúng ta là những kẻ câm điếc bẩm sinh được chữa khỏi do phép thanh tẩy.
Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể tiếp xúc với loài người, cho chúng ta nghe được Lời của Thiên Chúa và cùng một lúc nói được với Thiên Chúa và với anh em chúng ta. Chịu phép Rửa tội nhờ bí tích thanh tẩy Chúa lập ra, chúng ta được Chúa mở tai mở Lưỡi chúng ta, cho chúng ta khả năng nghe Lời Người và nói theo Thần trí Người. Khả năng nghe và nói đó là gì? Trước hết là đức tin. Nhờ ơn huệ của đức tin, một Lời của Chúa đến với chúng ta, chúng ta ý thức được Lời đó-cũng như một lời nói thường lọt qua tai vào tới não, nhờ não chúng ta ý thức được lời nói ấy. Điều ta nghe thấy nhờ Đức Kitô, cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là ‘Cha’ và trong Đức Kitô, Thiên Chúa kêu gọi ta đến với Người. Tiếp đến, khả năng nói, được ban cho ta là sự cầu nguyện. Vì tiếp nhận ơn nói được, ta thưa với Thiên Chúa: Lạy Cha. Lời nói được Thiên Chúa linh ứng, nó biểu lộ tâm khảm sâu kín nhất của bản thể ta, chính là tiếng: ‘Cha’ mà chúng ta thưa với Thiên Chúa. Sự đông người họp nhau lại cầu xin Thiên Chúa như thể cầu xin Cha, đưa đến hệ quả: lời chúng ta nói với nhau phải là lời nói của anh em trao đổi với nhau. Mọi người đều có Thiên Chúa là Cha chung, cho nên tất cả là anh em, ngôn ngữ chúng ta dùng để nói với mọi người-tức là cách biểu lộ những tình cảm sâu sắc nhất-phải cho thấy giữa chúng ta và mọi người khác có mối tình huynh đệ. Chúa Giêsu trong chúng ta là Đấng ban ơn cho chúng ta có được phong cách cư xử như vậy.
43. Ephata – Hãy mở ra.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 9 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù loà và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô.
Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên hệ với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, thế mà cô Helen keller đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Thưa anh chị em,
Với kỹ thuật khoa học hiện đại, ngày nay người ta dường như có thể mở mắt, mở tai, mở miệng cho người mù, người câm, người điếc. Ngày xưa Chúa Giêsu đã làm phép lạ cứu chứa những người bất hạnh này. Phép lạ Chúa Giêsu đã làm để chứa người câm và điếc được Thánh Marcô ghi lại xem ra thật là đơn giản dễ dàng: Ngài kéo riêng người câm điếc ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời lâm râm cầu khẩn rồi lớn tiếng truyền lệnh: “Ephata!” nghĩa là “Hãy mở ra!” Tức thì lỗ tai điếc của anh mở ra, nghe được rõ ràng, lưỡi bị cột cứng của anh uốn được và nói được sành sõi. Cuối cùng là sự kinh ngạc thán phục của đám đông. Họ nói: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”.
Lời thán phục của dân chúng chính là lời Ngôn Sứ Isaia đã loan báo cho dân Israel về Đấng Cứu Thế. Ông nói: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng” (Is 35,3-7). Như thế chứng tỏ là dân chúng đã nhận ra Đấng Thiên Sai Cứu Thế đã đến rồi. Ngài chính là Đức Giêsu đang thực hiện lời Ngôn Sứ Isaia trước mắt họ.
Nhưng giữa đám đông dân chúng chứng kiến phép lạ của những người có tai nghe được, có miệng lưỡi nói được, những lại câm, lại điếc. Họ giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Biệt Phái Pharisêu: “Họ có mặt mà không thấy, có tai mà không nghe!” Quả thật, họ đang điếc trước công lý, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ chẳng những không chịu hiểu Lời Chúa mà còn loan truyền toàn những điều lệch lạc, sai trái. Họ thay thế Lời Chúa bằng các tập tục của cha ông họ. Họ cầm phải được chữa cho khỏi mù tội, khỏi câm điếc, mới có thể hiểu đúng và công bố Tim Mừng cho người khác. Họ phải mở tai, mở mắt để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài, thì mới được cứu độ.
