Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 54

Tổng truy cập: 1371788

HÃY SIÊNG NĂNG LÀM VIỆC THEO GƯƠNG CHÚA

HÃY SIÊNG NĂNG LÀM VIỆC THEO GƯƠNG CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

I. DẪN VÀO THÁNH  LỄ

Anh chị em thân mến

Làm việc không phải là gánh nặng mà là ý nghĩa của cuộc đời. Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên các nguyên tổ rồi đặt họ trong vườn địa đàng để họ “canh tác và giữ vườn”. Chính Đức Giêsu cũng làm việc bận rộn từ sáng tới tối.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta ý thức giá trị của việc làm, đồng thời giúp chúng ta siêng năng làm việc theo gương Chúa.

*II. GỢI Ý SÁM HỐI

– Xin Chúa tha thứ những lần chúng ta lười biếng không chịu làm việc.

– Xin Chúa tha thứ vì chúng ta không biết thánh hóa những công việc mình làm.

– Xin Chúa tha thứ cho những việc làm sai trái của chúng ta.

*III. LỜI CHÚA

*1. Bài đọc I (G 7,1-4.6-7)

Đoạn sách Gióp này đưa ra một cái nhìn bi quan về công việc con người phải làm trong cuộc sống :

– Làm việc là cực nhọc như “nô dịch”

– Con người giống như một người làm công.

– Và cuộc đời với những công việc như thế được coi là buồn thảm, bất hạnh.

Cái nhìn bi quan này sẽ được sửa sai bằng gương làm việc của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng.

*2. Đáp ca (Tv 146)

Thánh vịnh này đặc biệt ca tụng một loại “công việc” đặc biệt của Thiên Chúa, đó là việc “cứu chữa” : Ngài là Đấng “cứu chữa những kẻ dập nát tâm can”.

*3. Tin Mừng (Mc 1,29-39)

Đoạn Tin Mừng này mô tả một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu :

– Giảng dạy ở hội đường

– Giảng vừa xong thì đến nhà nhạc mẫu của Simon để chữa cho bà này khỏi bệnh sốt.

–  Tiếp tục chữa bệnh và trừ quỷ từ chiều cho đến tối.

– Sáng tinh sương hôm sau, Ngài cầu nguyện ở một nơi thanh vắng.

– Người ta lại tìm đến với Ngài để được chữa bệnh. Nhưng Ngài đành phải ra đi, bởi vì còn phải rao giảng Tin Mừng ở những nơi khác nữa.

Tóm lại, Đức Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày. Việc làm của Ngài là rao giảng Tin Mừng, chữa bệnh và trừ quỷ.

*4. Bài đọc II (1 Cr 9,16-19.22-23) (chủ đề phụ)

Thánh Phaolô trình bày quan niệm của ngài về việc rao giảng Tin Mừng :

– Đó là một nhu cầu : “Nếu tôi rao giảng Tin Mừng thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi”

– Đó là nguồn hạnh phúc : “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”

– Vì thế phải làm việc rao giảng Tin Mừng một cách tự ý tự nguyện chứ không phải do bị bó buộc.

*IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Lao động là vinh quang

Ông Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này : có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi : “Mi gọi ta đến để làm gì ?” Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ : “Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi”. Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.

Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi dương thế. Cuộc sống này quả là vất vả : ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nỗi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.

Trước kiếp sống đó, những kẻ bi quan và những người lười biếng thì than thở như trong sách Gióp được trích đọc trong bài đọc thứ nhất : “Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngày của họ giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc”. Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine, làm việc cực nhọc quá nên cứ đòi chết cho rồi. Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dễ có thái độ bi quan như thế.

Chính để giúp cho loài người thấy được ý nghĩa và giá trị của lao động nhọc nhằn mà Đức Giêsu Kitô đã sinh xuống trần gian, mang lấy thân phận làm người lao động vất vả. Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa : Chúa vừa giảng dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa. Nhưng Đức Giêsu đành phải từ chối và nói “Chúng ta còn phải đi đến những làng, những thành phố khác để rao giảng Tin Mừng nữa”.

Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng tới tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân Người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động nhọc nhằn : lao động là bổn phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn.

Vì hiểu được như thế cho nên Thánh Phaolô đã hăng hái chu toàn những công việc nặng nhọc Chúa giao như chúng ta đã nghe trong bài trích thư gởi tín hữu Côrintô. Là một tông đồ, công việc chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Ngài đã hăng hái làm trọn công việc đó, thậm chí Ngài còn nói “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Ngài còn nói thêm : “Giả như tôi tự ý đảm nhận công việc ấy thì tôi mới có công. Còn nếu tôi làm vì bị ép buộc thì tôi còn mang phần thưởng ở đâu nữa ! Tôi đã nên mọi sự cho tất cả mọi người để làm cho mọi người được cứu rỗi. Thánh Phaolô đã hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của việc mình làm nên đã tự nguyện hăng hái làm việc không ngơi nghỉ.

Những bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay thật ích lợi vì vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.

. Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc ấy.

. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể đảm nhận những công việc ấy.

. Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra những kết quả tốt đẹp.

. Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình, mà còn để giúp ích cho những người khác.

. Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ, một phần sức lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian.

* 2. Vấn đề đau khổ

Bài Tin mừng cho thấy một ngày bận rộn của Đức Giêsu.

– Giảng xong trong hội đường thì đến chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô.

– Đến chiều còn cả đám đông bệnh nhân đủ loại.

– Đêm đến đi cầu nguyện còn được môn đệ mời về chữa bệnh.

– Và còn phải đi đến nhiều thành nhiều vùng khác nữa.

Đức Giêsu như một chiếc phao giữa biển khổ cuộc đời mà vô số người bám.

20 thế kỷ qua rồi, nhưng ngày nay đau khổ nhân loại vẫn còn chồng chất : cả thể xác lẫn tinh thần. “Đời là bể khổ” câu giáo lý nhà Phật vẫn còn là một nhận xét thật đúng.

Nhưng từ nhận xét đó ta chớ vội kết luận.

– Hoặc theo kiểu bi quan như những người chán đời tự tử.

– Hoặc theo kiểu thả trôi ăn chơi kẻo hết đời “chơi xuân kẻo hết xuân đi”. Mà hãy bình tỉnh nhận định về vấn đề đau khổ.

. Có những cái khổ tự mình gây ra : tham ăn đau bụng.

. Có những cái khổ do người khác xấu bụng gây ra cho mình : thằng ăn cắp làm cho người ta mất của.

. Có những cái khổ là do quy luật thiên nhiên như thế : trước khi sinh con thì phải mang nặng đẻ đau. Muốn được mùa thì phải cực nhọc cầy cấy.

– Trước cái khổ cũng có nhiều thái độ :

. Có thứ khổ sinh buồn chán : nhậu nhẹt, tự tử.

. Có thứ khổ làm cho con người trưởng thành : người lao động biết quý trọng đồng tiền, người lính chiến trở nên anh dũng.

. Có thứ khổ người ta sung sướng chịu đựng : khổ vì yêu mà lo cho người yêu.

Sau khi phân tích như thế, ta thấy cái khổ mặc khải 3 vấn đề :

– Trần thế không phải là nơi hoàn hảo.

– Tội lỗi là một nguyên nhân lớn của khổ đau.

– Khổ đau chứng minh cho tình yêu.

Lạy Chúa, xin cho con có một nhận định sáng suốt trước đau khổ.

– Cho con đừng tự gây đau khổ cho con hay cho người khác do tính ích kỷ của con.

– Cho con kiên trì đấu tranh làm giảm những đau khổ cho con và cho người khác.

– Cho đau khổ đừng làm con gục ngã nhưng giúp con vươn lên cao hơn cõi đời này hướng về quê hương không đau khổ trên cao.

– Cho con biết chịu khổ vì yêu.

* 3. Nan đề đau khổ

Vấn đề đau khổ của loài người, đặc biệt của người lành, là một nan đề. Gióp đã vật lộn với nan đề này mà không tìm được lời giải đáp thỏa đáng.

Ngày nay đau khổ cũng vẫn là một nan đề. Ngày nay có rất nhiều người cùng cảnh ngộ với ông Gióp ngày xưa. Đó là những người đau khổ vì nghèo, đói, bệnh, bất công, áp bức v.v. Thời Cựu Ước, người ta nghĩ rằng đau khổ là hình phạt của Chúa.

Phần Đức Giêsu, Ngài không chấp nhận quan niệm coi đau khổ là hình phạt của Chúa, bởi Chúa không làm điều xấu, mà đau khổ là điều xấu. Đức Giêsu không trả lời cho câu hỏi “Tại sao đau khổ” nhưng Ngài dạy phải làm gì trước đau khổ.

Trong bài Tin Mừng này, chúng ta thấy những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu. Ngài không tránh xa, nhưng hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ.

Gặp người đau khổ, Đức Giêsu không chỉ khuyên họ hãy nhẫn nhục chịu đựng như chúng ta quen khuyên. Ngài ra tay hành động, cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ.

Vần đề đau khổ còn là cơ hội để Đức Giêsu tỏ cho người ta biết Thiên Chúa. Qua cách Ngài tận tuỵ cứu giúp người đau khổ, Đức Giêsu cho người ta thấy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những kẻ đau khổ.

Sự đau khổ của người khác cũng là cơ hội cho chúng ta. Tuy chúng ta không có khả năng cứu chữa nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc. Mà chăm sóc cũng là một cách cứu chữa. Chỉ cần ở bên người đau khổ thôi cũng là một điều gì đáng quý rồi. Nhưng ở bên người đau khổ mà với hai bàn tay không thì có thể làm gì được ? Được chứ, vì với hai bàn tay, chúng ta có thể an ủi họ. Điều họ cần nơi chúng ta nhất là chúng ta đừng bỏ rơi họ. Khi chúng ta ở bên họ thì cũng giống như ngày xưa Đức Maria ở bên Thập giá Đức Giêsu.

Còn đối với những đau khổ của bản thân chúng ta, đó cũng là điều không thể tránh của thân phận làm người. Tuy nhiên thật là an ủi cho chúng ta vì chính Đức Giêsu cũng đi con đường đau khổ như chúng ta, và Ngài đi tới cùng. Và cũng thật vui mừng khi chúng ta biết rằng sau khi đi đến tận cùng đau khổ thì Đức Giêsu đã tới vinh quang. Như thế, đối với kitô hữu, đau khổ là cơ hội cho chúng ta chia xẻ cuộc chịu nạn của Đức Giêsu, trong hy vọng cũng sẽ được chia xẻ vinh quang phục sinh của Ngài (Viết theo Flor McCarthy)

* 4. Niềm vui được chữa lành

Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh : Bệnh bò điên (Mad-Cow disease). Người những mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân run rẩy và đi dần đến cái chết.

Lúc đầu người ta phát hiện có mười người mắc bệnh này ở Anh Quốc, tám người trong số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông Stephen Dorell đã phải tuyên bố : “Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và bệnh Creutzfeldt – Jacob nơi con người”

 Sau đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các nước Âu Châu lần lượt làm theo Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh quốc phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt hại hàng tỷ đôla.

*

Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng, Người ta xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở về với con người.

Hôm nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon – Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.

Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x.Ds.5,3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.

Đức Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang đến cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E.Lamy khẳng định : “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.

Sau khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được xua trừ ma quỷ, được chữa lành bệnh tật, linh hồn, và được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền. V.Ghika có viết : “Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn biết gánh lấy niềm đau kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và biến nó thành của Người”.

Dường như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.

*

Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám ảnh : thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm ; vẫn còn các bệnh tật lan tràn : bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin Chúa thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

* 5. Cực nhọc

Ba bài đọc hôm nay đều nói về làm việc. Nhưng bài đọc Cựu Ước (trích sách Gióp) thì than rằng làm việc là một gánh nặng quá cực nhọc. Còn 2 bài đọc Tân Ước thì nêu gương Đức Giêsu và thánh Phaolô làm việc cách hăng say và vui vẻ.

Cũng là làm việc, nhưng người thì thấy nặng nhọc, kẻ thì thấy vui vẻ. Tại sao ?

– Thánh Phaolô cho biết lý do thứ nhất : làm việc vì bó buộc hay làm vì tự nguyện : “Tôi mà tự ý làm việc thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công”

– Thánh Augustinô đưa ra lý do thứ hai : Ubi amatur, non laboratur (Khi nào người ta yêu thì người ta không cảm thấy nhọc mệt)

  1. Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại.

“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.

Câu kinh đọc trước rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh.

Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như ở từng trang Tin mừng. Đàng khác, nếu không chữa bệnh làm sao Đức Giêsu chứng tỏ mình là Đấng Mêssia được ? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.

Nhưng Đức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không ! Người không đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ. Người không bảo : “Đức tin đã chữa lành con” nhưng : “Đức tin đã cứu con”. Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được  sống nhờ sự sống của Đức Kitô, dù khi khỏe mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sự sống lại. Một nhà chú giải hiện nay đã có một nhận định, mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài tin mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú) nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của Chúa”.(H.Denis, trong “100 mots pour dire”, Desclée de Brouwer, trang 183. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm B).

