Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 41
Tổng truy cập: 1374480
HÃY TIN VÀO THIÊN CHÚA VÀ TIN VÀO THẦY
Nhân đọc chứng từ của cụ Đỗ Duy Huỳnh về những ngày tù gian khổ của cụ và Đức H.Y. P.X. Nguyễn Văn Thuận ở trại giam Vĩnh Quang, tôi thấy càng thêm lòng kính trọng một nhân chứng của niềm hy vọng. Thiết nghĩ đây cũng là lẽ sống và gương sống sáng chói nhất của Đức H. Y.
Nuôi được niềm hy vọng trong cuộc sống lao tù giữa hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Trở thành nguồn hy vọng và nâng đỡ tinh thần cho người khác trong lúc chính tương lai của mình cũng bị bao phủ bằng một màn đen dầy đặc. Thiết nghĩ nếp sống và những hành động đó xuất phát từ sức mạnh tinh thần của một bậc vĩ nhân.
Gương sáng của chứng nhân niềm hy vọng này giúp tôi hiểu rõ hơn đoạn Tin mừng dành cho Chúa nhật hôm nay. Chúng ta đã mừng đại lễ Phục sinh được 5 tuần, nhưng bài Tin mừng dẫn chúng ta ngược dòng thời gian trở về khung cảnh buổi Tiệc ly để nghe những lời trăng trối của Đức Giêsu:
Đây là một trong những lời trấn an và nâng đỡ tinh thần mạnh mẽ nhất trong toàn bộ Phúc âm. Nhưng chúng ta không khỏi tự hỏi: Nghe những lời này trong hoàn cảnh chúng ta đang sống hiện nay, đó có phải là những lời trấn an quá ư là không thực tế.
Sao Đức Giêsu lại có thể bảo lòng chúng ta đừng xao xuyến:
Trong khi sau biến cố 11.9, nạn khủng bố quốc tế vẫn còn là mối đe dọa có thể dẫn đến tiến trình tiêu diệt cả một nền văn minh toàn cầu.
Trong khi đất nước Việt Nam đang điêu linh, đa số đồng bào đang phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày, đang phải chạy ăn từng bữa, các nạn bão lụt tới tấp, các quyền lợi căn bản của con ngườI đang bị chà đạp. Trong cuộc sống cá nhân và gia đình, với bao khó khăn về công ăn việc làm, các vấn đề hôn nhân, giáo dục con cái, khác biệt thế hệ v.v.. và v.v... Nhiều lúc chúng ta không khỏi nghi nan tự hỏi: Không biết Đức Giêsu có hiện diện và đồng hành với chúng ta trong cuộc sống thường nhật không? "Lòng các con đừng xao xuyến". Những lời này đôi khi xem ra có vẽ vô tình và hờ hững trước những gánh nặng đang đè nặng trên đôi vai chúng ta.
Đoạn Tin mừng hôm nay một lần nữa khẳng định với chúng ta là: Đức Giêsu biết và hiểu rất rõ các vấn đề chúng ta đang phải chạm trán, vì khi nói lên những lờI trấn an trên, chính ngài cũng đang kinh nghiệm những vầy vò của nhiều vấn đề của cuộc sống
Nhóm Biệt phái và Luật sĩ đang rình mò tìm cơ hội để thanh toán Ngài. Các môn đệ không hiểu sứ mệnh và các giáo huấn của Ngài. Giuđa đang tìm dịp bán nộp Ngài. Phêrô sẽ chối từ Ngài, và cuộc thương khó đẫm máu sẽ dẫn Ngài đến cái chết đau đớn và ngục ngã trên Thập tự.
Vâng, trong chính bối cảnh tang thương đó, Đức Giêsu đã quên những vấn đế và đau khổ của chính mình để nói lên những lời ủi an các môn đệ. Ngài dư biết là khi Ngài chết đi, họ sẽ có thể rơi xuống vực sâu của tuyệt vọng.
Trong tuần tới, chúng ta hãy lấy đôi phút mỗi ngày để đọc và thấm nhuần những lý do khiến chúng ta có thể vững tâm trong những nổi khó khăn của cuộc sống, vì thật sự:
Đức Giêsu là Đàng, là Sự Thật và là Sự Sống. Ai thấy Thầy là xem thấy Cha.
47. Về cùng Chúa
Chúng ta thường nói:
- Đã là người, thì làm bất cứ việc gì, cũng đều theo đuổi một mục đích nào đó.
Chẳng hạn tôi vất vả trên ruộng đồng là để gia đình có chén cơm manh áo. Tôi cặm cụi lao động trong nhà máy là để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Tôi cắp sách tới trường là để trau dồi thêm những kiến thực làm giàu cho cuộc sống.
Thế nhưng, khi hỏi về mục đích của cuộc đời, nhiều người lại phân vân không biết phải trả lời như thế nào. Đúng thế, chúng ta sống trên đời là để làm gì? Câu hỏi này nhiều lúc đã ám ảnh tâm trí, để rồi chúng ta cảm thấy băn khoăn và day dứt:
- Tôi bởi đâu mà tới và rồi tôi sẽ đi về đâu?
Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng lại vô cùng quan trọng, vì nó ấn định toàn bộ hướng đi của cuộc đời chúng ta.
Thực vậy, có những kẻ coi tiền bạc, địa vị hay vui thú phần xác là mục đích cuối cùng của cuộc sống, để rồi đầu tư mọi công sức vào đó. Họ sử dụng mọi biện pháp, kể cả những biện phát bất chánh để tìm tiền kiếm bạc, miễn sao nhét đầy túi tham của mình. Còn để leo lên ghế nọ ghế kia trong xã hội, họ không ngần ngại đạp lên người khác mà tiến thân, nhưng rồi khi phải đối đầu với cái chết, họ mới bẽ bàng nhận ra rằng mình đã lầm.
Với chúng ta thì sao? Sách giáo lý đã trả lời:
- Đời sống chính là một cuộc hành hương trở về cùng Chúa trong niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Niềm hạnh phúc vĩnh cửu được ở bên Chúa phải là điểm tới cuối cùng và bắt buộc cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, muốn được như thế, chúng ta phải sống đạo, phải bước đi trên con đường Chúa đã chỉ dạy, bởi vì đạo là đường. Con đường nào cũng có một hướng đi, con đường nào cũng dẫn tới một bến bờ.
Đạo của chúng ta được gồm tóm trong những điều Chúa truyền dạy, đó là mến Chúa và yêu người. Con đường của chúng ta là chính Chúa và con đường này sẽ dẫn chúng ta đến cuộc sống muôn đời, như lời Ngài đã phán:
- Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta phải lên đường và trở về cùng Chúa, đồng thời mỗi ngày sống phải là một bước chúng ta tiến đến với Chúa, mỗi tháng năm chúng ta phải chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công nghiệp, được kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể nói được rằng:
- Niềm hạnh phúc vĩnhcửu được ở bên Chúa đang nằm trong lòng bàn tay chúng ta, bởi vì tương lai phải được bắt đầu từ hiện tại và ngày mai phải được bắt đầu từ ngày hôm nay.
Có một bà giàu sang mơ thấy mình được đưa vào thiên đàng. Bà ta đi một vòng và nhìn thấy một tòa biệt thự huy hoàng đang được được xây dựng. Bà ta bèn hỏi thiên thần dẫn đường:
- Tòa biệt thự này được xây dựng cho ai thế?
Thiên thần trả lời:
- Cho người làm vườn của bà đó.
Bà ta ngạc nhiên bởi vì ở trần gian, người làm vườn của bà ta chỉ ở trong một túp lều tranh xiêu vẹo, nhỏ bé đến nỗi không có đủ chỗ cho cả gia đình bác ấy nữa. Thấy vậy, thiên thần liền nói:
- Ở trần gian, bác ấy có thể khá hơn, nếu bác ấy đã không quảng đại, đã không bác ái.
Đi được một quãng, nhìn thấy một căn nhà lụp xụp cũng đang được cất lên, bà ta liền hỏi:
- Căn nhà lụp xụp này được cất lên cho ai thế?
Thiên thần trả lời:
- Cho bà đó.
Bà ta bực tức và nói:
- Tôi quen ở nhà cao cửa rộng, làm sao chui rúc được trong một căn nhà tồi tàn như thế này.
Thiên thần đáp:
- Chúng tôi đã làm hết sức mình mà chỉ được có vậy mà thôi, bởi vì vật liệu bà gửi lên quá ít.
Người đàn bà tỉnh giấc, suy nghĩ và đã tìm ra bài học của giấc mơ, đó là hạnh phúc mai sau tùy thuộc vào những hành động bác ái yêu thương mình làm khi còn sống ở trần gian. Vì thế, kể từ ngày ấy, bà ta đã ra sức lập công, tích lũy cho mình một kho tàng thiêng liêng trên trời.
Bởi đó, hãy sống thế nào để trong này sau hết, chúng ta sẽ được Chúa mời gọi:
- Hời nhưng kẻ đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng nước trời đã được dành sẵn cho các con.
Hãy sống thế nào để ngày sau hết, chúng ta sẽ được nghe lời Chúa phán:
- Thầy ở đâu, các con cũng sẽ được ở đó với Thầy.
48. Con đường
Có một tác giả đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau: Tại một vùng quê nọ bên Tây phương, một ông từ coi nhà thờ có thói quen mỗi ngày cứ 15 phút trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến người phụ trách tổng đài trong vùng và hỏi giờ. Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã hỏi lại: “Thưa ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin ông cho biết lý do tại sao ông hỏi như thế mỗi ngày?” Ông từ nhà thờ giải thích: “Thưa ông, có gì đâu, tôi là người có trách nhiệm phải kéo chuông mỗi ngày vào đúng giờ ngọ. Tôi cần hỏi giờ chính xác thôi”. Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra, ông nói với ông từ nhà thờ: “Thật là buồn cười, trong khi ông điện thoại đến hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi là người điều chỉnh đồng hồ của tôi theo tiếng chuông của ông”.
Tác giả của câu chuyện trên kết luận: “Cuộc sống quả là bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm ra được câu trả lời”. Chúng ta cần có một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, và người ta có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, chủ tể của sự sống. Kinh Thánh, lời của Ngài, thường ví cuộc sống như một cuộc hành trình. Từ lúc Nô-ê xuống tàu, Abraham cất bước ra đi vào vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Đức Maria, và cả cuộc đời không ngừng di động của Chúa Giêsu. Tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình trong đức tin của người Kitô hữu.
Đời người là cuộc hành trình, ra khỏi lòng mẹ là nhập cuộc và ra đi không ngừng: tuổi trẻ và thanh niên được dệt đầy những năng động để không ngừng dự phóng và sáng tác. Tuổi trung niên thành công tràn ngập, nhưng thất bại cũng giăng đầy những lối đi: có những người bạn chợt đến rồi đi, vui tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm. Rồi tuổi già đến, chúng ta nhận ra rằng: tất cả trên đời này chỉ là tạm bợ.
Đời là một hành trình, Đức Kitô đã trải qua đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình: Sinh ra trong một cuộc hành trình, và mở mắt chào đời để phải vội vã ra đi như một người tị nạn, năm 12 tuổi, lạc mất trong một cuộc hành trình, trong cuộc sống công khai, Ngài không ngừng đi lại khắp nẻo đường Palestine, và cuối cùng Giêrusalem, đồi Canvê là điểm đến của cuộc hành trình. Qua cuộc hành trình không ngừng nghỉ ấy, Đức Kitô đã tuyên bố: “Chính thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”, nghĩa là ai tin Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình. Ngài là con đường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang.
Thực vậy, trên thế giới không thiếu những con đường nổi tiếng, nhưng có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tin yêu để vươn lên sự sống. Con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là con đường mang tên Giêsu. Đúng vậy, đối với chúng ta, chỉ có một con đường duy nhất để được cứu độ, để đạt tới cuộc sống bất diệt và hạnh phúc vĩnh cửu, tên gọi của con đường ấy là Giêsu.
Đi trên đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Đi trên đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ giữa lòng đời. Đi trên đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường của yêu thương và phục vụ. Vì thế, khi chúng ta sống trong yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.
Vì hoàn cảnh, ơn gọi mỗi người thường khác nhau, không phải ai cũng thích hợp với ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ. Nhưng một điều chắc chắn mà có lẽ ít khi chúng ta nghĩ tới, đó là tất cả chúng ta đều được Chúa kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Chúa Giêsu đã sống ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa của Ngài một cách tuyệt đối hoàn hảo và đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho chúng ta. Vì thế, Chúa bảo chúng ta hãy đi theo con đường của Ngài trong suốt hành trình của cuộc sống. Với Chúa, chúng ta sẽ không cảm thấy cô đơn. Chúng ta sẽ mệt mỏi, nhưng không kiệt quệ. Chúng ta sẽ khổ đau, nhưng không thất vọng. Chúng ta sẽ chán nản, nhưng không bị bỏ rơi. Chúng ta kiếm tìm hạnh phúc, và chúng ta sẽ đạt được.
Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta.
49. Con đường
Họa sĩ Broulette đã vẽ một loạt ba bức tranh để diễn tả điều đã nhìn thấy trong đời sống văn minh hiện đại. Bức tranh thứ nhất vẽ một người đàn ông điên loạn đang cố gắng tìm kiếm một miếng giấy quan trọng trong căn phòng bề bộn. Tất cả những ngăn kéo đã mở toang ra, giấy tờ ném bừa bãi khắp nơi, Khăn trải giường rách nát, các bức tranh rơi xuống khỏi vách tường. Một tên quỷ đang đi theo con người điên loạn đó. Tay nó nắm giữ tờ giấy quan trọng ông đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng.
Bức tranh này diễn tả con người thời đại đang mải miết kiếm tìm một điều thần diệu mang lại hạnh phúc cho họ trong cuộc đời. Có lẽ tờ giấy đã bị mất sẽ không bao giờ được tìm thấy, nhưng trên con đường tìm kiếm, nhiều người đã thử tìm trong men rượu, sắc dục, cờ bạc… mà chẳng bao giờ thấy hạnh phúc.
Bức tranh thứ hai diễn tả một người đàn ông xanh xao gầy còm hốc hác với một cái xuổng đang nỗ lực đào bới trong cánh đồng bát ngát. Đàng sau lưng, ông để lại vô số những cái lỗ đã tốn công đào bới. Và bên cạnh mỗi cái lỗ là một chiếc hộp mở nắp ra, bên trong hoàn toàn trống rỗng.
Bức tranh này cho thấy một con người đang đi tìm kiếm mục đích của cuộc đời, nhưng chẳng tìm thấy cái nào mang lại hạnh phúc. Con người luôn đi tìm kiếm điều gì lớn lao và tốt đẹp hơn. Tôi phải có cái này, cái kia, thì cuộc đời mới đầy đủ. Cuộc đời luôn thúc đẩy, lôi kéo con người vào một nhu cầu mới, và chẳng bao giờ có được một giây phút để tận hưởng cái mình đang có.
Bức tranh thứ ba vẽ về một người bị bịt miệng và bị trói vào một cái ghế, với đôi con mắt trợn trừng kinh khiếp nhìn đăm đăm vào một tên cướp đang thu dọn tất cả những đồ đạc có giá trị trong căn phòng của mình.
Bức tranh này chứng tỏ những nỗ lực vô ích của một người tìm kiếm hạnh phúc qua của cải vật chất trong cuộc đời. Sau cùng thần chết sẽ cướp đi tất cả mọi sự.
Bài Phúc âm hôm nay, là những lời chỉ đạo cho các tông đồ khi cuộc đời của họ bước vào một giai đoạn mới: cuộc đời sau cái chết của Chúa Giêsu với bối cảnh thù nghịch từ phía xã hội, trong tâm trạng hoang mang lo sợ của họ. Phải làm sao bây giờ? Đâu là ý nghĩa cuộc đời? Chúa Giêsu đã cho họ những hướng dẫn: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.
Thầy là đường
“Nếu Tin Mừng là mạc khải sự thật rằng đời sống con người là cuộc lữ hành về nhà Cha, thì Tin Mừng cũng đồng thời là tiếng gọi tới đức tin cho phép ta lên đường như những lữ khách. Tin Mừng đòi ta một niềm tin của kẻ lữ hành”.
Gerhard Frost đã dùng một ví dụ như sau: “Hãy tưởng tượng bạn đi bộ ngang qua nhà hàng xóm. Cả gia đình đang chất hành lý lên xe hơi để đi nghỉ hè. Họ có ba người con đều dưới năm tuổi đang ngồi trong xe mini-van nóng lòng chờ ba má hoàn tất mọi sự để lên đường. Bạn bước tới chiếc xe mini-van, thò đầu vào trong cửa sổ và hỏi: “Các cháu sẽ đi đến đâu?” Chúng chẳng biết gì! “Các cháu sẽ lấy xa lộ nào?” “Tối nay, các cháu sẽ ăn cơm ở đâu?” Chúng cũng chẳng biết! Nhưng nếu bạn hỏi: “Các cháu sẽ đi với ai?” Các bé reo lên: “À, với ba mẹ!”
Các em bé không biết chính xác là đi đâu, không biết cả đường đi, cũng không biết sẽ ăn uống ngủ nghỉ ở đâu, nhưng biết chắc chắn rằng mình sẽ đi với ai. Niềm tin tưởng vào ba má là tất cả vấn đề. Ba má sẽ săn sóc, dẫn đưa các bé đi tới nơi tới chốn bình an.
Thiên Chúa cũng không trả lời tất cả các câu hỏi, các chi tiết hay thắc mắc về điều gì sẽ xảy ra, nhưng Người ban cho chúng ta chính Con Một của Người, Đức Giêsu Kitô, vừa là người hướng dẫn, vừa là con đường cho chúng ta đi. “Chúa Giêsu là con Thiên Chúa và cùng bản thể với Chúa Cha. Là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Ngài đã làm người để trở nên con đường dẫn ta về với Cha.
50. Hãy tìm một chỗ trong trái tim Chúa
Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta cơ hội tốt để kiểm tra lại tình hình giáo hội địa phương. Các bài đọc công vụ mùa Phục sinh gây ấn tượng Hội thánh tiên khởi có sự đoàn kết chặt chẽ và vững bền, nhờ đức tin vào Chúa Kitô sống lại. Nhưng thực tế chúng ta không luôn cảm nghiệm như vậy ở các Hội thánh địa phương. Thường xảy ra những tranh cãi lớn nhỏ. Trên bình diện quốc gia và quốc tế cũng vậy, luôn có đe doạ chia rẽ về nhiều vấn đề. Thí dụ, những năm cuối đời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tiếng nói đòi ngài từ chức không phải là hiếm, có những lúc tưởng như đổ vỡ. Hiện nay ở giáo phận tôi phục vụ, các trường công giáo đang là một vấn đề. Kẻ đòi đóng cửa vài trường vì không đủ kinh phí, người khác đề nghị đầu tư thêm. Cuộc tranh cãi có lúc bùng nổ lớn, lan đến các phương tiện truyền thông xã hội. Không hiểu tháng 9 tới đây (mùa khai trường) vụ việc sẽ được quyết định ra sao? Hiện thời thì chưa ngã ngũ. Lại còn việc các giáo sỹ gây gương xấu, trách nhiệm của các vị lãnh đạo giáo phận đến đâu Ai buộc phải từ nhiệm, ai không?
Trước sự lớn mạnh và nhiệt thành của giáo đoàn tiên khởi, hình như sách công vụ tông đồ chỉ chú ý ghi lại phần tích cực, bỏ qua những tiêu cực, cho nên chúng ta nghĩ rằng mình kém cỏi hơn các vị tiền bối trong đức tin. So sánh với Hội thánh tiên khởi, các Giáo hội hiện thời luôn phải đối mặt với nhiều sa sút, chia rẽ. Vì vậy, hình như chúng ta không được “chính thống” như các tín hữu đầu tiên. Đó là cảm nghiệm chung mọi người đều thấy được. Tuy nhiên, bài đọc 1 hôm nay không củng cố quan điểm đó, ngược lại nó cho thấy các tín hữu cũng có những “khó khăn” riêng: Số là khi cộng đồng thêm đông, các tín hữu gốc Do thái nhưng nói tiếng Hy lạp cảm thấy bị thiệt thòi vì các goá phụ của họ không được anh em đồng đạo Do thái chính gốc đối xử cộng bằng. Sách Công vụ kể: “Thời đó các môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do thái theo văn hoá Hy lạp kêu trách những tín hữu Do thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.” Rõ ràng giáo đoàn tín hữu đã gặp sự khác biệt về sắc tộc và bất bình đẳng trong các thành phần cộng đoàn. Dấu chỉ hợp nhất chứng minh Chúa phục sinh đang hiện diện không còn chặt chẽ nữa. Tuy lúc đầu, sách công vụ kể cộng đoàn làm chứng mạnh mẽ Chúa đã phục sinh bằng dấu chỉ họ yêu thương, đoàn kết với nhau khăng khít. Nhưng bây giờ chủ nghĩa thiên tư đã để lộ chân tướng. Họ cố tình bỏ quên những kẻ thấp cổ bé miệng trong cộng đoàn. Đây cũng là thách đố của chúng ta hôm nay. Khi đọc đoạn Kinh Thánh này, chúng ta nên thành thực với ơn Chúa Thánh Thần, loại trừ khỏi tâm hồn thói giả hình giả điệu, dấu diếm những lỗi lầm, làm ra vẻ là môn đệ Chúa, nhưng thực tế lòng đầy gian tham, ghen tỵ và loại trừ lẫn nhau. Hãy noi gương giáo đoàn tiên khởi, giải quyết các khó khăn trong ơn Chúa và sự thật. Duy chỉ sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi chia rẽ. Lấp liếm không phải là cách giải quyết tốt. Cứ như tông đồ công vụ thuật lại thì toàn bộ giáo hữu tụ họp, không thấy kể có ai vắng mặt. Họ cùng bàn bạc và nhất trí chọn ra 12 thanh niên Do thái gốc Hy lạp, đầy Thánh thần. Các tông đồ đặt tay trên họ để thành lập một nhóm riêng, có nhiệm vụ trông coi vật chất cho cộng đoàn. Chẳng bao lâu sau, người ta thấy nhóm này cũng đi rao giảng Lời Chúa như Stêphanô ở Giêrusalem, Philiphê ở Samaria. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính yếu của họ là giúp đỡ các tông đồ, phân phát nhu cầu vật chất cho những người thiếu thốn. Hôm nay trước bàn thờ thánh thể, chúng ta cùng cầu xin cho chúng ta ý thức được nhiệm vụ chính yếu của mình là rao giảng Lời Chúa, săn sóc những người thiếu thốn, yếu đau, bệnh tật và đừng tìm kiếm thanh danh, lợi lộc riêng tư.
Bài Phúc âm trích diễn từ cuối cùng của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly. Bối cảnh là sau biến cố rửa chân, Chúa Giêsu loan báo Giuđa phản bội. Các môn đệ nhìn nhau bối rối, rồi chuyển sang hoang mang về tương lai. Chúa Giêsu trấn an các ông: “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi.” Các tông đồ hoang mang vì khi Chúa ra đi rồi các ông sẽ rơi vào hoàn cảnh như rắn mất đầu, con cái không cha mẹ, đạo binh không tướng lãnh. Họ biết chống đỡ ra sao với các thế lực thù địch, nhất là với quyền bính đền thờ đang tìm cơ hội để tiêu diệt họ? Đúng là họ sẽ gặp nhiều khó khăn nếu vắng bóng Chúa Giêsu giữa họ. Ngày nay cũng vậy, Hội thánh sẽ vô cùng lo sợ nếu Chúa không hiện diện để nâng đờ hằng ngày. Bởi kẻ thù của mình, đứng đầu là Satan, luôn chờ cơ hội để quấy phá và nếu có thể được thì tiêu diệt luôn. Đức Thánh cha, hàng giáo phẩm, những vị có trách nhiệm đều cảm thấy được như vậy. Cho nên, năm 1978, khi vừa đắc cử giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã phải tuyên bố ngay trước giáo dân tại quảng trường thánh Phêrô: “Anh chị em đừng sợ!” Một lời bảo đảm vững chắc nhưng bao hàm tình hình quá ư bấp bênh, đầy nguy hiểm. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ về thái độ của Chúa Giêsu đối với các môn đệ đang sợ sệt. Ngài nói nhiều về Chúa Cha: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”(c 2). Ngài là đường dẫn đến Chúa Cha (c 4). Xem thấy Thầy là xem thấy Cha (c 7). Những lời ngài giảng dạy, các việc ngài làm là của Chúa Cha (c 10). Tất cả những nội dung đó bảo đảm Ngài luôn ở với các môn đệ và Hội thánh. Ngài không để chúng ta một mình bơi qua biển đời trần gian, chống chọi với phong ba bão táp của hoả ngục. Đến đây, xin liên tưởng tới trường hợp của Phêrô đi trên biển vào ban đêm để đến với Ngài (Mt 15, 22), hay mẻ cá lạ lùng sau một đêm làm vịêc luống công (Ga 21, 3).
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” bao hàm nhiều chân lý khác nữa và đối với các môn đệ, chúng hợp thành nền tảng đức tin của họ vào Ngài. Ngài thực sự là con đường để các môn đệ đến với Chúa Cha, thay vì những tục lệ của các lãnh đạo tôn giáo áp đặt trong việc tuân thủ lề luật, thì chỉ cần tin vào Chúa Kitô. Ngài chính là con đường để mọi người được cứu độ. Ngoài Ngài ra không có con đường nào khác nữa. Tin vào Chúa Giêsu, chúng ta được hưởng tràn đầy thánh nhan Thiên Chúa. (Tôi và Cha tôi là một). Ai thấy Chúa Con thì cũng thấy Chúa Cha (Ga 6, 16). Ngoài ra, Ngài là con đường yêu thương đưa đến sự sống. Cho nên, muốn học biết yêu thương thì phải học với Ngài, chứ không bày ra những tưởng tượng rồi gọi đó là yêu thương. Yêu mến Chúa Giêsu là tuân giữ các giới răn của Ngài. Yêu thương nhân loại là làm gương lành gương sáng cho họ, lôi kéo họ về với tình thương của Thiên Chúa. Như vậy, Ngài đích thực là con đường chúng ta tin cậy. Con đường duy nhất mặc khải cho chúng ta biết về bản tính Thiên Chúa. Chúng ta vững lòng tin theo khi Ngài rao giảng về lòng thương xót của Thiên Chúa, về sự tha thứ Người ban cho những linh hồn sám hồn. Nếu ai đó rêu rao về một Thiên Chúa trả thù, oán giận, hằn học, chúng ta có thể bỏ ngoài tai. Chúa Giêsu chính là chân lý về Chúa Cha. Sống theo như Ngài đã sống dẫn đưa nhân loại đến thể hiện hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa. Do đó, nếu chúng ta mường tượng ra một lối sống khác, kỳ quặc thì đấy là lối sống của ma quỷ. Tai hại thay, thiên hạ thường cỗ võ lối sống này, rồi hô là văn minh, hợp thời đại, không bị tụt hậu, hay nói nhẹ nhàng hơn “nhân bản”. Tôi nhớ cha Bernard Pro O.P. phát biểu một câu chí lý: “Dieu seul est humain - Chỉ một mình Đức Chúa là nhân bản”, còn loài người dù sống tốt thế nào đi nữa cũng vương mùi tục luỵ. Cho nên, đừng kiêu ngạo, tự hào mình “nhân bản” hơn Thiên Chúa. Con đường của Chúa là nhân bản tối thượng.
Chúng ta không có khả năng tự thân sống theo cuộc sống của Chúa Giêsu, cũng chẳng tự sức lấy Ngài làm gương mẫu. Đúng hơn, Ngài là “sự sống” của mỗi người. Chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào ơn Ngài để có thể sống như Ngài. Đây là chân lý nền tảng của cuộc đời tinh thần. Chúng ta phải ghi nhớ luôn, kẻo sai lầm, sống theo khả năng riêng, xa rời giới răn của Chúa Giêsu. Từ đó, sinh ra tự phụ về đàng thiêng liêng. Chúa Giêsu là nguyên lý của sự sống siêu nhiên, chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để có thể sống tốt. Ngoài ơn Ngài ra là sống sai lầm. Sống buông thả theo dục vọng của mình thì thế nào gọi là có ơn Chúa hướng dẫn? Khi Ngài tuyên bố với các môn đệ: “Thầy về cùng Thiên Chúa Cha” tức thời các môn đệ nhớ lại lời hứa của Ngài là Ngài sẽ trở lại mang họ cùng đi với Ngài: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, Thầy đi dọn chỗ cho anh em và Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy.” Trong khi chờ đợi Chúa thực hiện chân lý đó, chúng ta cần cầu xin Thần khí của Ngài gìn giữ mình trung thành với ơn nghĩa Chúa. Lễ Ngũ tuần đã gần kề, nhớ lại biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống chan hoà trên Giáo hội tiên khởi, chúng ta cũng mong ước biến cố này còn tiếp tục xảy ra trong hội thánh ngày nay, để Thần khí Chúa thúc đẩy mỗi tín hữu, ban cho mỗi người khả năng sống thánh thiện theo đời sống Chúa Kitô.
Trong các trường phổ thông cơ sở công giáo, đôi khi người ta tổ chức ngày họp mặt các cựu học sinh. Thường thì vài năm một lần. Đúng là một truyền thống tốt đẹp, đáng ghi nhớ. Mỗi lớp sẽ gửi thiếp mời đến các học sinh cũ của nhà trường, chỉ định ngày giờ. Mọi người hồi hộp đợi ngày trở về tổ ấm (homecoming), gồm cả những nhân vật thành đạt trên trường đời như tổng thống, thương gia, nghĩ sĩ, nghị viện, không loại trừ vô danh tiểu tốt. Trong thánh lễ tạ ơn, người ta chọn đọc bài phúc âm hôm nay. Đó là một chọn lựa khôn ngoan, bởi lẽ Chúa Giêsu tuyên bố Ngài đi là để dọn chỗ cho các môn đệ và Ngài sẽ trở lại mang họ theo. Phải chăng đây không phải là một sự trở về tổ ấm thực sự hay sao? Ý nghĩa thật sâu sắc! Những học sinh đã rời nhà trường tản lạc đi khắp ngả đông tây để kiếm sống, danh vọng, địa vị, tiền tài. Bao nhiêu thời giờ, nghị lực, tham vọng đã bỏ ra cùng muôn nỗi nhớ nhung ngôi trường cũ, bạn bè xưa. Nay được trở về sum hợp, đúng là cơ hội mừng vui. Những mối giàng buộc thân tình ngày xưa lại được làm cho sống lại. Ai nấy đều cảm thấy hạnh phúc, tạm thời gạt bỏ những khó nhọc vì công việc hằng ngày.
Có điều gì đó liên quan đến lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống” cho những cựu sinh viên, và cho toàn thể tín hữu, khi mà việc trở về họp mặt với Chúa Giêsu trong vương quốc ân sủng, trong hạnh phúc tuyệt vời. Bởi Ngài chính là tổ ấm của chúng ta. Những linh hồn đón nhận Ngài đều cảm nhận nơi Ngài có nhiều chỗ ở, không phải đợi tới đời sau mới được, mà ngay từ đời này. Chính cuộc sống của Ngài là địa chỉ họp mặt của tất cả chúng ta. Khi Ngài đồng bàn với các môn đệ không thấy đặt bảng hiệu chỉ rõ chỗ ngồi cho những chức sắc hay vị trí của những kẻ thân cận tri kỷ. Mọi người đều bình đẳng, không phân biệt nghèo khó, sang giàu, người thu thuế hay thợ chài lưới, Phêrô hay Gioan. Ngược lại, Ngài cung cấp chỗ nghỉ ngơi cho những ai gồng gánh nặng nề, ủi an những linh hồn đau khổ, phiền muộn. Tất cả đều được danh dự trước mặt Ngài, tìm thấy sự ấm cúng trong trái tim Ngài và được Cha Ngài yêu thương. Chẳng lạ gì mọi người dù tội lỗi đến đâu cũng được Ngài tiếp đón. Khi rao giảng Ngài luôn ban phát ơn lành cho những linh hồn gặp Ngài. Thí dụ, các phụ nữ nơi công cộng, Ngài chấp nhận họ như những môn đệ của mình, điều mà các thầy thông luật, các biệt phái từ chối. Nếu họ là những tội nhân, những người bị thần ô uế ám hại, các kẻ bị loại trừ vì lý do tôn giáo, các thân phận ngoài lề xã hội, chắc chắn họ tìm thấy nơi nương ẩn nơi lòng thương xót của Ngài, vì Ngài giải thích lề luật theo căn bản của nó, chứ không đặt thêm gánh nặng trên vai người có lỗi bằng các tập tục, các thói lệ của đời xưa, xa lìa ý định Thiên Chúa. Ngài là sự hiện diện của Thiên Chúa trước mặt các tội nhân. Vì vậy, người trộm lành được một nơi cư ngụ tốt đẹp trên thiên đàng. Chị phụ nữ ngoại tình được ơn tha thứ và bình an. Ngài ngỏ lời với tất cả các linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa: “Chúc mừng cuộc trở về tổ ấm nhà ta.”
Đúng vậy, Chúa Giêsu cung cấp mái ấm cho những ai lắng nghe và chấp nhận lời Thiên Chúa. Nội dung được gói ghém trong tuyên bố: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống”. Bất cứ những ai chấp nhận Ngài như vậy đều tìm thấy nơi cư ngụ trong trái tim Thiên Chúa, không sợ bị loại bỏ ra ngoài. Hãy để những thứ phù phiếm trôi vào quá khứ. Những tội lỗi, tham vọng, gánh nặng vào hư vô. Bởi chúng ta là con Thiên Chúa, chúng ta có thể cảm nghiệm Ngài như cha mẹ và Ngài ra đi để dọn chỗ cho chúng ta. Đức tin vào Chúa Giêsu như vậy là nơi cư ngụ của nhân loại. Ngài ban khả năng cho chúng ta sống tốt, làm điều thiện hảo. Nhờ đó, những kẻ còn ở xa có thể tìm thấy nơi ở vững bền. Những người yếu kém về kinh tế, xã hội tìm được sự nâng đỡ thăng tiến. Hôm nay, trước bàn thờ Thánh thể, buổi phụng vụ của chúng ta đúng lý phải là nơi cư ngụ quen thuộc cho hết thảy mọi người, thường xuyên dự lễ hay khô khan nguội lạnh. Nhưng thực tế không được như vậy. Có những kẻ còn bị loại trừ như di dân, ly dị, đồng tính luyến ái, con hoang, xì ke, ma tuý, trộm cướp, v. v. Chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người tìm thấy chỗ ở trong trái tim Chúa. Xin Ngài củng cố chúng ta trong các hoạt động bác ái ngõ hầu Hội thánh, thế giới này trở thành mái ấm cho mọi linh hồn, không phân biệt già trẻ, trai gái, sắc tộc, trình độ, sang hèn. Chúng ta đợi trông Chúa Thánh Thần đổi mới mọi sự để trái đất này thực sự là mái ấm cho loài người cư ngụ. Bởi vì tự thân chúng ta chẳng thể thực hiện được ước mơ đó. Amen.
51. Chú giải của Noel Quession.
Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến".
Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30); rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36). Sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người "ba lần" trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga13,37-38). Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ. Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta. Một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp. Bao lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.
Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: "Lòng anh em đừng xao xuyến!” Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa về bất cứ điều gì.
"Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".
Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân Người một thái độ đđc tin mâ người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA, Hãy tin vào THẦY” Vậy thì Người là ai để nói như thế?
"Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em".
Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác; và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy, Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình; Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.
Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ…
Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.
Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: "Đem về với Thầy, trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng rất thân thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.
"Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".
Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó". Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính "đời sống thánh thiêng" được ban cho chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành "như Thiên Chúa". Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!".
“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi". Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.
Đây là một điệp khúc: "Thầy đi”, “chúng con không biết Thầy đi đâu...". Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?
Đức Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.
Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là "người mở đường", Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về "nhà của Chúa Cha".
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”.
Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự "mạc khải” này vẫn còn một phần "không thể quan niệm được": ánh sáng... nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối... ánh sáng của đức tin.
Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)... bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).
Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: “chúng con không biết...". Tình cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một "cú sốc của tương lai" đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: "Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?". Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tương lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người" (Kh 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? Tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu, trong Đức Giêsu Kitô.
Ông Philípphê nói: ' Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.
Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây dường như Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người "chứa đầy Thiên Chúa" một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: "Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy... Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy...".
Phải, đâu có một con người là Giêsu Na-da-rét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người; một người sắp chết như mọi người; và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó... đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.
Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời.
Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người "làm những việc Đức Giêsu làm": Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.
52. Con đường Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Có một tác giả đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau: Tại một vùng quê nọ bên Tây Phương, một ông từ coi nhà thờ có thói quen mỗi ngày cứ 15 phút trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến người phụ trách tổng đài trong vùng và hỏi giờ. Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã hỏi lại: "Thưa ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin ông cho biết lý do tại sao ông hỏi như thế mỗi ngày?". Ông từ nhà thờ giải thích: "Thưa ông, có gì đâu, tôi là người có trách nhiệm phải kéo chuông mỗi ngày vào đúng giờ ngọ. Tôi cần hỏi giờ chính xác thôi". Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra, ông nói với ông từ nhà thờ: "Thật là buồn cười, trong khi ông điện thoại đến hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi là người điều chỉnh đồng hồ của tôi theo tiếng chuông của ông".
Tác giả của câu chuyện trên kết luận: "Cuộc sống quả là bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm ra được câu trả lời". Chúng ta cần có một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, và người có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, chủ tể của sự sống. Kinh Thánh, lời của Ngài, thường ví cuộc sống như một cuộc hành trình. Từ lúc Nô-ê xuống tàu, Ap-ra-ham cất bước ra đi vào vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Đức Maria, và cả cuộc đời không ngừng di động của Chúa Giêsu. Tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình trong đức tin của người Kitô hữu.
Đời người là cuộc hành trình, ra khỏi lòng mẹ là nhập cuộc và ra đi không ngừng: tuổi trẻ và thanh niên được dệt đầy những năng động để không ngừng dự phóng và sáng tác. Tuổi trung niên thành công tràn ngập, nhưng thất bại cũng giăng đầy những lối đi: có những người bạn chợt đến rồi đi, vui tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm. Rồi tuổi già đến, chúng ta nhận ra rằng: tất cả trên đời này chỉ là tạm bợ.
Đời là một hành trình, Đức Kitô đã trải qua đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình: Sinh ra trong một cuộc hành trình, và mở mắt chào đời để phải vội vã ra đi như một người tị nạn, năm 12 tuổi, lạc mất trong một cuộc hành trình, trong cuộc sống công khai, Ngài không ngừng đi lại khắp nẻo đường Pa-lét-tin, và cuối cùng Giêrusalem, đồi Can-vê là điểm đến của cuộc hành trình. Qua cuộc hành trình không ngừng nghỉ ấy, Đức Kitô đã tuyên bố: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống", nghĩa là ai tin Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình. Ngài là con đường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang.
Thực vậy, trên thế giới không thiếu những con đường nổi tiếng, nhưng có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là con đường mang tên Giêsu. Đúng vậy, đối với chúng ta, chỉ có một con đường duy nhất để được cứu độ, để đạt tới cuộc sống bất diệt và hạnh phúc vĩnh cửu, tên gọi của con đường ấy là Giêsu.
Đi trên đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Đi trên đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ giữa lòng đời. Đi trên đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường của yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.
Vì hoàn cảnh, ơn gọi mỗi người thường khác nhau, không phải ai cũng thích hợp với ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ. Nhưng một điều chắc chắn mà có lẽ ít khi chúng ta nghĩ tới, đó là tất cả chúng ta đều được Chúa kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Chúa Giêsu đã sống ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa của Ngài một cách tuyệt đối hoàn hảo và đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho chúng ta. Vì thế, Chúa bảo chúng ta hãy đi theo con đường của Ngài trong suốt hành trình của cuộc sống. Với Chúa, chúng ta sẽ không cảm thấy cô đơn. Chúng ta sẽ mệt mỏi, nhưng không kiệt quệ. Chúng ta sẽ khổ đau, nhưng không thất vọng. Chúng ta sẽ chán nản, nhưng không bị bỏ rơi. Chúng ta kiếm tìm hạnh phúc, và chúng ta sẽ đạt được.
Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam