Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 468

Tổng truy cập: 1372270

HÒA ĐỒNG VỚI NGƯỜI TỘI LỖI

Hòa đồng với những người tội lỗi

Mahatma Gandhi không phải là một kitô hữu, nhưng ngài là một trong những người đã sống giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ của ngài.

Gandhi kiên quyết chống lại hệ thống phân biệt giai cấp ở Ấn độ. Ngài gọi đó là "một vết nhơ trong linh hồn nước Ấn độ". Ngài đặc biệt ghê tởm cách người ta đối xử với những người "không nên đụng tới", tức là những người không được xếp vào giai cấp nào cả trong xã hội: họ không được vào các đền thờ; nếu sống ở thành thị, họ bị buộc phải ở trong những khu ổ chuột; nếu sống ở thôn quê, họ bị cấm không cho sử dụng những giếng nước công cộng; về việc làm, họ chỉ được làm những việc thấp hèn với đồng lương rất thấp.

Vì là một nhân vật nổi tiếng khắp Ấn độ nên Gandhi đi đến đâu cũng được mọi người tiếp rước nồng hậu. Khi ngài vào một làng nào thì ông trưởng làng mời ngài đến trọ tại nhà ông ta với đầy đủ thức ăn thức uống và mọi tiện nghi dễ chịu. Nhưng Gandhi luôn từ chối một cách lịch sự. Ngài hỏi: "Những người 'không nên đụng tới' ở đâu vậy? Tôi muốn trọ tại nhà họ". Và quả thực ngài đã đến với những người ấy, ở với họ, ăn uống với họ, chơi đùa với con cái họ. Có lần ngài còn nói: "Tôi không thể được sinh ra lần nữa. Nhưng nếu có thể thì tôi muốn sinh ra giữa những người 'không được đụng tới', vì nhớ đó tôi mới có thể giải phóng họ và chính bản thân tôi khỏi cuộc sống khốn khổ". Tóm lại Gandhi đã quên thân phận mình để hòa đồng với những người khốn khổ hầu có thể giải phóng họ.

Hôm nay Đức Giêsu xếp hàng chung với những kẻ khốn khổ để chờ được Gioan làm phép thanh tẩy. Ngài đã quên thân phận mình để hòa mình với những kẻ khốn khổ. Những kẻ khốn khổ ấy là những người tội lỗi, những người nghèo, những người bệnh tật, những kẻ bị xã hội coi khinh. Họ là thành phần đa số trong xã hội Palestina thời đó. Đức Giêsu không tách riêng ra, Ngài không đứng bên lề, không chờ họ đến với Ngài, mà đích thân tìm đến với họ và ở giữa họ.

Chính Chúa Cha từ trời đã vừa ý với sự chọn lựa ấy, nên đã phán: "Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về con" (Viết theo Flor McCarthy)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa của thánh Gioan Tiền Hô, rồi được Chúa Cha tỏ lòng sủng ái, và được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu độ muôn dân. Chúng ta hết lòng cảm tạ và dâng lời cầu xin:

1. Xin cho mọi người đã được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong làm Kitô hữu/ luôn sẵn sàng cộng tác với Hội thánh để đem ơn cứu độ đến cho thế giới.

2. Xin cho mọi người lương thiện đang kiếm tim hạnh phúc thật/ được gặp thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu độ/ và là Đường dẫn tới hạnh phúc thật.

3. Xin cho mọi người đang băn khoăn đau khổ trước cuộc sống đầy bất công và bất hạnh/ biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ơn ban của Chúa Thế giới.

4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đã lãnh nhận bí tích Thêm sức/ luôn nhớ thi hành sứ vụ truyền giáo cho những người chung quanh mình.

Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đã được Rửa tội và được Thêm sức trong Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần của Người để được làm con cái Chúa, xin cho chúng con luôn sống xứng đáng người con yêu của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...

VI. Trong Thánh lễ

Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta cũng được thanh tẩy trong cùng một Thánh Thần như Đức Giêsu và cũng được làm Con yêu dấu của Chúa Cha. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với Đức Giêsu dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.

Trước lúc rước lễ: Thánh lễ là một bàn tiệc, con cái và cha mẹ quây quần bên nhau trong cùng một bàn ăn. Chúng ta được chia xẻ thân phận làm con của Đức Giêsu nên cũng được mời dự bữa tiệc thánh này. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa"

VII. Giải tán

Chúng ta đã được thanh tẩy trong Đức Giêsu và được tuyển chọn bởi Chúa Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho mọi người. Chúng ta hãy ra đi thi hành sứ mạng cao cả ấy. Chúc anh chị em bình an.

 

4. Con chí ái của Cha - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” – Mỗi ngày nên mới, ngày ngày nên mới, ngày tới phải nên mới. Đây là câu tâm niệm của vua Thành Thang khắc trên bồn tắm. Vua cho rằng: Người ta phải gội rửa con tim cho sạch tội nhơ như thân xác phải tắm rửa hàng ngày (Sách Đại Học, I, 1).

Bất cứ ai lương thiện đều cần thiết phải gột rửa tâm hồn hàng ngày. Chẳng ngày nào mà không có lỗi.

Gioan Tẩy giả dù sống trong rừng vắng cũng thấy rõ đời sống con người chồng chất tội nhơ. Sao con người dám đón mừng Đấng Cứu Thế đến! Ông đã quyết tâm từ giã hoang địa, đi rảo khắp miền sông Hòa Giang, hô hào dân chúng sám hối, xuống sông thanh tẩy mình dưới giòng nước trong lành. Từ tẩy sạch thân xác cho mát mẻ, họ sẽ thấm sâu ý nghĩa thanh tẩy tâm hồn để được ơn lành mạnh, thánh thiện của Đấng Cứu Thế đến ban cho họ. Gioan đang làm phép rửa và hô hào như thế, không ngờ, Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế đã khiêm tốn ẩn mình trong đám đông dân chúng đến dìm mình dưới sông cho ông thanh tẩy. “Khi Người vừa lên khỏi nước, các tầng trời mở tung ra, Thánh Thần tựa như chim câu ngự xuống trên Người và từ trời có tiếng phán rằng: “Con là Con chí ái của Cha, Cha rất hài lòng về Con”.

Thật kinh ngạc, hôm nay Người đến thánh hóa giòng nước nhờ thân xác chí thánh của Người và nhờ Thánh Thần từ trời xuống trên Người. Chính nước thánh Người ban mới có sức thiêng liêng thanh tẩy tâm hồn vô hình được hoàn toàn trở nên trong sạch, tẩy trừ mọi vết nhơ tội lỗi, cho ta xứng đáng trở nên con yêu dấu của Chúa Cha.

Thế nhưng, người nông nổi bảo: Nước nào cũng thế thôi. Đại tướng Naaman cũng nghĩ thế khi tiên tri Êlisê bảo ông đến tắm nước sông Hòa Giang bảy lần thì khỏi bệnh phong cùi. Ông đã tức giận nói: Nước sông ở nước ta không sạch hơn nước sông ở Israel sao? Ông giận dữ đã bỏ về. Thuộc hạ đã can ông rằng: “Nếu tiên tri bảo đại tướng làm những kỳ công để khỏi bệnh, đại tướng còn làm. Huống chi một việc dễ như vậy, sao đại tướng không làm?”. Naaman đã nghe và xuống sông tắm, da ông được sạch và đẹp đẽ như da trẻ thơ. (2V. 5).

Nước suối Lộ Đức đã làm cho hàng ngàn bác sĩ phải kinh ngạc. Nước đó cũng giống như bao nhiêu nước suối khác. Nhưng với lòng tin, ơn Chúa đã ban cho bao nhiêu bệnh nhân được khỏi bệnh thân xác và tâm hồn một cách lạ lùng, như trường hợp cơn bệnh của nhà bác học nổi tiếng: Bác sĩ Alexis Carrel. Năm 1947, cô Marie Ferrand bị bệnh lao ruột, cả Hội đồng bác sĩ ở Paris khám bệnh đều chắc chắn cô sắp chết. Nhưng cô đã xin được đến tắm suối Lộ Đức. Bác sĩ Carrel đã đi theo để xem xét cô cẩn thận và khuyên không nên cho cô tắm suối vì sẽ chết khi chưa xuống tới suối. Tuy nhiên, để làm vui lòng bệnh nhân, người ta đưa cô xuống tắm nước suối. Thật lạ lùng, cô Marie đã khỏi. Bác sĩ Carrel lấy bút ghi ngay vào tay áo: “2g40 thật bất ngờ, một phép lạ mới xảy ra”. Nước suối với lòng tin mạnh mẽ của cô, cô được khỏi bệnh đã làm cho nhà khoa học vô thần Carrel trở lại, chịu phép Rửa tội Công giáo. Còn bao nhiêu nhà vô thần vị vọng khác đã được khỏi chết đời đời, nhờ một thứ nước thiêng, lạ lùng hơn nước suối Lộ Đức là nước thánh Rửa tội, nước bởi nguồn yêu thương của Thánh Thần chảy ra từ cạnh sườn và trái tim Đức Giêsu Kitô. “Ai không sinh bởi nước và Thánh Thần thì chẳng được vào nước Trời” (Ga. 3, 5).

Mỗi người chúng ta đều được nước thánh ấy đổ trên đầu nhân danh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Đấy là một công trình tạo dựng mới, một cuộc phục sinh trong Chúa Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại để sống trong sự sống của Chúa Ba Ngôi. Sự sống ấy đầy tràn sức mạnh của Chúa Thánh Thần qua việc xức dầu thánh. Sự sống ấy được bao phủ bằng tấm áo trắng thánh thiện tinh tuyền của Đức Kitô. Sự sống ấy còn được ánh sáng nến phục sinh đốt sáng lên, cho ta xứng đáng là con cái của ánh sáng muôn đời chiếu tỏa trên những kẻ còn ngồi trong tối tăm sự chết.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến thánh hóa giòng nước trần gian, cho thế nhân nguồn nước trường sinh. Nguồn nước thanh tẩy tội lỗi, nguồn nước tạo dựng con người mới biến đổi con người tội lỗi trở nên con chí ái của Thiên Chúa, trong thân thể phục sinh sáng láng của Đức Kitô, trong nguồn sống vinh quang muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Xin cho chúng con biết trung thành sống trong nguồn nước Thần Linh chí thánh ấy, cho thân xác chúng con được mạnh khỏe, cho tâm hồn chúng con được tươi mát, cho đời sống chúng con thành ánh sáng thế gian. Amen.

 

5. Phép Rửa của Chúa Giêsu thanh luyện chúng ta

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay khép lại mùa Giáng sinh và cũng là một “sự hiển linh khác” của Đức Chúa. Hôm nay không phải cảnh lặng lẽ trong hang lừa với vài chàng mục đồng chứng kiến. Nhưng, Phép rửa được cử hành như một nghi lễ công cộng với nhiều người xung quanh. Những người này ý thức rằng cuộc đời họ tội lỗi hôm nay đến đón nhận phép rửa của ông Gio-an trong dòng sông Giođan để tỏ lòng sám hối.

Đức Giêsu hôm nay đến cũng bước vào dòng nước ấy, và nhận phép rửa bởi ông Gioan nhưng không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Vì chưng Chúa Giêsu đâu có tội làm chịu phép rửa của ông Gioan để tỏ lòng sám hối. Chúa Giêsu chịu phép rửa là có ý nói lên: từ nay, Người chung số phận với người tội lỗi. Ngài dìm xuống để vớt mọi người lên và đó là tất cả ý nghĩa đời Người. Cuộc đời của Chúa Giêsu hoàn tất với Phép Rửa cuối cùng, của sự chết (Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi. Cho nên hôm nay Chúa Giêsu để cho Gioan dìm mình có ý loan báo cái chết và sự phục sinh của Người: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại. Cho nên, bài đọc 2, Thánh Gioan đã khẳng định rằng: “Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật”. Vì vậy, Giáo lý Hội Thánh dạy: “Trong cuộc Vượt Qua của mình, Ðức Ki-tô đã khai mở nguồn mạch của bí tích Rửa Tội cho tât cả mọi người. Qủa thật, Người đã nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem như "một Phép Rửa" mà Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị bị đâm thâu của Chúa Giêsu chịu đóng đinh (Ga 19,34) là những điển hình của bí tích Rửa Tội và Thánh Thể, là những bí tích của đời sống mới (x.1Ga 5,6-8): từ lúc đó, người ta có thể được "sinh ra bởi nước vàThần khí " để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5)” (số 1225).

Khi chúng ta nhận lãnh bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào sự chết và sống lại của Người. Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong phép rửa tội chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, tội tổ tông và tội riêng. Do đó, nó biến chúng ta thành “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), một nghĩa tử của Thiên Chúa (Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (2Pr 1,4), trở nên chi thể của Chúa Kitô (Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,15). Tóm lại, “toàn bộ cơ thể của sự sống siêu nhiên của người Kitô hữu bắt nguồn nơi bí tích Rửa tội (Giáo lý Công giáo, số 1266).

Như vậy, khi được Rửa Tội, chúng ta dĩ nhiên cũng được mời gọi tiếp nối sứ mạng liên đới của Chúa Giê-su trong hoàn cảnh của bạn nơi giáo xứ, gia đình, xóm phố, nơi học hành, nơi làm việc... Sứ mạng này không phải là việc tuỳ ý để mình thích làm hoặc không, mà là một bổn phận được lãnh nhận từ Thiên Chúa. Thiên Chúa chờ đợi bạn thi hành bổn phận này là làm cho Nước Chúa trị đến ý Chúa thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Đó là:

Trước hết, chúng ta hãy siêng năng tham gia tích cực các hoạt động trong việc phục vụ Giáo xứ của mình dù có cực nhọc hay khó khăn vì chính những dòng nước khó khăn và cực nhọc ấy sẽ thanh luyện chúng ta khỏi những gì biến nhác và vô dụng trong việc mở mang Nước Đức Chúa Trời. Thứ hai khiêm tốn, cảm thông và tha thứ là những dòng nước của Chúa Giêsu giúp thanh luyện đời sống gia đình mình vượt khổ trong hạnh phúc và bình an đồng thời xây dựng mọi thành viên trong gia đình lớn lên trong ân nghĩa với Chúa và đầy nhân đức trước mặt mọi người. Cho nên, trong bài giảng thuyết về Bí Tích Rửa Tội, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng: “Nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta có khả năng tha thứ và yêu thương ngay cả những người xúc phạm đến mình và làm tổn thương mình, chúng ta có thể nhận ra trong những người rốt hết và những người nghèo khổ nhất khuôn mặt của Chúa là Đấng đến thăm và gần gũi chúng ta.” Thứ ba, thật thà, lương thiện và công bằng là những dòng nước rửa và thanh luyện ta đồng thời làm cho ta sống với anh chị em trong khu phố, trường học hay nơi làm việc như thế người ta mới nhận ra Nước Chúa đang hiện diện ở giữa họ. Cuối cùng, tình yêu và bình an là những dòng nước của Chúa Giêsu tới gội đời ta khiến ta cảm nghiệm được sự ấm áp và tươi sáng của cuộc đời dù cuộc đời ta có gian nan khốn khó.

Ước gì, Lời Chúa trong Bài đọc 1 sẽ là điều Chúa muốn chúng ta thực hiện hôm nay rằng: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”. Allêluia.

 

6. Suy niệm của Lm VIKINI

1- Nếu tôi là dân Do thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Đức Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Gióc đan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói: “Hãy dọn đàng cho Đấng Cứu thế đến”. Rửa xong tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.

Thực tế hàng ngày đã xẩy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dậy: “Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con”. Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu thế đang ở với tôi.

2- Nếu tôi được làm địa v ca Gioan tin hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu thế, tôi sẽ tự đắc hô to: đấy tôi nói có sai đâu, Ngài đến đây nè... rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do, giầu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại, ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ”. Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu thế: dù phải chặt đầu ông vẫn luôn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.

3- Còn Đức Giêsu, Người rt t tn và n mình tuyt diu hơn na. Người đã thưa lại Gioan: “Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế”. Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế, cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong giòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.

Ly Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết kính nhường nhau, đó chng phi là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phn làm người, làm Kitô hu cho Đấng Cu thế, chc chn chúng con s được Người thanh ty và kết np chúng con vào nhà Cha chí ái trên tri.

 

7. Người con yêu quý

Vào thế kỷ thứ IV, Ario truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại. Ario chủ trương rằng Đức Kitô không thực sự là Con Thiên Chúa. Hoàng đế Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này. Cũng vào lúc ấy hoàng đế phong cho hoàng tử mới 16 tuổi của ông được cùng trị vì trên ngai vàng với ông. Trong những khách được mời đến dự buổi lễ phong vương, có Đức Giám mục Amphilôcô. Đức Giám mục chỉ nói vài lời chúc mừng rồi chuẩn bị ra về. Hoàng đế giận dữ hỏi: Ngài không quan tâm đến hoàng tử sao? Ngài không biết rằng ta phong cho hoàng tử cùng trị vì với ta hay sao? Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: Tâu hoàng thượng, hoàng thượng phật ý trước sự giả bộ thơ của tôi đối với hoàng tử, vì tôi đã tỏ ra không tôn kính hoàng tử như bệ hạ mong muốn. Vậy Thiên Chúa sẽ nghĩ sao về hoàng thượng, khi hoàng thượng giáng cấp Người Con ngang hàng và cùng hiện hữu với Ngài dưới danh hiệu Con Thiên Chúa.

Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Ngày nay có nhiều người, kể cả một số người mệnh danh là Kitô hữu, đã chối bỏ hoặc nghi ngờ thiên tính của Đức Kitô. Thiết tưởng những người ấy hãy lắng nghe lời Chúa Cha tuyên phong trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.

Việc Đức Kitô chịu phép Rửa bởi Gioan đánh dấu bước khởi đầu công cuộc cứu độ của Ngài. Công cuộc trọng đại này là hành động của cả Ba Ngôi, vì chúng ta thấy Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống, đồng thời Chúa Cha phán bảo. Biến cố này rất quan trọng, nên Giáo Hội muốn chúng ta mừng kính riêng trong Chúa nhật hôm nay, tựa như ngày đăng quang của Đức Giáo Hoàng hay ngày nhận chức của một tổng thống.

Đặc điểm chúng ta cần nhấn mạnh đó là Chúa Cha trên trời hài lòng về Người Con yêu quý của Ngài, là Đức Kitô. Có người cha nào lại không vui mừng khi người con của mình khởi sự một chức vụ quan trọng: người cha của một bác sĩ, người cha của một tân linh mục, người cha của chú rể trong ngày cưới. Niềm vui ấy càng lớn lao hơn khi người con ấy vâng phục và tôn kính cha mình.

Đức Kitô là một người con yêu mến và vâng phục Chúa Cha. Đồng thời Ngài luôn khoan dung và khiêm tốn như một kẻ tôi tớ, vì thế, Chúa Cha luôn hài lòng về Ngài. Còn chúng ta thì sao?

Với bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên trời, khi chúng ta cố gắng chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, khi chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm của bí tích Rửa Tội, khi chúng ta cố gắng noi theo Người Con Chí Thánh trong sự khiêm tốn và vâng phục, thì chúng ta cũng làm hài lòng Cha trên trời, để rồi trong ngày cuối cùng, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giođan: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.

 

8. Công dân Nước Trời

Ngày xưa người ta có mt quan nim rt ng nghĩnh v vũ tr. H chia vũ tr thành ba tng chng lên nhau. Tng trên cùng là tri hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa cư ng. Tng gia là đất, nơi loài người và muôn vt sinh sng. Tng chót là âm ph, nơi con người s đến sau khi chết.

T khi Adong Eva phm ti, thì tng gia, tc thế gii sinh vt ngày càng tr nên ti t. Vì thế, các thánh luôn cu xin Chúa t tri ng xung để cu giúp nhân trn. Chng hn tiên tri Isaia đã nài van: Sao Ngài không xé bu tri mà ng xung vi chúng con.

Từ quan niệm trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta sẽ dừng lại ở ba sự kiện:

S kin th nht, đó là bu tri m ra. Và như thế lời cầu xin của các vị thánh ngày xưa đã được chấp nhận. Thiên Chúa đã đến với nhân loại, khởi đầu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử.

S kin th hai, đó là Thn khí Chúa dưới hình chim b câu ng xung trên Ngài. Sự kiện này nhắc cho chúng ta nhớ lại lúc bắt đầu công cuộc tạo dựng. Thần khí Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Và như thế, cùng với Đức Kitô, Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo, việc canh tân thế giới hay nói cách khác, Ngài thực hiện một công cuộc tạo dựng mới.

Và sau cùng, s kin th ba, đó là tiếng nói t tri: Này là con Ta yêu du, đẹp lòng Ta mi đàng. Sự kiện này muốn xác quyết rằng: Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới, là trưởng tử của công cuộc tạo dựng mới này, như lời thánh Phaolô đã viết: Người thứ nhất là Adong từ đất mà ra nên thuộc về đất. Còn người thứ hai là Đức Kitô từ trời mà đến. Chúng ta đã mang trong mình hình ảnh con người bởi đất, tức Adong cũ thế nào, thì chúng ta cũng phải mang lấy hình ảnh con người bởi trời, tức Adong mới như vậy.

Từ đó chúng ta đi tới kết luận: Chúng ta là công dân của hai thế giới, bởi vì chúng ta mang trong mình hình ảnh của Adong thứ nhất cũng như của Adong thứ hai. Chúng ta chia sẻ sự sống với cả hai vị này. Kinh nghiệm cho thấy: Chúng ta đã từng bị lôi cuốn về mặt xác thịt của Adong thứ nhất, nhưng đồng thời cũng được sự thôi thúc về tinh thần của Adong thứ hai. Chúng ta thường bị xâu xé giữa sự thiện và sự ác, để rồi sự thiện chúng ta muốn thì chúng ta lại không làm, còn điều ác chúng ta ghét thì chúng ta lại làm.

Ý thức được như vậy, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn bước đi trên đường nẻo của Ngài, thực thi những điều Ngài truyền dạy, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được Ngài tuyên phong vào ngày sau hết: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.

 

9. Này Là Con Ta Yêu Dấu

Biến cố ngày hôm nay quả thực đã làm cho chúng ta ngỡ ngàng không ít. Thực vậy, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa nơi một kẻ tội lỗi, trong khi Ngài là người con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng đã có lần tuyên bố: Ai trong các ngươi bắt lỗi Ta được về sự gì? Thế nhưng, Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ như có lần Gioan đã giới thiệu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Ngài xoá tội trần gian bằng cách gánh lấy tội ấy.

Hành động chịu phép rửa phải chăng là một sự mở đầu cho sứ vụ của Ngài, đồng thời cũng là một dấu chỉ báo hiệu những gì sẽ xảy đến.

Có một lần, các con của Giêbêđê, bày tỏ ước vọng với Ngài là muốn được ngồi bên tả bên hữu Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: Các con không ý thức được điều các con xin. Các con có thể uống được chén Ta phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy mà Ta phải chịu hay không?

Như thế là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy chính là cuộc thống khổ, kết thúc bằng cái chết trên thập giá. Cuộc thanh tẩy ấy được thực hiện không phải chỉ bằng nước sông Giođan và từ tay của Gioan, mà là bằng máu của chính Ngài. Chúa Giêsu chịu thanh tẩy tại sông Giođan là hình ảnh của nhân loại được thanh tẩy trong cái chết của Ngài, được sống lại trong sự phục sinh của Ngài và trở thành những người con của Thiên Chua.

Nơi Đức Kitô, phép rửa hay phép thanh tẩy đã không còn là một nghi lễ, mà đã trở thành một cuộc sống. Tội lỗi đã bị đánh bại không phải bằng nước của phép rửa mà là bằng máu của sự sống. Bí tích thanh tẩy làm cho Kitô hữu trở thành con Thiên Chúa cũng không thể chỉ là một nghi lễ được lãnh một lần rồi thôi, mà phải là chính cuộc sống làm con Thiên Chúa, cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Không phải chỉ là đẩy lui tội lỗi ra khỏi cuộc sống của cá nhân mình, mà còn là ra khỏi nhân loại.

Vì thế, thờ ơ trước những tội ác diễn ra chung quanh, trước những bất công xã hội, trước những vi phạm quyền con người, trước những gian dối và thù hận, người Kitô hữu không còn là người Kitô hữu đích thật nữa vì đã không chu toàn lời cam kết khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Chính qua cuộc sống dứt khoát với tội lỗi mà người Kitô hữu bày tỏ được ý thức của mình về địa vị cao cả mà bí tích Rửa tội đã đem lại, đồng thời làm chứng về tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người Kitô hữu có trách nhiệm phải làm sao để tiếng từ trời cũng được lặp lại với từng người trong nhân loại: Này là con Ta yêu dấu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.

 

10. Còn chăng “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”?

(Suy niệm của Anmai CSsR)

Người ta vẫn thường nói hay đúng hơn là người ta vẫn thường thích cái gì là mới, còn những gì là cũ người ta lại ít trân trọng. Thử hỏi trong nhân gian được mấy người chơi đồ cổ. Chưa chắc chơi đồ cổ vì đã thích đồ cổ vì có thể thích được nổi tiếng hay nắm giữ trong tay tài sản quý chứ thật sự để mà quý mến, để mà trân trọng chắc được mấy người? Người ta vẫn thường ví cho những cái mới được trân trọng bằng câu nói: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy!”. Vậy thì sau “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” con người sẽ ra sao? Thường thì phai dần và nhạt dần theo năm tháng nếu như ta không dừng lại để nhìn, để xem lại vấn đề để mà trân trọng, để mà quý mến.

Một người tu sĩ, ngày khấn dòng với biết bao nhiệt huyết, biết bao nhiêu ơn Thánh, đặc biệt là Thần Khí Chúa sẽ rất quyết tâm, rất cương quyết với lời tuyên khấn của mình. Đơn giản nhất một lời khấn mà người tu thường khấn đó là sự khó nghèo. Sau ngày khấn là những ngày hội nhập với cộng đoàn, cộng đồng vì mãn thời gian Tập Viện. Những ngày ấy riêng về khoản khó nghèo thôi, thử hỏi được mấy người sống được cái thuở ban đầu đơn sơ của đời tu hay là cứ vun vén về cho mình đầy phòng. Nếu thi thoảng không đặt mình xem lại mình về những lời mà mình tuyên khấn thì cũng sẽ quên và lại vun vén, vơ vét cho mình đầy vật chất.

Một linh mục, trong cái ngày được đặt tay để nhận ơn Thánh trong sứ vụ của mình sao mà hay quá! “Con có hứa vâng phục Giám mục và bề trên hợp pháp của con không?” khi nghe Giám mục chủ sự Thánh lễ truyền chức hỏi thì tất cả các ứng sinh nhanh nhảu đáp “Thưa con hứa!”. Và nữa, “con hãy nhận lấy lễ vật này mà dâng lên Thiên Chúa, con hãy rập đời sống con theo Mầu Nhiệm Mình và Máu Thánh Chúa”. Khi ấy, lòng trào dâng ơn Thánh và niềm vui, ứng sinh phấn khởi thưa vâng để lãnh nhận sứ vụ linh mục cao cả mà Thiên Chúa thương ban. Thế nhưng, cuộc đời vị linh mục đâu đơn giản như mọi người nghĩ, đâu thanh thản như mọi người thấy. Những lúc bình lặng của cuộc đời thì không sao nhưng thử hỏi những lúc gặp gian nan thử thách thì cái thuở ban đầu, cái mối tình giữa vị Thiên Chúa mà bao lâu nay vị linh mục theo đuổi còn được bao nhiêu?

Hai vợ chồng trẻ cũng thế! Những ngày đầu đến với nhau, cưới nhau sao mà vui quá, sao mà hạnh phúc quá, sao mà quấn quýt bên nhau thế nhưng rồi những ngày sau đó ra sao? Những ngày chồng ốm, vợ bệnh, con đau còn có còn chăng cái thuở ban đầu, cái vẻ đẹp của ngày mới cưới, cái hồn thiêng của lời thề hứa khi cử hành bí tích Hôn phối chăng? Những ngày mới quen nhau, những ngày mới yêu nhau, những ngày mới cưới sao mà nó hay quá nhưng khi cưới rồi nó như thế nào?

Và rồi, trước khi tuyên lời khấn dòng, hứa sống sứ vụ linh mục hay thề hứa sống đến ngày “răng long đầu bạc” tuỳ theo ơn gọi của mình mỗi kitô hữu phải sống cái Bí Tích Thanh Tẩy hay còn gọi là Phép Rửa mà mỗi người lãnh nhận. Phép Rửa mà chúng ta khi lãnh nhận, căn cốt nhất của Phép Rửa ai ai cũng biết đó là lòng tin, tin nhận vào Đức Giêsu Kitô là Chúa. Như Thánh Gioan trong thư của Ngài vừa nhắc nhở chúng ta:

“Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô,

kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra.

Và ai yêu mến Đấng sinh thành,

thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.

Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được

mình yêu thương con cái Thiên Chúa:

đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa

và thi hành các điều răn của Người.

Quả thật, yêu mến Thiên Chúa

là tuân giữ các điều răn của Người.

Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu,

vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian.

Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian,

đó là lòng tin của chúng ta”. (1 Ga 5, 1-4)

Thánh Gioan nói rất rõ ràng chứ không mập mờ, không hai ý. Ngài nói rõ ràng: Tin là yêu mến! Đơn giản có thế thôi!

Thật ra mà nói, không đơn giản và không dễ chút nào cả.

Như người tu sĩ, linh mục cũng thế, thuở ban đầu quá tin nên quá yêu mến! Đơn giản quá sức nhưng dần dà, thời gian trôi theo năm tháng có còn tin, có còn yêu mến như ngày đầu như đã nói không mới là chuyện quan trọng.

Như hai vợ chồng, ban đầu cũng tin, cũng yêu mến nhưng thời gian dần trôi có còn tin, có còn yêu mến hay không mới là chuyện cần bàn.

Hôm nay, nhân cái ngày mà Chúa Giêsu ra sông Giođan để cho ông Gioan để lãnh nhận Phép Rửa cũng là dịp, là duyên để mỗi người chúng ta nhìn lại Phép Rửa mà chúng ta tin nhận. Cái thuở ban đầu, cái mối tình đẹp giữa ta và anh Hai Giêsu mà ta tin theo còn được bao nhiêu hay là nó cũng nhạt dần, nó cũng phai dần.

Ngày hôm nay, không chỉ ở thành thị, đời sống tôn giáo, lòng tin - cậy - mến vào Thiên Chúa bị giảm sút mà cả ở thôn quê. Điều này gợi lên cho ta nhiều suy nghĩ. Một thực trạng hết sức đau lòng đó là ở những vùng quê nghèo, ban đầu họ theo Chúa, họ tin Chúa rất dễ thương. Sau bao năm tháng, vị linh mục đặc trách cùng với giáo dân miệt mài xây cho cộng đoàn giáo xứ ngôi Thánh Đường thật to, thật lộng lẫy, thật khang trang nhưng lượng giáo dân đến tham dự Thánh Lễ, cử hành các Bí Tích nó cứ giảm dần theo năm tháng. Được biết một ngôi nhà thờ thật là to, tốn không biết bao nhiêu công sức mới tạo dựng. Tưởng chừng ngôi nhà thờ ấy sẽ đáp ứng, sẽ thoả mãn nhu cầu Phụng Vụ nhưng nào ngờ, ngày thường chỉ có loe ngoe vài mạng nên phải dùng tầng hầm của ngôi Thánh Đường đó để dâng lễ! Không chỉ một mà cũng có nhiều Thánh Đường bây giờ rơi vào tình trạng đáng buồn này.

Nguyên nhân của tình trạng này có lẽ là mỗi người chúng ta đã không còn đi đúng đường lối mà Thiên Chúa chỉ dạy, lòng tin mà lòng mến mà Thánh Gioan đã nói. Ngôn sứ Isaia đã nói với chúng ta qua bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”. (Is 55, 8-11)

Chúng ta, thường rơi vào căn bệnh của chúng ta, rơi vào cái lý luận cùn của chúng ta chứ chúng ta không đi theo đường lối của Thiên Chúa. Tư tưởng của ta lúc nào cũng khác xa tư tưởng của Thiên Chúa vậy mà chúng ta cứ tưởng chúng ta hơn Chúa mới là lạ!

Isia đã không nhắc nhớ chúng ta sao?

Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống,

tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng?

Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon,

được thưởng thức cao lương mỹ vị.

Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống.

Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu,

để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít. (Is 5, 2-3)

Chúng ta vẫn cứ mãi cắm cúi đi tìm những cái gì mà không làm cho chúng ta được sống như Chúa nói. Chúng ta vẫn đi tìm cho chúng ta những thứ gì mà sẽ mất ngày mai.

Nhà thơ Tuý Linh đã để lại cho chúng ta câu thơ rất hay:

“Sống trong cuộc đời này không phải để giành giật

Những gì mà ta sẽ mất ngày mai”.

Vâng! Chúng ta nhận Phép Rửa nhiều năm nhưng chúng ta vì lý do này lý do khác đã nhạt nhẽo với tình yêu thuở ban đầu của Thiên Chúa. “Cái thuở ban đầu lưu luyến” giữa ta và Chúa còn đơn sơ, còn mộc mạc, còn dễ thương, còn chân thành như cái ngày mới nhận Phép Rửa hay không? Điều này chỉ có ta và Chúa biết mà thôi.

Hôm nay, xin Chúa nhắc nhớ chúng ta về Phép Rửa mà ta đã tin nhận. Nhận Phép Rửa là Tin, Tin ấy lại biểu lộ ở Tình Yêu. Xin Chúa là Vua Tình Yêu đến và ở lại với mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta yêu Chúa và yêu anh chị em đồng loại hơn.

home Mục lục Lưu trữ