  1. Ngài đi ra một nơi hoàng vắng và cầu nguyện

Người kia có thói quen một mình đi vào một khu rừng hẻo lánh. Một hôm, người bạn của người đó tò mò đi theo. Khi thấy người này ngồi im trong rừng thì ngạc nhiên hỏi :

– Anh làm gì ở đây thế ?

– Tôi cầu nguyện.

– Nhưng cần gì phải đến một nơi xa xôi hẻo lánh như thế này để cầu nguyện chứ ?

– Vì ở đây tôi thấy mình gần Chúa hơn.

– Nhưng Chúa ở khắp mọi nơi kia mà. Ở đâu mà Chúa chẳng gần ta.

– Chúa thì như thế thật, nhưng tôi thì không như thế.

Đành rằng Chúa ở khắp mọi nơi nên ở đâu ta cũng có thể gặp Chúa, tuy nhiên nếu thỉnh thoảng ta lui vào một nơi yên tĩnh nào đó thì ta sẽ cảm thấy Chúa gần gũi hơn và thân thiết hơn. Ở những nơi yên tĩnh như thế, một mặt tất cả mọi sự đều nhắc chúng ta nhớ đến sự hiện diện của Chúa, từ một làm gió, một cánh hoa, một dòng nước, một tiếng chim hót cho đến cả sự im lặng ; và mặt khác con người chúng ta thư thái hơn, bình lặng hơn nên dễ cởi mở tấm lòng ra với Ngài hơn. (Viết theo Flor Mc Carthy)

*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT : Anh chị em thân mến

Lao động là nhọc nhằn, nhưng lao động cũng là nguồn vui, là tiền đề cho cuộc sống ấm no hạnh phúc, và nhất là lao động tạo dịp cho chúng ta góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây :

  1. Ngày xưa Đức Giêsu đã bảo các môn đệ rằng “Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành thị lân cận để Ta cũng rao giảng ở đó nữa”. Ngày nay Hội Thánh tiếp tục làm theo lời dạy ấy của Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh được nhiều thuận lợi và nhiều kết quả.
  2. Đất nước chúng ta còn nghèo. Rất nhiều người chưa có công ăn việc làm xứng đáng và đủ nuôi sống gia đình mình. Chúng ta hãy cầu xin cho các vị lãnh đạo đất nước có những đường lối chính sách đem lại công ăn việc làm cho mọi công dân, để cuộc sống mọi người đều ấm no hạnh phúc.
  3. Chúng ta hãy đặc biệt nhớ đến những người thất nghiệp và những người vì hoàn cảnh bó buộc phải làm những công việc không xứng với nhân phẩm và đạo đức. Xin Chúa giúp cho những anh chị em ấy sớm thoát khỏi tình trạng khốn khổ hiện tại.
  4. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho mọi người trong cộng đồng giáo xứ chúng ta biết siêng năng làm việc, để vừa nuôi sống bản thân mình, vừa góp phần xây dựng xã hội và Giáo Hội.

CT : Lạy Chúa, Chúa đã nêu gương cần cù làm việc từ sáng đến tối ; Chúa làm việc không phải vì bản thân Chúa mà còn để cứu giúp mọi người. Chúng con xin dâng lên Chúa những việc làm vất vả hằng ngày của chúng con. Xin Chúa thánh hóa những việc làm ấy và cho chúng sinh nhiều hoa quả tốt lành. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng con.

*VI. TRONG THÁNH LỄ

– Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta hãy cầu xin với Thiên Chúa là Cha chúng ta, xin Ngài thêm sức cho chúng ta có thể chu toàn mọi công việc chúng ta phải làm trong cuộc sống, đồng thời cũng xin Ngài cứu chúng ta khỏi mọi bệnh tật và mọi sự dữ.

– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin thêm sức cho chúng con gánh vác những lao nhọc hằng ngày,  xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”

*VII. GIẢI TÁN

Với ý thức rằng làm việc là cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, và với sự trợ giúp của Ngài, chúng ta hãy hăng hái trở về với cuộc sống và tích cực chu toàn những công việc của chúng ta

 CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN -B

TỪ CẢM PHỤC ĐẾN LÒNG TIN- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay liên kết ba bản văn khác nhau: trình thuật chữa lành mẹ vợ Phêrô (Mc 1,29-31), một bảng tóm tắt các phép lạ chữa lành (cc.32-34) và một bước tiến trong việc hoàn thành sứ mệnh (cc.35-39). Muốn phân tích ba bản văn, phải lưu tâm đến văn thể khác biệt của chúng.

Bài đọc thứ nhất (G 7,1-4.6.7) là phần nhập đề cho các cuộc chữa lành của Chúa Giêsu: ta đọc thấy trong ấy hình ảnh con người bị đau khổ vì thân phận trần thế, hay đúng hơn vì bệnh tật. Bà mẹ vợ Phêrô một cách nào đó hiện thân cho thân phận này, và những đám đông đi tìm Chúa Giêsu (cc.32.33.37) cụ thể hóa cái phản ứng đầu tiên của con người đứng trước kẻ có thể chữa lành họ. Con người thời đại hôm nay phải chăng đã được giải phóng khỏi thân phận nói trên nhờ và các khoa học và tiềm lực kinh tế? phải chăng họ đã vượt qua phản ứng của những người đồng thời với Chúa Kitô?

*I).TỪ HỘI ĐƯỜNG ĐẾN NHÀ SIMON (c.29)

Trình thuật chữa lành một kẻ bị quỷ ám đã đặt chúng ta tại hội đường Capharnaum (1,23-28), vì thế Mc viết tiếp: “Và lập tức ra khỏi hội đường…”. Thật vậy thánh sử hình như vẫn giả thiết một khoảng thời gian khá dài giữa lai phép lạ, bởi vì danh tiếng Chúa Giêsu đã có thời giờ lan xa khắp xứ Galilê. Hiển nhiên Mc đã giản lược. Ta biết ông thường dùng trạng từ “lập tức” nhưng chẳng gán ý nghĩa gì đích xác (11 lần nguyên trong chương một: Cc. 10, 12, 18, 20, 21,23,28, 29, 30, 42, 43). Vì ông không mấy quan tâm đểu tính cách liên tục hợp lý, mà chỉ muốn trình bày ở đây (cc.21-39) một ngày mới về sứ vụ Chúa Giêsu: “Ngày Capharnaum” theo thành ngữ cổ điển. [như Luca, nơi ch.24 đã cô đọng trong một ngày tất cả các sự kiện từ Sống lại đến Thăng thiên: “Vừa tang tảng bình minh (c.1):.. Đi thăm mộ về (c.9)… Cũng ngày hôm ấy (c.12)… Ngay giờ đó (c.33)… Họ còn đang trò chuyện (c.36)… Đoạn (c 44)..: Rồi (c.50)…”]. Mátthêô và Luca đã bỏ khung cảnh nói trên và để qua một bên tiếng “lập tức” giả tạo vừa nói. Chúng ta không biết thời biểu thật sự của các sự kiện ra làm sao. Tuy nhiên có thể quả quyết rằng cặp trình thuật chữa lành mẹ vợ Phêrô – chữa lành khi chiều đến” bắt nguồn từ một truyền thống có trước các Tin mừng Nhất lãm vì chi tiết “chiều đến” nằm trong Mc lẫn Mt. Nếu Lc đã bỏ qua trạng từ “lập tức” thì trái lại ông đã lưu giữ chi tiết “hội đường”. Ông sẽ khai triển ý nghĩa chi tiết này đến độ làm thành một chủ đề thần học, sẽ nhắc tới nhắc lui trong sách Công vụ của ông: khi rao giảng trong một thành hay một thị trấn, thì Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như vậy.

Chúa Giêsu “ra khỏi hội đường” không chỉ vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng vì các thính giả chưa hiểu được Người. Như các môn đồ khi chương kiến cơn bão dẹp yên, họ cũng đặt câu hỏi về bản thân Chúa Giêsu: “Cái gì vậy? (1,27), “ông này là ai thế? (4,41). Nhưng họ chưa trả lời được. Chắc hẳn phải coi đó là một hình ảnh biểu trưng: bao lâu còn ở trong hội đường, ta chưa thể trở nên môn đồ Chúa Giêsu; cần phải ra khỏi đó như một cuộc xuất hành mới. Nơi c.39, Mc sẽ viết với một đại danh từ độc hữu: “hội đường của họ”. Xa hơn ông kể rằng sau một phép lạ làm trong hội đường do Chúa Giêsu các biệt phái mới họp với phe Hêrôdê để chống Người. Chính vì thế mà người rút lui về bờ “biển”: Người đi ra và có nhiều kẻ đi theo (3,7). Chúa Giêsu cũng sẽ đi xa khi làm phép lạ hóa bánh và nhiều đám đông sẽ đến với Người (6,32-33). Người sẽ còn ra khỏi Đền thờ (11,11) và khỏi Giêrusalem nữa (11,19; 13,1). Về đề tài này, Luca lược đồ hóa rõ ràng hơn Mc: theo Lc Chúa Giêsu rao giảng lần đầu tiên tại hội đường Nadarét. Và ngay từ hội đương này, không những người đã chẳng được hiểu và bị bó buộc phải rời khỏi đó mà còn phải lẩn trốn để khỏi bị giết đi (Lc 4, 16-30).

Chắc Mc đã nghĩ đến chủ đề bất biến này trong Tân ước. Nhưng ta có nên đi xa hơn và xác quyết rằng ông đã muốn đối nghịch hội đường với nhà của Simon-Phêrô, hình ảnh Hội Thánh không? Chưa nên. Vì vẫn biết ngôi nhà này chiếm một chỗ quan trọng trong Tin mừng thứ hai (x. Assemtlées du Seigneur 38, tr.81 và 41, tr.40), nhưng ở đây Lc chưa nói đến Phêrô cách đặc biệt; ông chỉ bảo: “Người đến nhà của Simon và Anrê, cùng với Giacôbê và Gioan.

Bốn môn đồ đã được gọi đầu tiên (1,16-22) và vẫn luôn là những kẻ thân tín nhất này, là chứng nhân của phép lạ. Việc thiết lập nhóm Mười hai chỉ xảy đến về sau.

*II).CHỮA LÀNH MẸ VỢ SIMON (cc.30-31)

*1. Sự kiện:

Người ta đã đề nghị phân biệt các phép lạ của Chúa Giêsu thành hai: các phép lạ thương xót và các phép lạ chiến đấu (E.Trocmé, La formation đe Levangile de Marc, Paris, 1963, tr.123). Dù không tuyệt đối hoàn toàn, cách phân chia này vẫn giúp làm nổi bật hơn chiều hướng của các trình thuật. Những lần trừ quỷ có thể gọi là các phép lạ chiến đấu: Mc muốn nhân mạnh như vậy (1,23-28.29). Việc chữa lành mẹ vợ Phêrô có thể xem như một “phép lạ thương xót”: người ta đã nài xin Chúa Giêsu chữa cho bà (c.30). Tuy nhiên trong tư tưởng Mc, mọi việc chữa lành đều cũng tượng trưng một cuộc chiến thắng ma quỷ; ở giữa việc trừ quỷ và chữa lành tật bệnh, chẳng có phân biệt rõ rệt nào (x. 1,39; 3,15; 6,7 và 13). Còn Lc thì rõ ràng trình bày chuyện chữa lành mẹ vợ Phêrô như một việc trừ quỷ: Chúa Giêsu “hăm dọa cơn sốt” (Lc 4,39)

Theo Mc thì bệnh nhân cảm sốt. Nhưng ta không thể xác định đó là bệnh gì và nặng nhẹ ra sao.

Trong trình thuật của Mc, người ta thường nhận ra được chứng từ của chính Phêrô, là chẳng nhân trực tiếp của quang cảnh. Hình như thánh sử chỉ lấy chữ “chúng tôi” của Phêrô bằng chữ “họ”. Một vài lỗi ngữ pháp hoặc chi tiết văn thể chỉ giải thích được nếu cho rằng chính Phêrô đã kể lại các biến cố: chẳng hạn như chi tiết về Giacôbê và Gioan, vốn có vẻ như một câu ngoài đề.

Việc so sánh với bản văn song song của Mt giúp ta thấy được cách diễn tả phong phú của Mc: Mt không nói đến các môn đồ, họ có vẻ- như vắng mặt: Chúa Giêsu vào, thấy bệnh nhân, cầm tay và và bà cảm thấy “điều đó” (Mt 8,15). Sự đối diện này có lẽ làm cho bài giáo lý của Mt ra rõ ràng và sâu xa hơn, nhưng lại giảm đi tính cách có vẻ thực của trình thuật. Bản văn của Mc thì lại rất đơn giản. Người ta có thể viện dẫn tính cách đơn giản này để biện hộ cho xác thực tính của phép lạ, bởi vì các trình thuật chữa lành bệnh của lương dân thường rất phóng đại chi tiết.

*2. Ý nghĩa của phép lạ theo Mc.

Các trình thuật Tin mừng về việc chữa lành. mẹ vợ Phêrô không giúp ta xác định đúng chủ ý của Chúa Giêsu. Khi Người làm hành vi đó, cũng như ý nghĩa đích thực mà các chứng nhân đầu tiên gán cho việc này. Tuy nhiên ta biết người Do thái đã thường xem cảm sốt như là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28,22; 32,24; Lv 26,16) hay với bệnh dịch (Hb 3, 5). Về sau, người ta năng gán cảm sốt cho một con quỷ. Trong nhãn giới đó, phép lạ ở Capharnaum, đối với mọi người, hẳn muốn bảo rằng Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai mà Isaia đã loan báo là sẽ đến cứu con người khỏi đau khổ, hậu quả của sự ác luân lý (Is 26,19; 29,18t; 33 3; 35,5…). Mc đã lấy việc chữa lành mẹ vợ Phêrô làm một trong các yếu tố của “ngày Capharnaum” ngày mẫu của giai đoạn đầu sứ vụ Cứu Chúa; phép lạ minh giải, bằng một ví dụ, các bảng “toát yếu” về bao cuộc chữa lành mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Như thế phép lạ này là một dấu chỉ cho thấy thời đại cánh chung hay thiên sai đã đến trong bản thân Chúa Giêsu: Người hành động với chính quyền lực của Thiên Chúa. Nhưng đây vẫn còn là một đấu chỉ. Cần phải mất nhiều thời gian con người mới khám phá và chấp nhận ý nghĩa của dấu chỉ đó (x. Mt 11,4-6). Dẫu sao dự định riêng của Mc sẽ hiện ra rõ ràng hơn khi ta khảo sát kỹ lưỡng câu 31 và câu song song với nó trong Mt 8,15.

*3. Chúa Giêsu nâng dậy con người.

Cách đặt câu 31 có một điểm dị thường, ta hãy thử giải thích. Theo nguyên tự, ta có: “Tiến lại, Chúa Giêsu cho bà chỗi dậy bằng cách nắm lấy tay bà, và cơn sốt đã biến khỏi bà”. Bình thường lẽ ra phải viết: Chúa Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt biến khỏi bà; bà chỗi dậy…”. Dĩ nhiên Mc trước tiên không lưu tâm đến tính cách thuận lý, nhưng một chi tiết khác tăng cường chú ý của ta: động từ ogeirô Mc sử dụng ở đây đã trở thành một hạn từ chuyên môn chỉ việc sống lại. Mấy chữ “Người cho bà chỗi dậy”, hình như đã được thánh sử chèn vào trong một câu đơn giản hơn của Phêrô khi kể lại biến cố, vì là chỉ có nơi ông (Mt và Lc chỉ nói: bà chỗi dậy) Thành thử có lẽ Mc đã đưa những chữ này vào với mục đích giáo lý, và việc chọn động từ ogeirô nói lên ý hướng biểu tượng của ông. Như đã làm cho mẹ vợ Phêrô chỗi dậy khi cơn sốt đã biến bà bất động như chết trên giường, thì Chúa Kitô cũng đến cho ta chỗi dậy, cho ta phục sinh, để ta có thể phục vụ người. Chữ ogeirô cũng còn gặp trong trình thuật chữa lành em bé kinh phong (Mc 9,26-27), nơi lối biểu trưng còn rõ ràng hơn nữa. Thành thử chẳng lạ gì khi Mátcô đã muốn ám chỉ biểu tượng đó ở đây (x. P.Lamrarche, La guérison de la bolle-mère de Pirre ét le gent’e littéraire des Evangiles, trong NRT (1965) tr.518-520).

*4.Chỗi dậy dể phục vụ

Trong bối cảnh phép lạ, hay đúng hơn trong khung cảnh tiếp đón Chúa Giêsu tại nhà Phêrô, phục vụ trước tiên là cho ăn uống. Trong cùng ý nghĩa đó, sau những cuộc thử thách ở hoang địa, các thiên thần đã phục vụ Chúa Giêsu (Mc 1, 13), như Người cũng đã truyền cho con gái của Giairô ăn uống sau khi cho nó sống lại (Mc 5,43). Chúa Giêsu không bỏ qua thực tại trần thế giản đơn này, Người còn đi xa hơn nữa. Có lẽ ở đây Mc đã liên tưởng đến lời Chúa Giêsu: “Con người chẳng đến để được phục vụ nhưng là để phục vụ (diakonesai)” (Mc 10,45). Phục vụ không chỉ có nghĩa là hầu bàn, nhưng nếu cần, là “thí mạng làm giá chuộc nhiều người” (c45). Đó là lý tưởng mà Chúa Kitô đã đề ra cho những ai Người phục sinh từ cái chết của tội lỗi.

Trong bản văn ngắn gọn và đặc thù hơn của Mt, ta đã thấy Chúa Giêsu xuất hiện một mình. Số ít của phần cuối câu 15 (bà phục vụ Người) đã làm cho ý nghĩa của động từ được mở rộng. Không còn là vấn đề dọn bữa ăn cho Thầy và cho môn đồ đói mệt vì miệt mài với sứ vụ nữa, song là một chuyện tổng quát hơn. Tình trạng trước của bệnh nhân tượng trưng thân phận con người tội lỗi bao lâu chưa được Chúa Kitô cứu vớt và việc chữa lành thân xác biểu hiệu công trình thiêng liêng Chúa Giêsu hoàn thành. Tin mừng thứ 4 sẽ khai triển cùng lối biểu tượng này trong trình thuật người bất toại ở hồ tắm Bêthesđa (5, 1-18).

*III). BẢNG “TOÁT YẾU” (cc.32-34)

*1.Các đặc tính của văn thể “toát yếu”: ý nghĩa và việc tổng quát hóa.

Hiển nhiên là ta không nên hiểu theo mặt chữ những lời xác quyết tuyệt đối như: “Người ta đã đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám” (c.32), nhất là câu của Mt: Mọi kẻ ốm đau, Người đều chữa lành” (Mt 8,16; x. Lc 4,40). Ta biết rằng Chúa Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân; Người đòi hỏi đức tin của họ. Vì thế Mc đã viết: “Chúa Giêsu đã chữa nhiều kẻ ốm đau” (c.34). Cũng có thể có một thái quá trong kiểu nói: Tất cả thành đều tụ tập trước cửa” (c.33): hình như đây là một sự tổng quát hóa, nhưng chắc chắn cũng là kỷ niệm về một sự kiện có thật đã hơn một lần xảy ra và đã đánh vào trí tưởng tượng của lắm người: truyền thống nhiều lần kể lại rằng người ta đã không thể qua cửa mà vào nhà được vì dân chúng quá đông: nên phải chuyền miệng vô lời nhắn gởi (3,32), hoặc đưa bệnh nhân lên mái nhà thòng xuống (2,1-4).

*2. Lũ quỷ

Danh từ hay tĩnh từ quỷ được dùng ba lần trong Mc 1,32-34 và một lần nữa ở c.39. Ta thấy rõ đó là một trong những ưu tư lớn của Mc. Chúa Giêsu đến chiến đấu với ma quỷ và giải phóng con người khỏi quyền lực của nó. Ngay từ đầu, Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô như là kẻ mạnh hơn” (1,7); Người khai mạc sứ vụ bằng một cuộc tấn công trực tiếp Satan và hắn bị bại trận (1,12-13). Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng thì một kẻ ma ám thử cản trở Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất (1,23-27); và trong đoạn kết của Mc”, dấu chỉ đặc trưng đầu tiên của người môn đồ là “xua trừ ma quỷ” (16,17) (x. G. Gaide, Les deux maisons, trong Assemblées du Seigneur 41, tr.41-45). Trong nhãn giới này, mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ ma quỷ và mọi cuộc chữa lành nhờ trục xuất- ma quỷ đều là một chiến thắng trên quỷ ma.

*3. “Bí mật thiên sai (c.34b).

Kết luận của bản toát yếu này thường được xem như là do Mc biên soạn. Mc không để mất một cơ hội trở lại với lời căn dặn giữ bí mật thiên sai như với một chủ đề ưa thích (G. Minettè. de Tillesse, le secret messianique danh l’evangile de Marc, paris, 1968). Câu này sẽ dễ hiểu hơn nếu đặt sau việc trừ quỷ ở hội đường, vì lúc đó người bị quỷ ám kêu lên: “Chúng tôi với Ngài nào có việc gì?… Tôi biết Ngài là ai: Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1,24). Để nhắc lại những lời này, Mc hẳn đã thêm một giải thích vào câu 34: “Bởi vì chúng (lũ quỷ) biết Người là ai”. Lc muốn rõ hơn nên đã lặp lại những lời của quỷ (4,34-41).

Lũ quỷ này sáng suốt hơn con người đã tức khắc nhận ra được địch thủ của chúng và gào to lên (1,24; 5,7…). Dĩ nhiên tiếng la hét của chúng chẳng phải là những hành vi đức tin, nhưng là những dấu hiệu sợ hãi và thảm bại trước kẻ mà chúng nhận ra là người được Thiên Chúa sai đến, đầy quyền lực thần hình mà chúng không thể đương cự nổi (x. 3,22-27). Đối với con người, Chúa Giêsu tự mặc khải một cách tiên tiến bằng những dấu chỉ về quyền lực của Người trên các bệnh tật nổi tiếng là nan y.(1,40-45), trên tội lỗi mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha thứ (2,5-12), trên ngày của Chúa là ngày hưu lễ (2,28), và cuối cùng là trên sự sống (ch. 15-16).

Tự hỏi “Giêsu là ai?” tức là đã làm một bước đầu trên con đường đưa đến sự hiểu biết hoàn hảo về bản nhân Người, đưa đến đức tin. Vậy mà Mc muốn từng bước dẫn đưa độc giả (hay thính giả) đến chỗ khám phá Chúa Giêsu Kitô như thế.

Khi nhìn thấy những kỳ công đầu tiên Chúa Giêsu đã làm, trong đó có việc chữa lành mẹ vợ Phêrô, con người chỉ nghĩ đến những hồng ân vật chất tức thời mà họ có thể chờ đợi cho chính họ hay cho thân thuộc họ. Ví dụ như dân làng Nadarét theo Lc (4,23). Khi đó Chúa Giêsu liền lánh mặt.

Ta không cần nhắc lại ở đây những gì đã nói về bí mật thiên sai, chỉ cần nhấn mạnh đến một khía cạnh giáo dục của chủ đề nầy: một hành vi đức tin vào Chúa Giêsu sẽ chỉ thực sự có giá trị khi gói ghém một sự hiểu biết đầy đủ về sứ mệnh và công việc Người, đặc biệt về sự cần thiết phải chết và sống lại để hoàn thành công việc đó. Người thứ 4 diễn tả điều này như sau: “Có lắm kẻ đã tin vào danh Người bởi được chứng kiến các dấu lạ Người làm, nhưng Chúa Giêsu không tín nhiệm vào họ” (Ga 2,23-24).

Tuyên bố Chúa Giêsu là Đấng Messia mà chẳng tin rằng Người phải chết và sống lại, đó là nói mà không biết mình nói gì, và có thể liều mình chối Chúa Kitô một khi khám phá được thực tế.

*IV). HƯỚNG CẢ VỀ XỨ GALILÊ (cc. 35-39).

Trình thuật nơi cc. 35-39 là một bản lề (trình thuật chuyển tiếp): cho đến bây giờ Chúa Giêsu xem ra giới hạn chân trời và hồng ân Người cho dân vùng Capharnaum; từ đây sứ vụ của Người sẽ lan rộng khắp miền Galilê hết thảy (c.39).

Trước lúc hừng đông, khi các môn đồ còn ngủ vì mỏi miệt sau một ngày truyền giáo, Chúa Giêsu đã thức dậy. Sự giao tiếp với con người và niềm vui chữa lành vài bệnh nhân chưa làm Người thỏa mãn. Người lui ra nơi thanh vắng để cầu nguyện, nghĩa là để đặc biệt tìm gặp sự thân mật với Cha Người. Lc sẽ nhấn mạnh điểm này xa hơn.

Simon còn chưa hiểu ý nghĩa sứ mệnh Chúa Giêsu: tựa như ông muốn khai thác thành công của Thầy. Ông chỉ thấy những phép lạ đã được thực hiện và tưởng rằng sẽ còn nhiều phép lạ khác, có lợi cho dân Capharnaum. Ông hy vọng đưa Chúa Giêsu lui về nhà. Đám dân đã tản mác đêm qua bây giờ trở lại, cũng với kỳ vọng thấy nhiều phép lạ mới: họ mong chờ những cuộc chữa bệnh, trong khi đối với Chúa Giêsu, loài ân huệ này chỉ là bước chuẩn bị cho việc đón nhận Tin mừng và mặc khải về mầu nhiệm bản thân Người thôi.

Mc không ghi lại đối tượng lẫn nội dung của lời Chúa Giêsu cầu nguyện nhưng mẩu đối thoại tiếp theo cho ta thoáng thấy được ý nghĩa của lời cầu nguyện đó. Đối với Chúa Giêsu, đấy không hẳn là xin ơn cho bằng là nói về sứ mệnh của người với Đấng đã sai Người đến. Trước đây lúc chịu phép rửa Chúa Giêsu đã nghe tiếng nói Cha Người (Mc 1,11; x Lc 3,21), đã nhận Thánh Thần là đã được Thánh Thần thúc dẩy tấn công ma quỷ (1,12-13).

Thành ngữ chính vì thế mà “Ta đã ra đi” có nghĩa là gì? Phải chăng là đi ra khỏi Capharnaum (nghĩa tự nhiên) hai đi ra khỏi Chúa Cha để đến trong trần thế (nghĩa của Gioan 16,28)? (x. A. Feuillet, Le Logion suy la rancon, trong Rev. Sc. Phil. Théo. (1967), tr.372). Luca đã hiểu câu nói Chúa Giêsu theo nghĩa thứ hai, vì ông đã viết lại: “chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (4,43 hiểu là từ nơi Chúa Cha). Tuy vậy ta có thể nghĩ rằng đây là kết quả việc Lc suy ngắm về sứ mệnh Chúa Giêsu, và có chủ đích soi sáng sứ mệnh của Giáo Hội cùng của các môn đồ: qua từng giai đoạn, các môn đồ phải vượt ra khỏi mọi biên giới và đem Tin mừng đến tận cùng thế gian (Cv 1,8). Mc đã chẳng đẩy suy tư về sứ mệnh Giáo Hội xa như thế, ông gần với những sự kiện như đã xảy ra hơn: Chúa Giêsu không muốn bị kéo lôi bởi thành quả của Người. Về sau cũng vậy, sau khi làm phép lạ hóa bánh, Người lui ra nơi cô tịch để tránh sự cuồng nhiệt của đám đông và để đặt mình trong ý định của Thiên Chúa (Mc 6.46; Mt 14,23; Ga 6, 15b). Cơn hấp hối tại vườn Ghetsêmani có thể đem đối chiếu với hai giai thoại này. Trong cả ba trường hợp, Chúa Giêsu lui ra để cầu nguyện ban đêm; các môn đồ, đặc biệt là Phêrô, đều tỏ vẻ kinh ngạc, vì họ chưa hiểu sứ mạng của Thầy.

NHỮNG KẾT LUẬN CHO THỜI NAY

Cuối bài khảo cứu này, ta thấy bản văn Chúa Nhật hôm nay, có một tính cách thời sự đặc biệt, dĩ nhiên không phải ở điểm gán cho ma quỷ các chứng bệnh, nhưng vì giải tỏa được nhiều ưu tư của ta về phương pháp giáo dục đức tin và về nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội.

*1. Sự dấn thân của đức tin.

Người ta đã có lý khi bảo Tin Mừng thứ hai là một lời rao giảng hơn là một bài giáo lý. Tuy nhiên điều ấy không có nghĩa là để theo Mc, chỉ cần một đức tin tối thiểu mà rồi sau đó sẽ đào sâu với giáo lý của Mátthêô, đoạn với thần học của Phaolô hay của Tin mừng thứ tư. Không! Mátcô rất đòi hỏi. Ông chẳng muốn một sự dấn thân khơi khơi bên ngoài. Chính vì thế mà ông không đặt ngay vấn đề dứt khoát. Ý nghĩa của mệnh lệnh giữ bí mật thiên sai là vậy, và đó là một phương pháp giáo dục tuyệt hảo: kẻ rao giảng Tin mừng luôn luôn nói về Chúa Kitô, nhưng cẩn thận mặc khải, bản thân và mầu nhiệm Người cách tiệm tiến, bằng nhiều “dấu chỉ nhiều lời ẩn bí (mashal). Thỉnh thoảng ông cũng kín đáo để lộ cái cốt yếu của mầu nhiệm nhưng lại che dấu ngay lệnh giữ bí mật), nhưng chính Chúa Giêsu khi Người trốn khỏi quần chúng hoặc khi chỉ tỏ lộ vinh quang trong chốc lát lúc biến hình. Vị thánh sử cũng là giáo lý viên có trách nhiệm về các tân tòng. Đã biết nhận ra thính giả của mình chưa sẵn sàng mấy còn cần phải tiến bước lâu dài và thong thả. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu quá vĩ đại, khó mà khám phá trong một ngày, trừ phi được ơn đặc biệt như Phaolô.

Chính nhóm Mười hai cũng đã trải qua nhiều thời gian dài mới tin vào Chúa Giêsu thực sự, mới biết Người đúng như bản chất Người. Chắc hẳn họ đã gắn bó với Người rất sớm, nhưng chỉ đạt được đức tin sung mãn sau tiến cố Tử nạn, Phục sinh và Ngũ tuần thôi. Cho tới lúc đó, đức tin của họ vẫn còn bất toàn và mỏng manh, như ta thấy rõ vào giờ Chúa Giêsu bị bắt và bị xử án.

Tại sao có sự đòi hỏi, sự tiệm tiến nơi Mc như vậy. Chắc chắn là vì ông ctã hiểu đức tin lôi kéo sâu xa con người đến mức nào. Có lẽ Phêrô, được soi sáng bởi kinh nghiệm riêng của mình (những lần chối Chúa) đã nhấn mạnh đặc biệt về điểm này chăng? Rồi chắc cũng là vì lúc Tin Mừng Mc được biên soạn dứt khoát thì Giáo Hội Rôma đang sống trong những hoàn cảnh đòi buộc thái độ trên: trong trường hợp bị bách hại, người ta chỉ có thể nhận vào Giáo Hội những tân tòng đã được chuẩn bị kỹ càng và đã quyết tâm theo Chúa Kitô, dù phải mất mạng sống.

Ngày nay đòi hỏi này vẫn còn có giá trị, chứ không chỉ dành riêng cho thời hoặc miền đã bị bách hại mà thôi. Người ta đã không luôn luôn chú ý cho đủ giáo huấn của Mc về điểm này. May thay, thời nay, nhờ nhiều đường lối khác nhau, người ta đã khám phá nó lại.

*2. Lời mời gọi truyền giáo.

Như mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu đã yêu quê hương làng nước của Người (Nadarét, Capharnaum). Người đã khởi đầu sứ vụ tại đó, nhưng Chúa Cha đã gọi Người đi xa hơn. Trong một đoạn ngắn ngủi, Lc cho thấy làm sao Chúa Giêsu đã bỏ Nadarét. Mc kể lại làm sao Người đã rời Capharnaum. Ngày hôm nay, người ta nhấn mạnh nhiều và không phải không có lý do đến nghĩa vụ truyền giáo ngay bên trong những vùng đất được gọi là Kitô giáo từ lâu đời, và cũng nói đến rất nhiều khó khăn mà những người đem Tin mừng đi xa gặp phải, khiến có nguy cơ làm giảm số lượng những nhà truyền giáo phương xa này. Nhưng như vậy là đã bỏ quên một khía cạnh quan yếu của sứ mệnh Hội Thánh. Bài Tin mừng hôm nay nhắc cho ta nhớ khía cạnh đó lại.

*3. Đứng trước bệnh tật và những đau khổ trần gian khác.

Phản ứng của người dân Capharnaum vẫn tiếp tục bày tỏ. Biết bao nhiêu người, hôm nay vẫn còn, chỉ đến xin Chúa Kitô và Giáo Hội giúp đỡ vật chất và họ phê phán Chúa Kitô cùng Giáo Hội chỉ qua thái độ đáp ứng nỗi chờ mong đó. đây là phản ứng một phần bị thúc đẩy bởi khuynh hướng đã có từ lâu trong Giáo Hội là chỉ giới hạn trong sứ vụ thiêng liêng. Nhưng đàng khác cũng là phản ứng muôn thuở có thể khiến người ta đi từ cực đoan này đến cực đoan khác. Trước một sự chờ đợt như vậy, Chúa Giêsu lánh mình đi. Dĩ nhiên Người đã ngang qua thi ân giáng phúc và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ áp bức khống chế (Cv 10,38). Và Người cũng muốn các môn đồ làm như Người, một cách thích nghi hơn cho thời của họ. Nhưng Người không hề để nình bị giam hãm trong cái vòng đó Môn đồ và Giáo Hội Người cũng phải như vậy.

Gilles Gaide, Assemblées du Seigneur 36, tr.39-48.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

Bài đọc1: Gióp hay là “đau khổ trong đức tin”. Gióp sống trong đức tin. Có hai điểm ông cho là cốt yếu và phải giữ vững: đó là có một sự đau khổ bất công và Thiên Chúa thì luôn luôn nhân ái và công bình. Ông không hiểu được làm sao có thể dung hòa hai xác quyết tương phản ấy nhưng vẫn giữ vững cả hai. Trước một đau khổ, mọi lối an ủi như: “Chúa nhân từ yêu bạn! Đời sau sẽ đẹp hơn! Bạn chuẩn bị Thiên đàng! Bạn đền thay cho tội nhân!” đôi khi có vẻ thừa thãi. Sự đau khổ không thể thỏa mãn với một lời giải thích giản đơn. Sự đau khổ, nhất là khi xảy đến cho những kẻ vô tội hoặc khi quá sức lớn lao, là một trong những mầu nhiệm lớn của con người. Trước đau khổ, thái độ đích thực chỉ có thể là một đức tin sâu xa. Thiên Chúa đã phán: tư tưởng các ngươi không phải là tư tương của Ta và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).

Chúa Giêsu không đến trần gian để tiêu diệt hết mọi khổ đau, bệnh tật. Ngay lúc sinh tiền, Người chẳng chữa lành hết mọi bệnh nhân Người gặp, giải quyết hết mọi vấn đề sinh tồn của con người. Người chỉ ra tay cứu giúp một số ít, đặc biệt những ai có lòng tin để cho họ tin vào sứ điệp Người, thấy lòng nhân ái của Thiên Chúa và hy vọng một tương lai trong đó quyền năng của người sẽ dẹp tan mọi đau khổ. Đúng ra Người đến để mang lại cho đau khổ một ý nghĩa đích thực, một công dụng siêu nhiên. “Sự cao cả tuyệt vời của Kitô giáo là ở chỗ nó không tìm một phương dược siêu nhiên để chống lại đau khổ, nhưng là tìm ra một công dụng siêu nhiên cho đau khổ” (Simone Weii). “Từ khi Chúa Kitô đến, chúng ta được giải phóng không phải khỏi việc đau khổ, nhưng là khỏi việc chịu đau khổ cách vô ích” (P.Charles SJ).

Thiên Chúa không dẹp tan đau khổ cho con người đang sống trong thời gian bởi vì đau khổ cần cho con người. Đau khổ là giá của tự do, là trường rèn luyện nhân cách, là động lực tiến bộ xã hội, là dấu chứng minh tình yêu, là phương tiện để giúp ta từ bỏ hầu chọn lựa được Thiên Chúa. Xét một cách tiêu cực, còn đau khổ trong trần gian là vì con ngươi còn thiếu tình yêu đối với anh em, còn đau khổ trong bản thân là vì con người còn bám chặt lấy hay chưa dứt bỏ nổi cái không phải là hạnh phúc đích thực. “Ngàn lần chúc tụng sự đau khổ đã đưa tôi về với Thiên Chúa” (Francois Coppée). “phương pháp làm nhẹ đau khổ của mình là giảm bớt đau khổ của tha nhân” (P.Charles SJ).

Chúa Giêsu không chỉ loan báo Tin mừng, Người còn cụ thể hóa Tin mừng đó bằng các hành vi cho thấy Vương triều Thiên Chúa (mà Người là nhân chứng và là Messia) đang đến. Trong thế giới này, Kitô hữu chúng ta cũng phải là những người kế tục sứ mệnh Chúa Giêsu Kitô. Làm chứng cho Vương triều Thiên Chúa. Sứ mệnh đó sẽ không chỉ nằm trong lời nói, mà còn trong hành động: đức tin chúng ta phải thúc giục chúng ta cụ thể hóa lời rao giảng bằng một hành động tấn công mọi quyền lực của sự ác như Chúa Giêsu. Kitô hữu là người muốn minh chứng Nước Trời đang đến bằng việc tích cực chống lại những gì là xấu xa, bệnh tật, đàn áp, bóc lột, bất công, đau khổ, tội lỗi. Đó là cách duy nhất để làm cho Nước Trời mau đến. Đó cũng là cách duy nhất mà Giáo Hội – dấu chỉ bí tích của Nước Trời gây niềm tin cho thế gian. Phải làm những hành vi có ý nghĩa như Chúa Giêsu đã làm.

Thính giả của Chúa Giêsu rất khó chấp nhận giáo lý phổ quát, đại đồng của Người. Họ vấp phạm, họ thắc mắc khó chịu về tính cách phổ quát ấy. Luôn luôn họ vẫn nghĩ họ là dân riêng duy nhất được ưu đãi, chứ không còn nơi nào khác. Đồng ý là Thiên Chúa tự chọn: Giáo Hội Ngài, nhưng việc chọn lựa đó chỉ là điểm khởi hành để đi đến “nơi khác”. Với Giáo Hội ngày nay, cả với tôi nữa, Chúa Giêsu vẫn còn nhắc: Chúng ta lên đường đi nơi khác”. Lời đó có nghĩa gì cho tôi? Thưa nghĩa là tôi không được bo bo giữ kín Tin mừng để thỏa mãn cho tôi thôi, song phải làm sáng tỏa cho mọi người”.

home Mục lục Lưu trữ