Anh chị em thân mến,
Trong số những người câm điếc đó, ngày nay có thể có cả chúng ta nữa. Phải chăng chúng ta cũng nằm trong hạng người có tai thích nhưng không nghe; không nghe vì không biết lắng nghe. Có miệng lưỡi nói được sõi sàng, nhưng không mở lời ca tụng Chúa, không nói lên tiếng nói yêu thương anh em? Phải chăng chính chúng ta cũng là những người câm điếc cần được Chúa Giêsu cứu chữa? Ca dao tục ngữ nước ta có nhiều câu nói gợi hình để tránh cứ những người có tai mà không biết lắng nghe. Chẳng hạn, nghe mà không biết nghe, mà hiểu, tai nghe mà lòng không suy nghĩ, thì người ta lại bảo: “Nghe tai này lọt qua tai khác” hoặc “như nước đổ lá khoai môn”… Chính vì thế mà khả năng nghe là một tình trạng tinh thần tốt cần để đón nhận ơn cứu độ. Trong Kinh Thánh, biết bao lần Chúa nói rõ điều đó: Mỗi lần ban bố lề luật, Thiên Chúa kêu gọi: “Hỡi Israel, hãy nghe đây!” Hôm nay các ngươi hãy lắng nghe tiếng Chúa phán và đừng cứng lòng”. “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Chính Chúa Cha cũng ra lệnh cho chúng ta hãy nghe lời Con Của Ngài: “Này là Con Ta rất yêu dấu, các con hãy nghe lời Ngài”. Vì thế, khi chữa lành người câm điếc, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng Ngài đến không chỉ để nói mà còn để chữa lành khả năng nghe của chúng ta nữa, nếu không, thì có nguy cơ là Ngài nói mà chẳng được ai lắng nghe cả.
Nghe và nói là hai phương tiện truyền thông luôn đi đôi với nhau. Con người sống trong xa hội là phải biết tiếp nhận chân lý qua việc nghe và nói, trao đổi, đối thoại, trao đổi, mà chỉ biết sống trong ao tù suy tư của mình, nên khi phát biểu hay hành động, chỉ có thể là những tư tưởng chủ quan, cố chấp, những hành động sai trái, lỗi thời. Ta thử nghĩ xem: Trong gia đình mà vợ chồng không biết lắng nghe nhau hoặc mạnh ai nấy phát ngôn, hoặc ông nói gà bà nói vịt, không ai chịu nghe ai nữa, thì làm sao gia đình có được hạnh phúc? Biết lắng nghe nhau và đối thoại cởi mở chân thành sẽ giúp vợ chồng thông cảm chia sẻ, như thế sẽ tránh được biết bao bữa cơm không lành canh không ngọt! Tình cha mẹ và con cái cũng sẽ đậm đà mật thiết khi con cái biết lắng nghe cha mẹ và cha mẹ cũng biết lắng nghe con cái. Ở trường học cũng thế, giữa học sinh và thầy cô giáo, giữa các bạn trẻ, cũng phải biết lắng nghe nhau. Và nhất là trong nhà thờ, người Kitô hữu phải biết lắng nghe Lời Chúa để hiểu ý Chúa muốn nói gì với chúng ta và mở miệng lưỡi ra để ca khen chúc tụng Ngài. Chúng ta không chỉ biết lắng nghe trong nhà thờ, trong gia đình, ở trường học mà còn phải biết lắng nghe ngoài cuộc sống xã hội nữa. Hãy tập lắng nghe tiếng nói của người cô đơn, người phiền muộn, kẻ âu lo, người nghèo đói. Đối vời nhiều người, liều thuốc hiệu nghiệm nhất, món quà quý giá nhất, đó là có được một ai đó thực sự lắng nghe nỗi phiền muộn cũng như niềm vui sướng của họ và biết nói với họ những lời tình nghĩa yêu thương…
Anh chị em thân mến,
Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được Thánh Thần mờ tai, mở lưỡi, mở mắt để ta có thể hiệp thông với Chúa và với anh chị em. Tuy nhiên, chúng ta thường vẫn điếc khi Chúa nói với chúng ta qua các biến cố thường ngày. Chúng ta vẫn câm, vẫn ngọng khi nói lời ngợi khen Chúa và lời cảm thông với anh chị em. Chính tính kiêu căng, lòng ích kỷ, tội lỗi đã bịt tai, cột lưỡi chúng ta lại không cho chúng ta hiệp thông với Chúa và với anh chị em. Vì thế, chúng ta còn phải nhờ quyền năng cứu chữa của Chúa Giêsu để ngày càng nghe rõ hơn, nói sành sõi hơn những lời ngợi khen Chúa, những lời cảm thông với anh chị em, ngày càng thấy rõ hơn đường lối kỳ diệu của Chúa và đường lối phục vụ anh chị em. Vì “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”. Ngài chính là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, nơi Ngài ơn cứu độ, sự giả thoát đã đến với chúng ta.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam