Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 67
Tổng truy cập: 1365653
HÃY YÊU KẺ THÙ
Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.
Điều hoàn toàn mới mẻ của Tin Mừng nằm trong các lệnh truyền mà Đức Giêsu ban cho những người chấp –nhận lắng nghe người. Đặc tính của đạo Đức Kitô giáo không chỉ là yêu thương bởi vì mọi đạo Đức của cqn người đều đòi hỏi điều đó mà là yêu “kẻ thù của chúng ta”. Đây là một tình yêu thương phổ quát không loại trừ một ai.
Từ “kẻ thù mà Đức Giêsu sử dụng là một từ rất mạnh có nguy cơ bị hiểu sai. Người ta thoáng nghe nói “Tôi không có kẻ thừ’. Vả lại Đức Giêsu đã cẩn thận đưa ra các ví dụ không hạn chế về kẻ thù: Những ai ghét tôi… những ai nói xấu tôi… những ai vu khống tôi… Và để nắm hết mọi tâm mức của đạo đức Tin Mừng, chúng ta phải hiện thực hóa từ ngữ “kẻ thù”.
Trên bình diện cá nhân: Đức Giêsu đòi tôi phải yêu thương những ai phê bình tôi… những ai chọc tức tôi… những ai không đồng ý với tôi… những ai công kích tôi bằng mọi cách suy nghĩ, phục sức, cầu nguyện, bỏ phiếu của họ…
Trên bình diện của nhóm và môi trường tôi sống: Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người yêu mến những ai là kẻ thù của nhóm các môn đệ, những người bách hại, những người chống đối, những hạng người và nhóm người không suy nghĩ như tôi.
Quả là một cuộc cách mạng to lớn trên thế giới, nếu mỗi Kitô hữu bắt đầu thực hiện thật sự điều Đức Giêsu đã nói chúng ta phải làm!
Trước khi đi xa hơn trong bài đọc và suy niệm của tôi tôi dừng lại một lúc để đặt những cái tên và những khuôn mặt vào những lời này của Tin Mừng và để cầu mong điều tốt lành, để cầu nguyện thật sự… cho họ.
Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại.
Sau những thái độ “nội tâm”, luôn luôn đứng đầu trong quan điểm của Đức Giêsu, giờ đây là những thái độ bên ngoài” và là hậu quả cụ thể của thái độ nội tâm. Lòng yêu thương kẻ thù phải đi đến những hành động tích cực đối với họ.
Nhưng cùng với những nhà chú giải, chúng ta hãy quan niệm rằng Đức Giêsu không ban bố một luật pháp gồm bốn điểm về “cái và”, “áo ngoài”, “sự: xin xỏ”, sự “lấy trộm”… Thật vậy, ở đây chúng ta có những ví dụ nhằm minh họa một cách hành động hoàn toàn mới. Những ví dụ này cố tình nghịch lý và dễ nhớ. Người ta sẽ chứng tỏ mình thiếu ý thức về sự chú giải Kinh Thánh và đơn giản là thiếu lương tri khi giải thích theo mặt chữ và theo đường lối chính thống những lời ấy của ngôn ngữ ‘Do Thái, như thể thật sự phải đưa má trái cho người đã vả má phải của bạn.
Ví dụ mà Đức Giêsu dùng ở đây liên quan đến cùng một loại nghịch lý như khi Người nói phải móc mắt mình hoặc chặt tay mình (Mt 5,29-30). Trong thực hành, những cách hành động ấy sẽ hoàn toàn vô ích. Mắt bị móc không bảo vệ người ta tránh khỏi một sự vấp phạm khác. Cái vả thứ hai cũng không ngăn cản được cái vả thứ ba và còn lâu mới làm cho kẻ ác có những tình cảm tốt lành hơn! Chính Đức Giêsu sẽ cho lời giải thích tốt nhất về câu nói của Người khi Người không đưa má kia cho người thuộc hạ đã vả Người trước mặt’ thượng Tế: “Nếu, tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23).
Nhưng nếu chúng ta phải tìm cho mình những thái độ tương ứng với những công kích mà chúng ta phải chịu, không nên vì thế làm giảm nhẹ yêu sách của Tin Mừng. Thật vậy nếu Đức Giêsu đã không “giơ má kia ra”. Người đã đi xa hơn nhiều: Người đã để Người ta đánh đòn Người đến đổ máu, Người đã hiến hoàn toàn thân xác cho những kẻ đánh đập Người… “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Isaia 50,6). Các “gương ấy ở trong Kinh Thánh. Và Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta điều gì mà Người đã không làm trước.
Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.
Đây chính là điều mà người ta gọi là “quy luật vàng”. Một trong các nguyên tắc sơ đẳng của mọi nền đạo đức.
Thầy Hillel, cùng thời với Đức Giêsu đã nói: “Anh không thích điều gì, chớ làm điều đó cho người thân cận”. Và các triết gia khắc kỷ đã nói tương tự: “Điều gì anh không muốn người ta làm cho mình, anh đừng làm cho ai khác”. Nhưng chúng ta nhận thấy rằng chính Đức Giêsu đem lại cho luật ấy một hình thức tích cực. Phải làm mọi điều tốt lành có thể làm được cho người thân cận… dù với kẻ thù.
Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa. Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy đọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả.
Là những Kitô hữu, những môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không tốt hớn những người khác… Tuy nhiên, rõ ràng Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta khác những người khác. Sự khác nhau ấy là gì? Điều gì phải là đặc tính của một Kitô hữu? Đó là “yêu thương những người không yêu thương chúng ta”. Tư tưởng sâu sắc của Đức Giêsu là tình yêu thương của chúng ta phải được giải phóng khối mới cộng đồng tự nhiên của chúng ta: Gia đình, môi -trường, quốc gia, nòi giống của chúng ta. Giữa những người giống nhau, sự liên đới là tự nhiên, tự phát. Phải dám nói điều này: sự liên đới không phải là một sự thiện tự thân; ngay cả những “người tội lỗi”, những người độc ác, những kẻ áp bức, ích kẻ… có thể sống với nhau bằng sự liên đới rất vụ lợi hoàn toàn hướng về lợi lộc và chống lại những người khác. Hỡi ôi! đâu phải vì tính ích kỷ trở thành tập thể mà nó sẽ ít nguy hiểm hơn.
Tình yêu thương của Kitô giáo là một. tình yêu thương không biên giới, không giới hạn.
Nhân đây, chúng ta hãy ghi nhận bằng cách nào mà Luca muốn làm cho người nghe ngài tức là dân ngoại hiểu được nên đã thay đổi câu nói của Đức Giêsu mà Mát-thêu thuật lại trong bản văn bang tiếng Do Thái: “Ngay cả người ngoại cũng chặng làm như thế sao?”. (Mt 5.47). Luca đã thay bằng từ “người tội lỗi”. Và biến đổi lối nói “nghi vấn” thành lối nói “khẳng định”: “Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế” (Lc 6,33)Vì thế, Sự khẳng định của Đức Giêsu trở nên hoàn toàn rõ ràng, và áp dụng cho tất cả mọi người!
Cũng thế, trong đoạn văn song song, Mátthêu không nói, về việc “cho vay”. ‘Còn Lu ca không bao giờ bỏ mất cơ hội. Rồi về “tiền bạc”. Đối với ngài, trong toàn bộ Tin Mừng của mình, việc chia sẻ của cải là dấu chỉ thật sự, rõ ràng của Tình yêu thương. Và chúng ta phải thừa nhận rằng quả thật cho tiền bạc của mình cũng khó như yêu thương các kẻ thù của mình!
Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là còn Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.
Những lời này nhấn mạnh nhân tính thông thường chỉ ở mức trung bình, cách xa dự án của Thiên Chúa biết bao… Và Thần Khí, Vương quyền của Thiên Chúa phải chiếm lĩnh chúng ta từ bên trong để biến đổi chúng ta. Cho đến thời Đức Giêsu, nhân loại đã dùng bạo lực để trả đũa bạo lực. Và, ngay cả trong Kinh Thánh, phải gây ra thánh chiến để tiêu diệt, đập tan kẻ thù, dùng tôn giáo để loại trừ những kẻ thủ của Thiên Chúa! (Đệ nhị luật 7, 1-6-20,10-18 – 25,19; Giosuê 6,17; Dân số 21,2; 1 Samuen 15,18). Cho đến thời Đức Giêsu, và ngay cả trong Kinh Thánh người ta cầu nguyện chống lại các kẻ thù (Tv 17,13; Tv 28,4 – 69,23-29; v.v…). Từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta phải “cầu nguyện cho họ “.
Và lý tưởng đề ra sẽ không là gì cả nếu không có Thiên Chúa, chính Thiên Chúa… một lý tưởng phải không ngừng đạt đến và không có giới hạn, Lời nói ấy làm người ta ngạc nhiên! Con người yêu mến kẻ thù sẽ nhận một phần thưởng: Sẽ là “con của Đấng Tối Cao” và rõ ràng là danh hiệu này là danh hiệu đã ban cho Đức Giêsu trong ngày đức Maria!được truyền tin! (Lc 1,32). Ơn làm con Thiên Chúa được ban cho người nào “kiến tạo hòa hình” (Mt 5,9). Yêu thương kẻ thù chúng ta là việc siêu phàm… thánh thiêng! Đó là điều mà Thiên Chúa không những làm… vì Người vẫn” nhân hậu với cả phường vô ân – và quân độc ác” , như lời Đức Giêsu đã bày tỏ.
Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị ‘Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em dấu đủ lượng đã dằn, đủ lực và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.
Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta bản tính thâm sâu của Chúa Cha: Người nhân hậu và yêu thương đến tận cùng. Người ta sẽ không bao giờ nói lại điều đó cho đủ: Thiên Chúa không phán xét ai, Thiên Chúa không kết tội ai, Thiên Chúa tha thứ cho tất cả các kẻ tội lỗi. Và Người yêu cầu chúng ta bắt chước Người. Và Người còn đi đến chỗ nói với chúng ta rằng sự phán xét của riêng chúng ta có thể nói được trả v~ trong tay chúng ta: “Đó là… anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy… xin tha tội cho chúng con như chúng con lòng tha…”.
Điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa chấp nhận sự ác! Không có gì giống nhau, và sẽ không bao giờ có gì giống nhau giữa Thiên Chúa và sự bất công, sự hành hạ, độc ác hèn hạ, ích kỷ. Và những người nào làm những việc như thế sẽ không có phần với Người”. Những kẻ bất hạnh khốn nạn ấy tự mình làm hại mình, tự mình lên án mình khi ngoan cố từ chối sự tha thứ của người. Và Thiên Chúa sẽ khóc với những giọt lệ đời đời (đó là thập giá! ) trên những ai từ chối yêu mến Người. Hoả ngục, đó là mặt trái của Thiên Chúa, và không do Thiên Chúa tạo ra. Chính Thiên Chúa, chỉ là lòng nhân hậu. Còn bạn, bạn đã ở về phía Thiên Chúa chưa?
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
PHẢI CÓ LÒNG NHÂN TỪ(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VII Thường Niên năm C mời gọi chúng ta phải thương yêu hết mọi người, ngay cả kẻ thù nữa.
1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23:
Đa-vít có cơ hội thuận tiện để giết vua Sa-un, kẻ đã truy sát mình, nhưng Đa-vít đã tha chết cho vua bởi vì ông tin làm như thế là chống lại với người được Thiên Chúa xức dầu tấn phong.
1Cr 15: 45-49:
Thánh Phao-lô so sánh A-đam với Đức Ki-tô. Nhờ A-đam, chúng ta được sự sống tự nhiên; nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng.
Lc 6: 27-38:
Đức Giê-su nhấn mạnh đến bổn phận yêu thương kẻ thù và những trách nhiệm của đức ái huynh đệ.
BÀI ĐỌC I (1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23)
Sách Sa-mu-en quyển một là một tác phẩm quan trọng đặc biệt vì sách ghi lại bước ngoặc “lịch sử” đã dẫn đưa dân Ít-ra-en lần từng bước từ “thể chế các thủ lãnh” sang “thể chế các vua”. Ba vĩ nhân thống trị tất cả mọi biến cố của giai đoạn lịch sử này là ngôn sứ Sa-mu-en, vua Sa-un và vua Đa-vít.
Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất:
Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất trong toàn bộ lịch sử Ít-ra-en. Ông có tất cả những nét quyến rũ của những anh hùng huyền thoại. Ông khôi ngô tuấn tú: “Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn” (1Sm 16: 12); nghệ sĩ đàn hạc (1Sm 16: 16, 23); dũng cảm đến độ liều lĩnh (1Sm 17: 34-36, 40t; 18: 6-9, 26-27); không biết mệt mõi, hiếu động, nhất là sau khi đã phải trốn chạy khỏi triều đình Sa-un, ông sống cuộc sống phiêu bạt rày đây mai đó (1Sm 21-30).
Đa-vít có tấm lòng khoan dung nhân từ:
Sách Sa-mu-en quyển một kể cho chúng ta một trong những câu chuyện Đa-vít phải rời bỏ triều đình vua Sa-un mà trốn chạy khỏi sự truy sát của vua Sa-un. Vua Sa-un dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng bắt Đa-vít. Một đêm, vua Sa-un ngủ mê miệt trong trại thì Đa-vít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đa-vít thấy đây là một dịp may hiếm có nên xúi Đa-vít giết chết vua Sa-un. Nhưng Đa-vít không nghe theo. Ông chỉ lấy cây giáo của Sa-un rồi sang phía bên kia hô lớn bảo vua Sa-un thức dậy cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Sa-un cảm động và phải thừa nhận Đa-vít là người sau này sẽ hoàn thành nghiệp lớn.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 45-49)
Nhờ A-đam, chúng ta có được sự sống tự nhiên:
Một lần nữa thánh Phao-lô chú ý đến A-đam (x. 15: 22-23). Cách thức chúng ta sống hiện nay, bản chất hiện nay, hình dáng, vẻ bên ngoài của chúng ta (“thân thể” của chúng ta) được tạo dựng theo khuôn mẫu của A-đam. Chúng ta được tạo nên hình thể từ đất nhưng chúng ta sống nhờ hơi thở mà Thiên Chúa thổi vào chúng ta. Chúng ta là một “sinh linh” (St 2: 7); chúng ta là một “thân thể có sinh khí” (1Cr 15: 44). Thân thể này có những đặc tính của một thân thể địa giới: kiếp sống phàm nhân phải chết, hèn hạ và yếu đuối (15: 42-43). Chúng ta ghi nhận rằng ở dây thánh Phao-lô trở lại quan điểm Kinh Thánh cựu trào hơn, khi nối kết cái chết với thân phận con người chứ không với tội lỗi.
Nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng:
Trái lại, nhờ Đức Ki-tô phục sinh, người Ki-tô hữu có được sự sống thần thiêng (15: 45). Thân thể của Ngài từ “trời mà đến” (15: 40), chứ không từ đất mà ra, vì thế là “thân thể có thần khí” (15: 44). Thân thể sống lại của chúng ta sẽ không là thân thể có sinh khí, nhưng thân thể có mối liên hệ với Thần Khí Thiên Chúa. Thân thể chúng ta sẽ không giống như mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, nhưng giống như thân thể của Đức Ki-tô phục sinh (15: 49), vì chúng ta được thông phần sự sống của Ngài.
Khi gọi Đức Ki-tô là “A-đam cuối cùng” (15: 45), thánh Phao-lô công bố rằng Ngài là người đầu tiên khai mở mục đích tối hậu của lịch sử. Thánh nhân cũng công bố rằng A-đam đầu tiên dự kiến A-đam sau cùng: con người, như mục đích tự nhiên của mình, phải mang hình ảnh của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Lc 6: 27-38)
Tin Mừng hôm nay áp dụng “Các Mối Phúc và các Mối Họa” của Tin Mừng tuần trước vào cuộc sống cụ thể của con người. Tin Mừng bắt đầu với lời của Đức Giê-su: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây” (6: 27) nhắc nhớ đến đám thính giả vây quanh Đức Giê-su để nghe Người giảng dạy và để được chữa lành bệnh tật (6: 17-19).
Yêu thương kẻ thù (6: 27-35):
Sau các Mối Phúc ngỏ lời với những người bị đè bẹp trong cuộc sống và các Mối Họa được gởi đến cho những người chỉ coi sự giàu sang phú quý như cứu cánh cuộc đời mình, thì phần này mở ra và đóng lại với huấn lệnh “hãy yêu thương kẻ thù” (6: 27 và 6: 35). Những kẻ thù ở đây được nhận dạng qua những hành vi họ làm: “nguyền rủa anh em” và “vu khống anh em” (6: 28), đó là những kẻ bách hại các Ki-tô hữu đã được nói đến ở Mối Phúc thứ tư (6: 22).
