Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 32

Tổng truy cập: 1364390

HIỆP THÔNG

HIỆP THÔNG

 

Thế giới chúng ta đang sống ngày nay đầy những thông điệp được chuyển trao cho nhau, người ta trao đổi nhau những thông tin qua mạng Internet, qua thư tín. Những cánh thiệp chuyển tải bao lời chúc nồng nàn. Email, điện thoại cho người ở đây và người ở kia có thể gặp gỡ nhau… Luôn luôn và không ngừng chúng ta gởi đi và tiếp nhận những thông điệp. Thế nhưng, giữa lòng cuộc sống nhộn nhịp và quá bận bịu ấy, có lẽ ít khi chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa cũng luôn gởi đến những thông điệp tình yêu, cùng sự quan tâm chăm sóc của Người. Đối lại, khi tiếp nhận ân ban từ trời, ta cũng gởi về Người những thông điệp gói ghém đầy tâm tư và khắc khoải của kiếp sống nhân sinh. Như thế, có thể nói những gì chúng ta gởi trao thường xuyên sẽ gắn kết giữa Thiên Chúa và con người một mối dây hiệp thông bền chặt. Hay nói cách khác, mối tình hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người đó vẫn được chúng ta xây dựng qua mỗi phút sống trong đời cầu nguyện. Như vậy, phải chăng cầu nguyện là sống mối tình hiệp thông?

Vâng! Cầu nguyện trước hết là sống hiệp thông với Thiên Chúa, điều này được biểu lộ nơi kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha vừa được đọc lên trong đoạn Tin Mừng có lẽ không xa lạ gì với chúng ta, ít nhiều trong đời Kitô hữu có mấy ai lại không một lần thốt lên lời kinh ấy. Lời kinh được Chúa Kitô truyền dạy rất súc tích và đầy ý nghĩa cho phép chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, cho phép ta được gắn kết với vị Cha chung giàu lòng nhân hậu hằng yêu thương chăm sóc ta, đến nỗi đã trao nộp cả Con Một mình. Nên khi cầu nguyện với người Cha như thế là ta đang được nối kết với nguồn mạch yêu thương duy nhất, là ta được mời gọi sống mối tình hiệp thông khăng khít với Thiên Chúa.

Đẹp biết bao khi ta nguyện xin cho “danh Cha được hiển sáng”, nếu thực sự chúng ta sung sướng được làm con ngoan của Chúa Cha, thì có lẽ nào điều quan tâm trước tiên của người con lại không là danh thơm tiếng tốt của Cha mình? Vả lại ước nguyện này cũng hàm ẩn một điều nhắc nhở người Kitô hữu phải có bổn phận sống sao cho đẹp lòng Cha, sống sao cho danh Cha không bị tổn thương mà sẽ sáng mãi nơi lòng nhân thế. Như thế thì ý nguyện tiếp theo chắc chắn sẽ sáng tỏ như một tất yếu: “mong cho ý Cha thể hiện trên trời cao cũng như nơi đất thấp”. Vâng! một mong ước hết sức giản dị, tự nhiên, nhưng biểu lộ mối tương quan kết nối bền chặt mà chúng ta vẫn hằng dệt nên mỗi khi cất lời cầu xin đó. Để từ đây, đất với trời được nối kết bằng bài ca giao duyên, và con người găp được Thiên Chúa qua mối tình hiệp thông.

Nhưng mối tình ấy không chỉ dừng lại ở đây. Vâng! nếu tiếp tục vâng lời Đức Kitô để cất lên lời kinh ấy, chúng ta sẽ nhận ra rằng cầu nguyện không chỉ là gặp gỡ, đối thoại thân tình với Chúa Cha, mà còn là sống hiệp thông với mọi người chung quanh. Điều này được minh họa rõ nét trong bài đọc I, khi Abraham cầu xin với Thiên Chúa cho Sôđôma như một cuộc mặc cả, với số người công chính mỗi lúc mỗi giảm đến độ thê thảm, nhưng trong hình thức so kè ấy, lại toát lên mối bận tâm của Thiên Chúa đối với số phận con người, và đồng thời cũng cho thấy khi cầu nguyện, con người liên đới với nhau cách mật thiết. Quả thực, như một nét đẹp được vẽ nên khi Abraham xin Chúa tha cho Sôđôma nếu tận cùng bằng số ông chỉ tìm thấy một người công chính. Tương tự như vậy, khi thốt lên kinh Lạy Cha, chúng ta xin Chúa tha thứ cho mình nếu ta cũng tha thứ cho anh em mình.

Như thế, cầu nguyện không còn là chuyện cá nhân nữa, mà mỗi lời kinh dâng lên Thiên Chúa chính là tâm tình làm thành một vòng tròn rộng lớn nối kết tất cả mọi người, bởi lẽ đó đây lời cầu của người này có thể là quà tặng bất ngờ cho người kia, trong khi lời cầu của người kia có thể là sức mạnh trợ lực cho cả tôi lẫn những người khác nữa. Để rồi cứ thế, vòng tròn mãi vần xoay khi mỗi người chúng ta nhận được sức sống của Thiên Chúa qua lời kinh bất tận của mối tình hiệp thông, một sức sống làm cho kẻ xa xôi trở nên gần gũi, cho người xa lạ trở thành thân quen, cho người đói ăn có đủ lương thực, để người với người thứ tha cho nhau, để lòng mở lòng đón nhận ai đó lỡ xa lìa có dịp trở về. Như vậy, mỗi lời kinh vang lên giữa lòng cuộc sống luôn có khả năng nối kết mình với kẻ khác và gắn kết mọi người vào đời sống của Thiên Chúa.

Đến đây mỗi người chúng ta tự hỏi: để sống tinh thần hiệp thông, chúng ta phải cầu nguyện như thế nào? Thực ra, nhận định về việc cầu nguyện dưới khía cạnh hiệp thông không mới mẻ gì. Nhưng vấn đề sẽ không thừa khi thực tế cuộc sống vẫn còn đó lối sống khép kín, ích kỷ nhỏ nhen. Cho nên, thiết tưởng cần phải có một cung cách cầu nguyện sao cho mỗi tâm tình được khơi lên sẽ là mỗi hành vi hiệp thông: hiệp thông với Thiên Chúa, hiệp thông với tha nhân trong Chúa Kitô. Và sẽ càng đẹp hơn nữa khi mỗi lời kinh được cất lên luôn đặt hiệp thông như mục đích phải hướng đến, như một trách nhiệm phải chu toàn. Trách nhiệm ấy đòi hỏi mỗi người chúng ta góp phần xóa đi lối sống cá nhân chủ nghĩa, xua tan những sai lệch có thể có trong đời sống Kitô hữu, vốn coi cầu nguyện đi liền với sự xin xỏ theo ý mình, dễ có nguy cơ dẫn đến mâu thuẫn giữa ý nguyện của người này và của người khác.

Như thế, có thể nói mục đích cuối cùng của cầu nguyện không phải để báo cáo cho Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì Ngài còn biết rõ hơn chúng ta. Và mục tiêu của cầu nguyện cũng không phải là xin Ngài vui lòng thỏa mãn các nhu cầu ấy, vì lòng nhân từ vô biên của Ngài luôn muốn điều lành cho chúng ta. Mà cầu nguyện chính là làm cho ý chúng ta khớp với thánh ý Ngài, ngõ hầu tình yêu của Thiên Chúa tìm thấy trong tình yêu của chúng ta một lời đáp trả ngày càng hoàn hảo hơn. Thế nhưng thực tế phũ phàng vẫn còn nhiều lấn cấn: làm sao gắn kết ý mình với ý Thiên Chúa được khi mà những lời cầu trong cơn khốn cùng xem ra không được Ngài đáp lời, nhiều khi ta gõ hoài mà cửa chẳng mở, tìm hoài mà chẳng thấy. Có thể vì lời nài xin còn nhiều ích kỷ? Có khi điều ta xin còn nhiều cặn bẩn? Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay. Xin hãy ra khỏi bận tâm hẹp hòi của chính mình mà đồng cảm với mối bận tâm của Thiên Chúa, chắc chắn Ngài không nuông chiều con cái nhưng sẽ ban cho ta những ơn lành cần thiết, và ơn lành lớn lao nhất là Thánh Thần – Đấng chính là tình yêu hiệp thông.

Trong thánh lễ hôm nay, cùng với việc đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy sống tâm tình hiệp thông, xin tiếp tục gởi trao về Thiên Chúa những Email tình yêu, đồng thời cũng đón nhận mọi biến cố mà Người gởi đến, bởi lẽ mọi biến cố trong đời đều có thể là quà tặng yêu thương.

 

57.Xin thì sẽ được – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm, SJ.

Cầu nguyện phải chăng là xin ơn? Có người cho rằng cầu nguyện không nhất thiết phải xin ơn này ơn kia, nhưng còn là ca tụng Thiên Chúa, tán dương những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho con người. Có người không muốn xin gì cả trong cầu nguyện; có người còn kết án cầu nguyện như cầu xin ơn này ơn kia. Họ cho rằng chính Đức Yêsu cũng nói khi cầu nguyện, đừng cầu xin lải nhải dài lời như dân ngoại vì Thiên Chúa biết chúng ta cần gì (Mt.6, 7-8).

Đức Yêsu dạy các môn đệ đừng nhiều lời như thể làm áp lực đối với Thiên Chúa, hoặc như thể Thiên Chúa không yêu thương mình, phải dài lời Thiên Chúa mới nghe. Tuy vậy, chúng ta không được hiểu sai ý Đức Yêsu, vì chính Ngài cũng dạy các tông đồ cầu nguyện, và trong lời dạy của Ngài, chúng ta thấy cầu nguyện cũng là lời cầu xin. Những gì Đức Yêsu dạy trong kinh Lạy Cha, đều là những ơn xin.

Người ta chỉ xin khi người ta thấy mình thiếu, khi thấy mình không có điều mình cần mà người ta lại không thể có nó do tự sức mình. Nếu tôi có thể có được điều gì đó do khả năng của bản thân tôi, tôi không cần xin xỏ ai cả. Tôi sẽ nỗ lực để có được điều đó bằng chính sức lực và khả năng của mình. Cầu xin, là thái độ của một người ý thức mình bất lực. Họ nhận thực mình chỉ là tạo vật; Thiên Chúa mới là chủ tể của mọi loài; và tất cả đều là ơn và bởi Thiên Chúa mà có. Cầu nguyện hàm chứa thái độ của một tạo vật đối với Tạo Hóa, thái độ của của một người bất lực cần sự trợ giúp của Thiên Chúa, thái độ cần Thiên Chúa để mình sống trọn ơn gọi làm người.

Lời Chúa trong sách Sáng Thế hôm nay cho biết hơn về Thiên Chúa. Người ta có cảm tưởng như Abraham nhân từ hơn Thiên Chúa, nhưng thực không phải vậy. Tất cả những gì Abraham nghĩ rằng đúng và dám xin, Thiên Chúa đều đã sẵn sàng làm như Abraham yêu cầu; hơn nữa, “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống.” “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Ngài cho thế gian…” Nếu Thiên Chúa yêu con người đến độ dám ban Con Một Yêu Quý của Ngài cho con người, thì Thiên Chúa còn tiếc gì với con người nữa! Thiên Chúa là tình yêu, nghĩa là, Thiên Chúa luôn yêu thương, Thiên Chúa làm tất cả vì yêu thương. Yêu thương hàm chứa tha thứ cho những người xúc phạm đến mình. Yêu thương đòi khoan nhân đối với người tội lỗi. Thiên Chúa yêu thương nên tha thứ mọi lỗi lầm cho con người; Ngài khoan hồng tha thứ những gì con người xúc phạm đến tha nhân và đến Ngài.

Đức Yêsu, Ngôi Lời nhập thể, đã là một người như tất cả mỗi người chúng ta; Ngài đã chia sẻ thân phận con người, đã phải nghèo đói bị khinh khi, đã phải làm lụng như bất cứ ai vất vả nhất trên đời, đã phải ngủ màn trời chiếu đất (Lc.21, 37), đã bị hiểu lầm hàm oan, đã bị ghét, bị hành hạ cho đến chết. Tất cả mọi người trên dương trần được mời gọi để nhìn vào Ngài, để biết phải sống như thế nào trong những lúc cùng khốn nhất của đời người.

Đức Yêsu cũng không phải là người luôn thành đạt, bằng chứng là Ngài đã phải chết ô nhục trên thập giá, một trong những môn đệ yêu quý nhất của Ngài đã phản bội nộp Ngài cho những kẻ thù ghét Ngài. Ngài đã từng mời gọi người ta theo Ngài, nhưng Ngài đã bị từ chối (Mc.10, 22), và cũng có lắm kẻ bỏ Ngài (Ga.6, 66). Không thể nói rằng lúc nào Ngài cũng vui và hân hoan, vì trong vườn dầu Ngài đã chiến đấu đổ mồ hôi máu (Lc.22, 39-45), đã kinh hoảng âu sầu, đã “buồn đến chết được.” Trên thập giá Ngài còn có cảm nghiệm như thể Thiên Chúa bỏ Ngài, tuy nhiên Ngài vẫn vượt thắng những cám dỗ nơi Ngài, Ngài vẫn một niềm phó thác tất cả đời Ngài cho Thiên Chúa, kể cả mọi dự phóng tốt lành. Ngài đã nói: “Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con trong tay Cha.”

Sự bình an Đức Yêsu có, đó là sự bình an của người biết Thiên Chúa yêu thương mình, và tin Thiên Chúa sẽ làm những điều tốt lành nhất cho mình. Sự bình an Kitô hữu có, không phải là không có chuyện gì xảy ra cho họ, nhưng là, ngay cả những khó khăn bất lợi đó, họ vẫn tin tưởng và phó thác tất cả cho Thiên Chúa, Đấng họ tin tưởng luôn yêu thương họ, sẽ làm mọi chuyện thành tốt cho họ. Bình an Kitô hữu có, đó là bình an của một người được yêu, tin rằng mình được Đấng vô cùng quyền năng yêu, và Ngài sẽ giúp họ trong mọi hoàn cảnh.

Bận tâm và ao ước của Đức Yêsu là làm sao cho Danh Thánh Cha vinh hiển, làm sao để Nước Công Bình và Yêu Thương bao trùm khắp, làm sao để con người đủ cơm bánh hằng ngày, để con người sống bình an hạnh phúc. Đức Yêsu mong ước con người tha thứ cho nhau theo gương Thiên Chúa, Đấng yêu thương tha thứ tất cả cho con người. Đức Yêsu mong ước con người đừng xúc phạm đến Thiên Chúa Tình Yêu. Đức Yêsu cầu xin để xin Thiên Chúa ban những điều đó cho con người.

Làm con người nên thánh, làm con người thuộc về Thiên Chúa, đó là ân sủng và công việc mà chỉ một mình Thiên Chúa có thể làm được. Thiên Chúa mời gọi con người cộng tác với Thiên Chúa để thuộc trọn về Thiên Chúa, để trở nên thánh, để là tình yêu của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Con người cần Thiên Chúa giúp để thuộc trọn về Thiên Chúa, để nên thánh, để trở nên người tuyệt vời, để sống bình an hạnh phúc. Không có Thiên Chúa, con người không thể làm gì được.

Xin thì sẽ được, gõ cửa thì sẽ mở cho. Chắc chắn con người sẽ được điều quý nhất khi chạy đến với Thiên Chúa và cầu xin những gì mình ao ước. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ ban cho con người điều quý gấp vô cùng lần điều con người cầu xin, đó là Thánh Thần. “Nếu anh em là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những điều tốt lành, chẳng lẽ Cha anh em trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” Nếu tôi chạy tới với Thiên Chúa, tôi sẽ được những gì quý nhất có thể có được. Xin cho mỗi người thấy được điều này, để luôn chạy đến với Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. “Xin thì được gõ cửa thì sẽ mở cho.” Bạn có thấy câu Lời Chúa này ứng nghiệm trong đời bạn không? Xin chia sẻ kinh nghiệm của bạn.

2. Có những người cho rằng họ đã xin mà không được. Bạn giải thích cho họ thế nào?

3. Bạn ao ước điều gì? Đức Yêsu ao ước điều gì? Điều Đức Yêsu ao ước và điều bạn ao ước, giống và khác nhau ở điểm nào?

 

58.Xin thì sẽ được – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm, SJ.

Lời Chúa hôm nay cho thấy lời cầu nguyện có giá trị như thế nào! Và không chỉ thế, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần cho tất cả những ai cầu xin Ngài.

Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần

Đức Yêsu dạy các tông đồ cầu nguyện. Qua đó Ngài cũng dạy tất cả chúng ta.

“Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Danh Thiên Chúa cả sáng khi con người tin Thiên Chúa, và để Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn mình. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu. Khi con người sống yêu thương nhau, Nước Thiên Chúa đang hiện diện.

“Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” không phải là chuyện con người có thể làm được. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho con người tin nhận Ngài và sống theo luật tình yêu. Đó là lý do tại sao chúng ta nài xin.

“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Cơm bánh hằng ngày, là những điều rất bình thường nơi người ta no đầy sung túc, và người ta tưởng đó là những điều tự nhiên, và không cần tạ ơn Chúa; nhưng ở những nơi đói kém, con người dễ nhận ra “cơm bánh” mình ăn hằng ngày, là những hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban. Nếu không nhận biết “cơm bánh” hằng ngày là ơn, con người đã hành xử như người vô ơn.

“Xin tha tội chúng con, để chúng con cũng tha lỗi cho những người xúc phạm đến chúng con”. Xin cho chúng con cảm nhận lòng từ bi nhân hậu của Chúa, để chúng con cũng giúp người khác cảm nhận tình yêu tha thứ của Chúa, qua việc chúng con tha thứ lỗi lầm cho họ.

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Con người mỏng dòn, mong manh, dễ vỡ! Ai dám nói mình không bao giờ sa ngã? Bây giờ tôi rất mạnh, nhưng lúc khác có thể tôi rất yếu. Không sa ngã phạm tội, đó là hồng ân vô cùng lớn mà nhiều lần tôi đã không ý thức để tạ ơn Thiên Chúa. Ở trong tình nghĩa với Chúa, là một ơn mà mỗi tối khi xét mình, chúng ta cần nhận ra để tạ ơn Chúa.

Người đời, những con người bất toàn và ích kỷ, mà còn không thể dửng dưng trước những lời van xin của đồng loại, huống chi Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng. Nếu con người còn biết cho con cái mình những điều tốt, huống chi là Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài không ban điều tốt cho con người sao? Quả thực, Thiên Chúa đã ban “Thánh Thần” cho con người. Thánh Thần là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa và Đức Yêsu ban cho con người. Khi người ta tặng quà ai, món quà càng giá trị càng diễn tả tình yêu. Món quà quý nhất mà Thiên Chúa trao tặng con người, là chính Thiên Chúa, Chúa Con và Thánh Thần.

Được Thiên Chúa, được Thánh Thần, chúng ta được tất cả những điều khác.

Thiên Chúa nhân từ hơn con người tưởng

Cuộc “trao đổi” giữa Abraham và Thiên Chúa, làm người ta lầm tưởng Abraham nhân từ hơn Thiên Chúa. Thực ra đoạn Lời Chúa cho thấy Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, và Ngài sẵn sàng làm tất cả những gì Abraham nài xin. Abraham xin gì, Thiên Chúa cũng ban. Ngài sẵn sàng bớt từ 50, đến 40, 30, 20 và 10. Tại sao Abraham không rút xuống nữa? Có lẽ vì lòng nhân từ của con người “có hạn”, hay tại Abrahm chưa đủ lòng tin rằng Thiên Chúa nhân từ, chứ nếu Abraham có đủ can đảm và lòng tin xin rút xuống nữa, chắc chắn Thiên Chúa cũng ban cho.

Sôđôma, là mẫu gương để con người xa tránh tội lỗi. Thật không đúng nếu nói Thiên Chúa không thương những người ở Sodoma. Đức Yêsu nói: Sodoma còn được xét xử khoan dung hơn nhiều thành ở Israel (x. Mt.10, 15).

Hình ảnh của Abraham trong St.18, 20-32 rất đẹp. Lòng nhân từ và thương xót, làm con người trở nên xinh đẹp, vì điều đó làm con người giống Thiên Chúa hơn.

Chỉ cần mười người công chính, đủ để cứu cả thành. Chỉ cần là người công chính, là đã làm được bao nhiêu điều mà những người tài giỏi, quyền thế, giầu sang, không thể làm được. Ước gì mỗi người chúng ta đều có khao khát trở nên người công chính. Để với sự công chính Thiên Chúa ban, chúng ta có thể cứu được những người khác, chẳng hạn qua gương sáng đời sống đạo đức, chúng ta có thể giúp người khác trở lại, hoặc cố gắng vươn lên.

Thái độ của con người trước Thiên Chúa

Abraham xin với Thiên Chúa như một người “ăn xin”, ý thức những điều mình xin tuỳ thuộc Thiên Chúa đồng ý hay không. Con người tuy dù được Thiên Chúa yêu những tự bản chất chỉ là tạo vật, là hư không đối với Thiên Chúa. Con người đâu phải ngang bằng với Thiên Chúa mà đòi hỏi điều này điều kia. Thái độ khiêm tốn, chấp nhận những gì được ban như hiện tại, cảm tạ Thiên Chúa, là thái độ cần thiết của tạo vật trước Thiên Chúa.

Thiên Chúa không cần chúng ta nài xin, Ngài cũng ban những điều cần thiết cho chúng ta. Khi chúng ta thấy những gì cần cho chúng ta và nài xin Ngài, Ngài sẵn sàng ban để chúng ta nhận biết “Ngài là tình yêu” hơn nữa. Thiên Chúa đã ban Đức Yêsu cho chúng ta, nhờ Ngài chúng ta là tạo vật mới, và chúng ta được tất cả nhờ Đức Yêsu Kitô.

Đức Yêsu vì yêu thương đã coi chúng ta là bạn hữu với Ngài. Tuy dù được yêu thương, nhưng khi ngỏ lời với Thiên Chúa, Abraham rất kính cẩn. Đây cũng là bài học cho chúng ta, để mỗi khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta phải có thái độ như thế nào đối với Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn có hay “xin” Thiên Chúa điều này điều kia không? Điều nào quan trọng nhất trong đời mà bạn đã xin? Bạn có được điều đó không? Xin chia sẻ nếu được.

2. Lời nào trong kinh Lạy Cha bạn thích nhất? Tại sao?

3. Có khi nào bạn cầu nguyện một điều rất chính đáng mà không được không? Bạn phản ứng ra sao với Thiên Chúa trong trường hợp đó? Phản ứng đó đúng hay sai? Tại sao?

 

59.Cầu nguyện – Lm. Bùi Quang Tuấn

Ví như xác không hồn là xác chết. Cũng thế, linh hồn không siêng năng cầu nguyện thì linh hồn cũng chẳng sống được. Thánh Gioan Kim Khẩu xác quyết như vậy. Thế nhưng đối với nhiều Kitô hữu, dường như cầu nguyện vẫn chưa là “hơi thở của linh hồn” theo ý nghĩa thường xuyên và cần thiết. Có lẽ vì bị chi phối bởi một tâm thức xem Chúa như “Ông thủ kho” và nỗi đợi chờ theo kiểu “mì ăn liền” nên cầu nguyện đã trở thành gánh nặng thiếu sức sống nơi nhiều tâm hồn tín hữu.

Không ít người sớm thất vọng vì nài nẵng hoài mà không được. Có người chán nản vì bị yếu tố thời gian chi phối quá mạnh. Cũng có người cảm thấy khô khan, thiếu hứng thú, mất thời giờ khi cầu nguyện. Những hoạt động hay tiếp xúc với thế giới hữu hình vẫn luôn là hấp dẫn hơn so với thế giới hữu hình. Thành thử đời cầu nguyện cứ càng ngày càng mờ phai. Nhưng dù sao, Lời Chúa vẫn luôn kêu mời: Hãy kiên trì cầu nguyện, đừng nhàm chán (Lc 18:1).

Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và tổ phụ Abraham đã nên như lời nhắc nhở và mẫu gương của đời sống nguyện cầu. Trong đời sống đó phải có kiên tâm bền chí, khiêm nhưỡng cậy trông, và mở lòng với tha nhân.

Vì muốn cứu hai thành phố đồi trụy Sôđôma và Gômôra, Abraham đã dám “mặc cả” với Chúa. Ông không khởi sự bằng việc xin đưa người lành ra khỏi thành trước khi lửa trời rơi xuống. Ông không dừng lại ở điểm công bình, nhưng đã đi xa hơn: vươn lên tới đức bác ái. Mục tiêu cầu khẩn của Abraham là cho người tội lỗi. Song, để cứu được người tội lỗi lại cần phải có người lành. Ông bắt đầu lý luận với Giavê: “Chẳng lẽ Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó hay sao?” Một loạt các câu hỏi được nêu ra đề rồi cuối cùng đúc kết bằng một lời thỉnh cầu: “Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ! Xin đừng làm thế!!”

Lời thỉnh cầu đó trở nên tha thiết, chân tình, và đầy lòng khiêm tốn: “Dù tôi chỉ là tro bụi, tôi cũng xin thưa cùng Chúa: nếu trong số năm mươi người công chính còn đó lại thiếu mất năm người thì sao?” Nhưng e rằng 45 người công chính cũng là một con số khó tìm, Abraham đã dịu dàng và kính cẩn thưa thêm: “Nếu chỉ có bốn mươi người thôi thì Chúa sẽ làm gì?” Tưởng rằng “quá tam bận”: mặc cả với Chúa ba lần rồi thôi. Đàng này Abraham còn bạo phổi nài nẵng Chúa đến ba lần nữa: “Lạy Chúa, nếu tôi lên tiếng, xin đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?...Nếu trong thành tìm được hai mươi người thì sao?... Lạy Chúa, xin đừng nổi giận. Tôi chỉ xin thưa lần nầy nữa thôi. Nếu tìm được mười người công chính ở đó thôi thì sao?” Cuộc “mặc cả” đã đi từ con số 50 người lành, xuống đến 45, rồi 40, 30, 20, và cuối cùng là 10. Chỉ cần 10 người công chính thôi, tất cả sẽ được tha thứ. Tiếc là mười người mà cũng chẳng tìm ra!

Không hiểu sao Abraham không tiếp tục van xin Chúa thứ tha cho dân thành nếu như không tìm thấy được 10 người công chính. Phải chăng vì ông cho rằng đây là con số nhỏ quá rồi so với con số quá lớn của những người tội lỗi? Hay Abraham chưa hiểu thấu được chiều kích vô biên của lời cầu nguyện cũng như lòng thương xót bao la của Thiên Chúa?

Thật thế, Thiên Chúa luôn vui lòng lui bước trước lời nguyện cầu chân thành, bền bĩ, và đầy lòng kính sợ của con người. Chính Giavê đã phán trong sách Êzêkien và Giêrêmia: nếu chỉ tìm được ở Giêrusalem một người biết giữ công lý, biết tìm sự thật, thì Người cũng sẽ tha tội cho thành (Ex 22:30; Gr 5:1). Lời khẳng định này thúc dục ta cố gắng sống đời tốt lành để cầu xin và mang lại lợi ích thiêng liêng cho gia đình con cái, thân bằng quyến thuộc, và quê hương xứ sở.

Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho (Lc 11:9). Chắc hẳn lời đoan hứa của Chúa Giêsu đã làm các thánh vui sướng đến phát khóc. Nhưng đây không phải là lời đoan hứa dành riêng cho các thánh, mà là cho mọi người. Thiên Chúa yêu thương và muốn ban mọi sự tốt lành cho tất cả, không phải vì tất cả đều tốt, song vì tất cả là con cái của Ngài. Đức Giêsu đã mạc khải cho bạn và tôi như thế: các ngươi còn biết cho con mình những điều lành, huống chi là Cha các ngươi ở trên trời (Lc 11:13)

Được làm con Thiên Chúa, được gọi Đấng tác thành vũ trụ là Cha, đó là nhờ công nghiệp của Đức Giêsu và Thần khí của Ngài. Nhưng vấn đề không hệ tại ở đặc ân được kêu Thiên Chúa: “Abba, Lạy Cha,” song là làm sao để sống xứng hợp với hồng phúc cao cả đó.

Quan hệ Cha-con trở nên thân thiết nhờ sự cầu nguyện. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại. Khác với độc thoại, đối thoại là nói và nghe. Vì thế, không phải chỉ đến với Chúa và “bắt” Ngài phải nghe tất cả những nhu cầu tôi liệt kê, song vẫn cần lắm một thái độ kính cẩn lắng nghe tiếng Chúa và sống theo ý Ngài.

Cầu nguyện không phải là để sở thích và đam mê của tôi được thỏa mãn, nhưng là để “danh Cha cả sáng và ý Cha thể hiện khắp nơi”. Đức Giêsu không nài cho được khỏi uống chén đắng, nhưng xin cho ý Cha thành sự. Đây là lối sống đầy tin tưởng, khiêm nhường, yêu mến và hoàn toàn phó thác của người con ngoan.

Là Kitô hữu, tôi được mời gọi để sống mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn: giống Ngài trong đời sống cầu nguyện, trong tinh thần và thái độ liên kết với tha nhân – không chỉ xin cho mình, nhưng là cho “chúng con” – và giống Ngài với trọn niềm tín thác vào tình thương của Cha, Đấng sẵn sàng ban Thánh Thần cho những ai khẩn cầu.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được ơn bền đỗ cầu nguyện. Vì chúng con biết rằng hễ ai bền đỗ trong điều đó cho đến cùng, chắc chắn sẽ được ơn cứu độ. Xin Mẹ Maria phù giúp cho chúng con luôn được trung kiên trong cuộc chiến này

 

60.Tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật thứ XVII thường niên C, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu. Bài đọc I (St 18, 20-32) là một minh họa đầy đủ ý nghĩa nhất. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mạc cả với Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính, Abraham đã tìm thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người bằng niềm tin. Tin Mừng Thánh Luca (Lc 11, 1-13) thuật lại cho chúng ta lời nguyện cầu chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa dạy các môn đệ: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: 'Lạy Cha...'“. Ngài mời gọi các môn đệ hướng về Cha, không phải Ngài dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha với trọn niềm tin vì: “Kẻ cô thân Thiên Chúa cho nhà cửa, chính Người ban tặng cho dân dũng lực uy quyền” (Ca nhập lễ).

Gương của tổ phụ Abraham

Từ cây sồi ở Mambrê Thiên Chúa đã tỏ ý định của Ngài cho Abraham biết (St 18,1), và Abraham đã tìm thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã dám thưa cùng Thiên Chúa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao?” (St 18, 24-25) Và ông tiếp tục mặc cả với Thiên Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính. Vấn đề là Thiên Chúa không bao giờ muốn tiêu diệt thành Sôđôma. Quả thật, bản văn Thánh Kinh thuật lại những lời Chúa phán cùng Abraham: “Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ” (St 18, 20-21). Abraham sợ chứng kiến cảnh Thiên Chúa trừng phạt các thành Sôđôma và Gômôrrha. Với lòng thương dân sẵn có của Abraham, ông đã nguyện cầu, đến nỗi táo bạo can thiệp cả Thiên Chúa. Ông tin vào Thiên Chúa, nhưng giờ đây niềm tin đó đang bị thử thách, ông tự hỏi: Liệu Thiên Chúa có trung thành với lời Giao ước tình thương với dân Ngài không? Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, nếu nói rằng Abraham mặc cả với Chúa, không có sai, vì ông đã giảm giá dần, từ năm mười người xuống còn năm người. Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Abraham thấy các thành rơi vào cảnh bi đát, sắp bị Chúa tàn phá và ông tìm kiếm một con đường giải thoát cho hai thành. Ông kêu van, mặc cả nhưng không nói lộng ngôn phạm đến Chúa, Chúa lắng nghe, Ngài chú ý đến những kêu xin của ông.

Cầu nguyện như Đức Giêsu dạy

Niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham bị thử thách, đó cũng là niềm tin của chúng ta nói chung. Vì nhiều khi chúng ta xin mãi mà không được, nên chán nản. Chúng ta cùng xem Đức Giêsu cầu nguyện thế nào và Ngài dạy các môn đệ cầu nguyện ra làm sao (x. Lc 11, 1-13).

Chuyện là khi các môn đệ Đức Giêsu chiêm ngắm Thầy cầu nguyện thì một trong số họ thưa rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã đã dạy các môn đệ ông”. Đức Giêsu đáp ứng lời xin của môn đệ và Ngài dạy: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: 'Lạy cha...'“. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hướng về Cha, Ngài không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện. Cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha. Bởi lịch sử cứu độ con người là một chuỗi dài tình phụ tử hỗ tương giữa Thiên Chúa với lòng hiếu thảo của con người. Thiên Chúa cất tiếng gọi con người đáp trả và con người tìm thấy lòng tốt hảo của Thiên Chúa là Cha. Con người khát khao Thiên Chúa gặp gỡ lòng trùi mến của Thiên Chúa đối với con người, con người được Chúa ban ơn.

Đức Giêsu dạy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa “Lạy Cha” là Ngài đưa con người vào trong tương quan diện đối diện với Thiên Chúa. Ngài mời gọi chúng ta khiêm tốn và tin tưởng bước vào với tình con thảo. Tuy nhiên, lời cầu nguyện tạ ơn dài trong Thánh Vịnh “Lạy Chúa, con tạ ơn danh Chúa vì tình thương và chân lý”; “Nếu tôi đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn tôi sống”; “Chúa ra tay phản đối quân thù tôi giận giữ”; “Chúa sẽ hoàn tất cho tôi những điều Ngài đã khởi sự! Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại đến muôn đời” (Tv 137, 1-8)... Cũng cách thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa. Nhưng, thánh vịnh gia còn phải đương đầu với quân thù và những cám dỗ đang rình rập, lúc mà hình như Thiên Chúa trung thành hoàn toàn vắng mặt.

Thiên Chúa luôn giữ lời hứa cứu độ, muôn đời không hề thay đổi. Vậy, tại sao ta lại nghi ngờ về tình phụ tử của Thiên Chúa đối với chúng ta? Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng những lời nguyện cầu mà chúng ta dâng lên Chúa Cha sẽ luôn được nhận lời: “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Ngài lưu ý chúng ta: “Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Ngài làm cho chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng không chỉ sẽ nhận lời mà còn trao ban cho chúng ta những điều tốt hơn điều chúng ta cầu xin.

Chúng ta đã chẳng đọc những lời của Đức Giêsu rằng, Đấng trao ban còn quí trọng hơn những gì là ân huệ Ngài trao ban sao? Chính Chúa, là kho tàng duy nhất và quí giá mà chúng ta nhận được trong lời cầu nguyện; Lời cầu nguyện dẫn chúng ta vào trong sự hiệp thông với Chúa, đặt mình trước mặt Chúa là Đấng ba lần Thánh và hiệp thông với Ngài. Cầu nguyện, là để Thiên Chúa đến ở với chúng ta và biến đổi chúng ta. Dần dà, chúng ta tìm thấy những gì tội lỗi đã làm hư mất. Và khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm cho mình trở lên trung gian của tình yêu Thiên Chúa giữa anh em.

Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, chúng ta không chỉ cầu nguyện trong tình con thảo mà lời cầu nguyện còn đưa chúng ta vào trong niềm tin hòa giải: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con”.

Lấy lại những lời nguyện cầu của Đức Giêsu, chúng ta thưa: “Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lúc đó, chúng ta sẽ thực sự trở nên môn đệ Đức Giêsu, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và nên những sứ giả mang Lời thương xót của Chúa Cha muốn cứu độ người ta. Amen.

 

61.Nguyện giúp cầu thay

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Cứ sự thường, bài đọc I Chúa nhật được chọn để chuẩn bị cho bài Tin Mừng. Nếu bài đọc I Chúa nhật XVII thường niên C, giới thiệu Abraham, con người của cầu nguyện, ông nài xin Thiên Chúa cách kiên trì, ông xin cho đến bao giờ được mới thôi (x. St 18,20-32), thì bài Tin mừng (Lc 11, 1-13) cho thấy Chúa Giêsu đang cầu nguyện cùng Chúa Cha, liền sau đó Người dạy các môn đệ cầu nguyện thể theo lời họ xin (x. Lc 11,5-8), và khuyên họ kiên trì cầu nguyện với niềm xác tín đầy tình con thảo với Cha trên trời: "Vì ai xin thì được, ai tìm thì gặp và ai gõ thì sẽ mở cho." (x. Lc 11,10)

Abraham được phụng vụ trình bày như là gương sáng về sự nguyện giúp cầu thay, ngay cả khi hành vi của ông có vấn đề. Với lòng hiếu khách, ông đã mời ba vị khách vào trại của ông. Một trong ba vị lặp đi lặp lại với Abraham và Sara lời Thiên Chúa hứa ban cho ông bà có con nối dõi tông đường, điều mà ông bà hằng khao khát (x. St 18, 1.10).

Họ là ba, tuy nhiên, trong khung cảnh của Chúa nhật tuần trước, đúng hơn Abraham nói với họ như thể họ là một: vì thiên thần của Chúa (theo Kinh Thánh là những sứ giả được Thiên Chúa ủy thác cho một sứ vụ qua tên riêng của họ), có lúc nhiều, có khi lại chỉ là một.

Hôm nay chúng ta tiếp tục sự kiện này khi hai người trong số họ quyết định đi đến Sôđôma trong lúc Abraham đang ở trước mặt người thứ ba, là Thiên Chúa. Các cuộc thương lượng giữa Thiên Chúa với Abraham liên quan đến dân thành Sôđôma, có Lót, cháu trai của ông và gia đình ông. "Khi những người Sôđôma độc ác và tội lỗi chống lại Thiên Chúa." (St 13,13) Bạo lực của họ "kêu thấu" tới Chúa và Chúa nhìn họ với cái nhìn: tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu, vì Thiên Chúa đầy lòng từ bi và hay thương xót.

Trong cuộc thương lượng, Abraham đặt mình vào vị trí của người công chính và Thiên Chúa là người đáng trách: "Há Ðấng phán xét tất cả gian trần lại không theo đường công lý?" (St 18, 25). Thiên Chúa vẫn giữ một thái độ mà Abraham cho là bất công. Con người có thể lượng giá theo cái biết phiến diện của mình. Thiên Chúa thì không như thế, Ngài phán xét cách công minh.

Vì thiếu lòng tin nên Abraham đã mặc cả với Chúa đến mười người công chính (St 18,31). Nếu như Thiên Chúa quyết định kết án chín người vô tội, chín người công chính trong số các cư dân thành Sôđôma.... Kinh Thánh do miệng các tiên tri cho chúng ta câu trả lời: không, Thiên Chúa không hành động như vậy. "Rảo khắp các phố phường Giêrusalem mà nhìn cho tỏ, hãy tìm nơi các công trường xem có kiếm được một người, một người mà thôi biết giữ công lý, biết tìm sự thật, để Ta tha tội cho thành, sấm của Đức Chúa."(Gr 5, 1)

Bấy giờ ở Sôđôma đã có một người công chính là ông Lót. Nhưng sự hiện diện của ông không ngăn cản được án phạt giáng xuống cả thành. Thậm chí nếu cứu vớt cá nhân ông, và cả gia đình ông, thì người công chính này cũng không cứu được toàn dân trong thành. Lý do ông chỉ là khách ngoại kiều. Nhưng Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ, Ngài sẵn sàng tha thứ tội chết cho toàn dân nếu ăn năn hối cải.

Tin tưởng vào Thiên Chúa và tha thiết nguyện cầu. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, nên Người dạy chúng ta. Người đã thực hành điều Người dạy. Vào những thời điểm quan trọng trong đời như: chịu phép rửa (Lc 3,21), biến hình (Lc 9,29), hấp hối trong vườn cây dầu (Lc 22, 41), Chúa thường cầu nguyện. Người không đặt vấn nạn, cũng không phát biểu những công thức cao siêu huyền bí, nhưng Người đã nói cách đơn sơ: "Cha ơi..." và tiếp đó Người dạy kinh Lạy Cha (x. Lc 11,2-4). Người bảo chúng ta khi xin cùng Thiên Chúa, phải đặt mình vào hoàn cảnh của một người cha phải đáp ứng các nhu cầu của con cái mình, chúng đang đói, chúng cần bánh ăn, cho dù phải năn nỉ, nài van, thậm trí bị từ chối: " Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi". Nhưng khi đã nghe rõ tiếng van nài của người cha vì còn cái mình, ông bạn ấy sẽ trỗi dậy đáp lời!

Chúng ta là những kẻ xấu còn đối xử với nhau như thế, phương chi Thiên Chúa là Đấng tốt lành, chúng ta phải tin tưởng vào Ngài, vì Ngài hằng yêu thương, nâng đỡ chúng ta và làm cho chúng ta lớn mạnh khi chúng ta cầu xin. Thiên Chúa đã ngưng trừng phạt Sođôma nhờ số ít những người công chính vì Abraham nài xin (x. St 18,23-32).

Thế giới ngày hôm nay rất cần đến lòng thương xót, thứ tha, nhất là để cứu độ của Thiên Chúa. Ơn cứu độ được thực hiện nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Người là Đấng công chính duy nhất giữa muôn người tội lỗi: "Người đã ân xá cho ta mọi điều sa ngã, thủ tiêu văn khế tội nợ của ta dựa trên lệnh chỉ cáo tội ta, và Người hủy bỏ đi, đóng đinh nó vào thập giá." (Col 2. 14)

Ơn cứu độ là có thể vì Đức Giêsu Kitô không phải là người xa lạ. Người trở nên nguyên nhân ơn cứu độ đời đời cho chúng ta. Thánh Têrêxa đã mời gọi các chị em của mình như thế này: "Chúng ta cần phải van xin Chúa giải thoát chúng ta mãi mãi khỏi hết mọi hiểm nguy và xin cất đi mọi sự dữ. Và cho dù lòng ước ao của chúng ta còn bất toàn đi nữa, chúng ta cũng hãy kiên trì nhắc đi nhắc lại lời van xin đó. Ðừng lo sẽ xin xỏ quá đáng, xét vì chúng ta đang ngỏ lời với Ðấng Toàn năng mà? (Camino 60).

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã dạy chúng con cầu nguyện và cho chúng ta tham dự vào lời cầu nguyện của Người. Abba, lạy Cha, lạy Chúa Thánh Thần, xin cầu thay nguyện giúp chúng con và toàn thế giới. Amen.

 

62.Suy niệm của Bùi Hữu Thư

TỪ NGỮ "LẠY CHA" LÀ BÍ QUYẾT CỦA KINH NGUYỆN CHÚA GIÊSU

Anh chị em thân mến, Phúc Âm hôm nay khởi đầu với cảnh Chúa Giê-su cầu nguyện một mình tại một nơi riêng biệt. Khi Người cầu nguyện xong các môn đệ xin Người, “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện.” Và Người đã đáp lời, “Khi anh em cầu nguyện, hãy nói: Lạy Cha…”

Từ ngữ “Lạy Cha” là bí quyết của kinh nguyện của Chúa Giê-su; đó là bí quyết Người truyền lại cho chúng ta để chúng ta có thể bước vào mối tương quan đối thoại mật thiết với Chúa Cha là Đấng đã đồng hành và nâng đỡ đời sống của Người.

Với từ ngữ “Lạy Cha”, Chúa Giê-su gắn liền với hai điều thỉnh nguyện: xin cho “danh Cha cả sáng; nước Cha trị đến.” Do đó kinh nguyện của Chúa Giê-su là một kinh cho các Ki-tô hữu, trước hết dành chỗ cho Thiên Chúa, để cho Người thể hiện sự lành thánh trong chúng ta và để cho thiên quốc được phát triển qua sự hiện thực của tình yêu của Người trong đời sống chúng ta.

Ba lời thỉnh cầu khác hoàn tất kinh Chúa GIê-su dạy chúng ta. Đây là ba điều bầy tỏ các nhu cầu căn bản của chúng ta: cơm bánh, sự tha thứ và giúp tránh các chước cám dỗ. Con người không thể sống không cơm bánh, không có sự tha thứ, và không có sự trợ giúp của Thiên Chúa để tránh các chước cám dỗ.

Cơm bánh Chúa Giê-su muốn chúng ta xin là điều cần thiết. Đó là bánh của các khách hành hương, của người công chính, bánh không tích luỹ và không dư thừa để bị vứt bỏ, và không làm cho hành trang chúng ta nặng chĩu trên đường.

Tha thứ trên hết là những gì chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa: Chỉ khi ý thức được mình là kẻ tội lỗi được tha thứ bởi lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa thì mình mới có thể có khả năng làm các cử chỉ giảng hòa với anh em.

Nếu có ai không ý thức rằng mình là kẻ tội lỗi được tha thứ, thì không bao giờ có thể làm một cử chỉ tha thứ hay giảng hòa. Các cử chỉ này bắt đầu từ trong tim nơi chúng ta cảm thấy chúng ta là những kẻ tội lỗi được tha thứ.

Điều cầu xin cuối cùng – xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ - bầy tỏ một sự ý thức về tình trạng của chúng ta, luôn luôn bị sự dữ và sự tham nhũng quấy nhiễu.Tất cả chúng ta đều biết rõ về các cám dỗ này!

Giáo huấn của Chúa Giê-su tiếp tục với hai dụ ngôn, trong đó Chúa dùng gương sang của thái độ một người bạn đối với bạn hữu mình, và của một người cha đối với người con.

Cả hai dụ ngôn nhắm dạy chúng ta phải hoàn toàn tin cậy nơi Thiên Chúa là Cha. Chúa Cha biết rõ các nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta can đảm và liên lỉ trình bầy với Người, vì đây là đường lối chúng ta tham dự vào công trình cứu chuộc của Người..

Cầu nguyện là “công cụ” trước hết và chính yếu chúng ta có trong tay. Năn nỉ [một điều gì] với Chúa không phải là để thuyết phục Người, nhưng là để tăng cường đức tin và lòng kiên nhẫn của chúng ta, nghĩa là khả năng chúng ta có thể tranh đấu bên cạnh Chúa về những gì thật sự quan trọng và cần thiết. Trong việc cầu nguyện chúng ta có song đôi: Thiên Chúa và tôi, cùng tranh đấu cho những gì quan trọng.

Trong số những điều này, có một điều quan trọng nhất, Chúa Giê-su dạy chúng ta trong Phúc Âm hôm nay, mà chúng ta ít khi nghĩ đến, và đó là Chúa Thánh Thần.

“Xin ban Thánh Thần cho con!”

Và Chúa Giê-su nói, “Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".

Thánh Thần! Chúng ta cần phải xin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta. Nhưng tại sao lại cần đến Chúa Thánh Thần? Để sống tốt lành, với sự khôn ngoan, với tình yêu, và thi hành Thánh Ý Chúa.

Kinh cầu này sẽ tốt đẹp biết bao nếu mỗi người trong chúng ta trong tuần lễ này sẽ biết cầu xin, “Lạy Cha, xin ban Thánh Thần cho con.”

Đức Nữ Đồng Trinh Maria đã bầy tỏ điều này cho chúng ta qua đòi sống của Mẹ, vì Mẹ đã được Chúa Thánh Thần linh ứng. Mẹ giúp chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha, xin Mẹ giúp chúng ta kết hiệp với Chúa Giê-suu để chúng ta không sống theo cách trần tế, nhưng theo Phúc Âm, và được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần.

 

home Mục lục Lưu trữ