Ở trung tâm của phân đoạn này là luật vàng: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (6: 31). Luật này được giải thích bởi những huấn lệnh vây quanh, trước hết những huấn lệnh thuộc thể truyền lệnh ở ngôi thứ hai số ít: “Anh” (6: 29-30) và sau đó những mệnh lệnh thuộc thể điều kiện ở ngôi thứ hai số nhiều: “Anh em” (6: 32-34). Hình ảnh đưa cả má bên kia cho người ta tát và trao luôn cả áo trong cho kẻ khác, xin thì cho, lấy thì đừng đòi lại, đó là một thái độ bất bạo động không tìm cách chống cự lại kẻ ác. Để ý đến việc chuyển từ ngôi thứ hai số ít sang ngôi thứ hai số nhiều gợi lên sự vượt quá tương quan liên bản vị. Như thế luật vàng được trình bày một cách tích cực: tính hỗ tương mà luật này phải dựa vào: làm cho người khác điều thiện mà mình muốn người khác làm cho mình được xác định trong các câu 29-30, ngay cả vượt qua trong các câu 32-34. Thực vậy, ba câu hỏi nhắc lại rằng chỉ có việc không tính toán, không cho để được cho lại, hoàn toàn vô vị lợi mới phân biệt cách ăn nếp ở của người tín hữu với cách ăn nếp ở của những người tội lỗi, những người này cũng biết nhân ái đối với những ai đối xử với họ như vậy. Trong phân đoạn này, thính giả được mời gọi hằng ngày phải vượt qua chính mình, phải sáng tạo để “làm điều thiện” cho tha nhân, nhất là cho những kẻ không muốn làm điều thiện cho mình.
Tất cả những thực hành trên phải được hiểu theo quan điểm của cặp đóng khung (6: 27 và 35): lòng yêu thương đối với kẻ thù được đòi hỏi cách triệt để ở đây. Những thực hành như thế không mong được đền ơn đáp nghĩa nào trên bình diện con người; nếu có đó chỉ là phần được ban mà thôi. Người tín hữu chỉ trông chờ lời đáp của Thiên Chúa. Đáp lại ba hành vi phục vụ người khác (6: 35a) là phần thưởng đến từ Thiên Chúa (6: 35b). Ở đây cũng như Mt 5: 9, 45, chính trên cơ sở những tương quan liên vị mà người tín hữu được đồng hóa với Đấng là Con duy nhất của Thiên Chúa. “Ở nơi việc yêu thương kẻ thù chiếu sáng trong chúng ta họa ảnh của Thiên Chúa, Cha chúng ta, Ngài, qua cái chết của Con của Ngài, đã chuộc lại khỏi sự hư mất đời đời và hòa giải với Ngài nòi giống con người, trước đây vốn đã không thân thiện và thù ghét Ngài” (St Pius V Catechism, IV, 14, 19).
Phải có lòng nhân từ (6: 36-38)
Lời mời gọi của Đức Giê-su: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, là câu then chốt của đoạn Tin Mừng này, tức lả “bắt chước Thiên Chúa”, như Fray Luis giải thích: “Phẩm chất đầu tiên của nhân đức này chính là nó làm cho con người nên giống Thiên Chúa và giống đức tính vinh quang nhất ở nơi Người, lòng từ bi nhận hậu của Ngài (Lc 6: 36). Vì chắc chắn sự hoàn thiện bậc nhất một thọ tạo có thể có là phải nên giống Đấng Tạo Hóa của mình; và càng nên giống Người, càng nên hoàn thiện” (Book of Prayer and Meditation, third part, third treatise).
Khuôn mẫu của lòng nhân từ mà Đức Giê-su phô bày trước chúng ta là chính Thiên Chúa, Đấng mà thánh Phao-lô nói về Người: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn năng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2Cr 1: 3-4). Đức Pi-ô X dạy rằng “Đây là luật mà một người Ki-tô hữu phải áp dụng: phải có lòng nhân từ đối với những ai lâm cảnh gian nan khốn khó như thử chính chúng ta, và cố gắng chữa trị họ. Giáo Hội công bố luật này khi cho chúng ta một loạt những công việc vật chất đầy lòng nhân ái như thăm viếng và săn sóc bệnh nhân, cho người đói khát của ăn thức uống… và những công việc tinh thần đầy lòng nhân ái như dạy những người thất học, sửa lỗi người bị lầm lạc, tha thứ những xúc phạm…”(Catechism, 944t.).
Như vậy, những câu 37-38 cũng minh họa điều mà lòng nhân ái phát sinh. Bằng bốn ý tưởng: hai câu phủ định: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án”, và hai câu khẳng định: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại”, Chúa Giê-su kêu gọi đừng phê phán người khác, đừng giam hãm người ta mãi mãi theo cách đánh giá chắc chắn như đinh đóng cột. Người tín hữu không có thể thay thế Thiên Chúa để lên án người khác, cũng không muốn người khác đối xử với mình như vậy, đấy là công việc của một mình Thiên Chúa mà thôi: rốt cuộc chính Ngài sẽ xét xử, sẽ lên án hay tha thứ, sẽ ban ơn dư dật. Cách hành xử của tôi đối với người khác như thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ cư xử với tôi như vậy.
Chúng ta đã đọc trong Kinh Thánh chuyện tích bà góa xứ Xa-rếp-ta, bà mà Thiên Chúa đã truyền nuôi ngôn sứ Ê-li-a thậm chí dù chỉ với một nắm bột còn lại trong hũ và chút dầu còn lại trong vò. Ấy vậy, Người đã thưởng cho tấm lòng quảng đại của bà với một hũ bột không vơi và vò dầu không cạn (1V 17: 9tt.). Sự việc cũng đã xảy ra như thế khi một cậu bé đã sẵn lòng dâng hiến năm chiếc lúa mạch và hai con cá cho Đức Giê-su mà Người hóa nhiều để nuôi một đám đông dân chúng (x. Ga 6: 9). Đây là hai ví dụ sống động về điều Thiên Chúa làm khi chúng ta cho Ngài điều chúng ta có, ngay cả nếu quà tặng của chúng ta chẳng là bao nhiêu. Thiên Chúa không để cho ai đó vượt qua mình về tấm lòng quảng đại: “Hãy đến với Người với lòng quảng đại và hỏi Người như trẻ thơ: Còn gì mà Chúa không cho con khi Chúa đã đòi con ‘điều này’?” (Bl. J. Escriva, Con Đường, 153). Chúng ta cho Thiên Chúa bao nhiêu trong cuộc đời này, Ngài sẽ cho chúng ta bấy nhiêu, thậm chí còn nhiều hơn trong cuộc đời mai sau.
Không thỏa hiệp với sự gian ác:
Tuy nhiên, việc từ chối xét đoán người khác không đồng nghĩa với thái độ dửng dưng với điều chân và thiện. Đôi khi, trong hoàn cảnh mà kẻ gian ác là người có thế lực và quyền hành, viện cứ yêu thương kẻ thù mà từ chối xét đoán lại trở nên đồng lõa với hành động của kẻ gian ác. Đó không là đức ái mà Đức Giê-su đã dạy, như lời dạy của Công Đồng Vatican II: “Thực ra, đức ái và lòng nhân hậu này không bao giờ cho phép chúng ta trở nên dửng dưng với điều chân và thiện. Hơn thế nữa, chính đức ái thúc bách các môn đệ Chúa Ki-tô loan báo cho mọi người chân lý cứu rỗi. Nhưng phải phân biệt lầm lỗi, điều luôn luôn phải loại bỏ, với người lầm lỗi vì người lầm lỗi vẫn còn giữ được nhân phẩm, ngay cả khi họ có những ý niệm sai lầm hoặc hơi lệch lạc về tôn giáo. Chỉ có mình Thiên Chúa là quan tòa và là Đấng thấu suốt mọi tâm hồn: bởi vậy Ngài ngăn cấm chúng ta xét đoán tội lỗi bên trong của bất cứ người nào” (Gaudium et spes, 28).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam