Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1367154

HÒA HỢP TIỀN ĐỊNH

Hoà hợp tiền định - Achille Degeest

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Đang là mùa đông, người ta mừng lễ Cung hiến ở Giêrusalem. Đức Giêsu đi lại trong Đền Thờ. Một nhóm người Do Thái vây quanh, và yêu cầu Chúa nói trắng ra về thân thế Người. Người có đúng là Đấng Mêsia không? Thật vậy, Thày đã công nhiên nói xa xôi cho người ta hiểu Thày chính là Đấng Mêsia. Có những người đơn sơ, không rắc rối, có thiện chí, đã hiểu được về bí mật thân thế Chúa và tin vào Chúa, chẳng hạn người phụ nữ Samaria và kẻ mù bẩm sinh. Người ta cảm thấy những kẻ chất vấn Chúa nhiều phần thắc mắc khó chịu về Chúa, hơn là sẵn lòng nghe Chúa với một tâm hồn cởi mở. Chúa muốn cho những kẻ nặng óc thành kiến phải bỡ ngợ. Chúa không theo lối suy diễn của họ. Vì lẽ họ cho rằng hệ thống suy diễn của mình không thể sai lầm, ông Giêsu này nhất định sẽ lộ hình tích, chính ông đưa ra một lời khai đúng cách, lúc đó họ sẽ có quyền ném đá ông. Đức Giêsu không do dự. Người đưa ra câu đáp trên hai bình diện: tâm tình thích hợp để dễ dàng tiếp nhận chân lý và Kinh Thánh với một giá trị không thể bác bỏ (Lời Chúa viện dẫn Kinh Thánh tiếp ngay sau đoạn Phúc Âm hôm nay). Hai câu hỏi được đặt ra;

1) Tại sao người Do Thái ngoan cố chối bỏ Đức Giêsu? Chúa bắt đầu bằng cách mời gọi họ thấy gì thì tin thế, bởi những việc Người làm nhân danh Cha Người đều làm chứng cho Ngài. Tuy nhiên Chúa nói tiếp ngay, nếu họ bác bỏ bằng chứng ấy, chính vì cớ tâm hồn họ không phù hợp với sứ điệp của Chúa. Họ đã nhất quyết lối xét đoán sự việc của họ là tốt. Thế mới con mắt người ta nhìn thực tại theo khuynh hướng của mình. Nếu thực tại không phù hợp với hệ thống suy diễn của mình, người ta cho rằng chính thực tại là sai. Nhận định này có giá trị sâu sắc đối hành vi tin. Để thực hiện một hành vi tin, trước hết con người phải chấp nhận để cho ân huệ chuẩn bị tâm hồn cách bí nhiệm. Nhưng nhận định này cũng có giá trị đối với phẩm chất của hành vi tin. Nhiều người tự nhận mình tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhưng tin vào Đức Kitô nào? Dưới khía cạnh triết lý, xã hội, chính trị, v.v… nào? Luôn luôn chúng ta có lý để băn khoăn không biết con mắt chúng ta có đủ trong sáng không để nhìn Đức Giêsu Kitô?

2) Ý nghĩa câu: không ai giật chúng khỏi tay Ta được là gì? Câu đó có nghĩa: không một quyền năng ngoại giới nào có thể giật người Kitô hữu rời khỏi tay Đức Kitô. Sự trợ giúp của Chúa sẽ mạnh mẽ vô cùng để thắng những khó khăn ngoại giới. Tuy nhiên tại sao có những vụ bất trung bất nghĩa, có cả những vụ bỏ đạo chối Chúa nữa? Sở dĩ như vậy vì quyền năng vô biên của Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do tư tưởng của con người. Khi một Kitô hữu xa lìa Chúa, không phải vì Chúa bỏ kẻ ấy, mà chính vì kẻ ấy bỏ Chúa. Cả trong trường hợp đó, Chúa Kitô không rút lại niềm thương yêu của Chúa. Chúng ta hạy nhớ dụ ngôn cho chiên lạc. Tới đây chúng ta đối diện với một vực thẳm bí nhiệm thứ hai. Không những tâm hồn có thể từ chối phù hợp với hành vi tin, mà còn có thể huỷ diệt niềm tin của mình sau khi đã dâng hiến. Chúng ta không được choáng váng trước bí nhiệm ấy, mà phải tăng cường cảnh giác trong niềm trung tín. Nói đơn giản hơn, chúng ta hãy tin chắc rằng, đáp ứng thiện chí hằng ngày của chúng ta, Chúa nắm vững chúng ta trong tình yêu của Người.

 

31.Suy niệm Chúa Nhật 4 Phục Sinh

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Hằng năm vào Chúa Nhật IV, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sỹ. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta suy niệm về gương Mục Tử Nhân Lành Giêsu. Đồng thời, chúng ta hãy xét lại bổn phận của chúng ta là đàn chiên đối với vị Mục Tử của mình và một cách nào đó chúng ta cũng là mục tử đối với những người khác.

1. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành

Tại đất nước Do Thái, chủ chiên và đàn chiên luôn gắn bó mật thiết với nhau. Chủ chiên đi trước, đàn chiên theo sau. Đàn chiên bao giờ cũng nghe theo tiếng của chủ chiên. Chủ chiên biết từng con chiên: Chiên nào mạnh khoẻ, chiên nào đau yếu. Chiên càng đau yếu thì chủ chiên càng quan tâm chăm sóc. Hình ảnh người mục tử bỏ chín mươi chín con khác để đi tìm con chiên lạc nói lên điều đó (x. Lc 15, 4-7).

Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự nhận mình là chủ chiên. Ngài biết rõ từng con chiên là mỗi người chúng ta “Ta biết chúng và chúng theo Ta”. Cách biết của Ngài khác với cách biết bình thường của con người. Cách biết của Ngài giống như Thánh vịnh 139 diễn tả: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả” (Tv 139, 1-2). Ngài biết chúng ta như biết Na-tha-na-en trước khi ông đến trình diện với Ngài: “Ông Na-tha-na-en hỏi Người: "Làm sao Ngài lại biết tôi? " Đức Giê-su trả lời: "Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi" (Ga 1, 48). Ngài biết chúng ta, như Ngài biết người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm khi bà đụng vào gấu áo của Ngài (x. Mc 5, 24-35). Ngài biết chúng ta, như Ngài biết ông Giakêu khi ông đang ngồi trên cây sung (x. Lc 19, 1-10). Ngài biết cả những suy nghĩ của chúng ta dù chúng ta chưa nói ra, như Ngài biết những tư tưởng của các kinh sư (x. Mc 2, 1-12).

Ngài biết để tha thứ, biết để cứu chữa, biết để chỉ dạy và thậm chí Ngài biết để quở trách những khi cần. Thật vậy, Ngài đã tha thứ tội lỗi cho Giakêu, Mathêu. Ngài cứu chữa cho người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm. Ngài quở trách những người kinh sư để giúp họ trở về nẻo chính đường ngay. Ngài chỉ dạy cho ông Na-tha-na-en làm cách nào để được cứu rỗi. Ngài đã quan tâm con người cả phần hồn lẫn phần xác. Hình ảnh Con Chiên mà sách Khải Huyền đề cập đến, chính là hình ảnh của chính Ngài. Ngài chăn dắt và dẫn đưa chúng ta tới nguồn nước trường sinh (x. Kh 7,17). Ngài hứa ban cho chúng ta sự sống đời đời (x. Ga 10,28). Ngài chính là Vị Mục Tử Nhân Lành. Ngài biết chúng ta và Ngài quan tâm săn sóc chúng ta.

2. Chúng ta là đàn chiên của Chúa

Mỗi người chúng ta chính thức trở thành chiên của Chúa khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Chiên của Chúa thì phải đi theo Chúa. Chiên của Chúa thì phải lắng nghe tiếng Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta”. Tiếng của Ngài ở đâu? Tiếng của Ngài được thể hiện qua: Kinh Thánh; huấn quyền của Giáo Hội; đời sống cầu nguyện; qua việc thực thi những điều mình đã thề hứa khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.

Chúng ta không nghe tiếng Chúa khi chúng ta phạm tội trọng, lỗi phạm lời thề hứa khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta không nghe tiếng Chúa khi chúng ta không tuân phục Đức Giáo Hoàng và các huấn lệnh của Giáo Hội. Chúng ta không nghe tiếng Chúa khi chúng ta ghen ghét đố kỵ với anh chị em mình, không muốn cho anh chị em mình nên tốt hơn. Đó là thái độ của những người Do thía mà chúng ta nghe sách Công Vụ Tông Đồ kể lại trong bài đọc I: khi có nhiều người theo và nghe lời giảng dạy của ông Baraba và ông Phaolô, thì những người Do thái ghen tức, họ phản đối và nhục mạ ông Phaolô. Thậm chí họ tìm cách ngược đại và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Khi họ từ chối lời rao giảng của hai ông, thì hai ông đem Lời Chúa đến rao giảng cho dân ngoại. Thánh Phaolô nói: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất”.

Nếu chúng ta nghe tiếng Chúa thì thuộc về đàn chiên của Chúa, ngược lại chúng ta sẽ không còn là đàn chiên của Chúa nữa mà chính là kẻ thù của Chúa. Trong ngày phán xét chung, Chúa Giêsu là vị thẩm phán sẽ tách biệt loài người thành hai: Bên phải là chiên, bên trái là dê. Chiên là những người lành. Dê là những kẻ dữ (x Mt 25, 31-46). Ngay bây giờ chúng ta đang là chiên hay là dê ? Hy vọng chúng ta là những con chiên ngoan hiền của Chúa.

3. Mỗi chúng ta là mục tử đối với những người khác

Chúa là mục tử của mỗi người chúng ta. Nhưng mỗi người chúng ta cũng là những mục tử của những người khác khi thông dự vào mục tử Giêsu: Đức Giáo Hoàng là mục tử của Giáo Hội; Đức Giám Mục chính toà là mục tử của các tín hữu trong Giáo Phận Ngài coi sóc; Cha xứ là mục tử của các tín hữu trong giáo xứ của mình; Thầy cô giáo lý viên là mục tử của học sinh; Cha mẹ mà mục tử của con cái…Hãy trở thành những mục tử nhân lành, mục tử như lòng Chúa mong muốn. Bậc làm cha làm mẹ hãy quan tâm nhiều hơn tới con cái. Tôi đọc được câu chuyện sau đây trên mạng internet. Nếu cha mẹ nào nghe được nội dung câu chuyện này, chắc chắn cũng phải nghĩ lại thái độ của mình để quan tâm con cái nhiều hơn. Câu chuyện với tựa đề: “Con ước được làm một chiếc điện thoại di động!” Chuyện kể rằng: Sau bữa tối, một cô giáo tiểu học bắt đầu chấm bài cho học sinh. Chồng cô ngồi bên cạnh, dán mắt vào màn hình điện thoại di động, cố gắng phá vỡ kỷ lục trò Candy Crush Saga anh đã dày công nghiên cứu cả tháng trời. Bỗng nhiên, bầu không khí yên lặng bị phá vỡ bởi tiếng sụt sịt của người vợ. Thấy mắt cô đang rơm rớm, anh vội quay sang vợ hỏi nhỏ: “Này em, sao tự dưng lại khóc? Có chuyện gì à?”

Người vợ thổn thức trong nước mắt: “Hôm qua em giao bài tập làm văn cho tụi nhỏ lớp 1, viết về chủ đề “Điều ước của con”…”

“Anh hiểu rồi, nhưng vì sao em khóc?” – Người chồng tiếp tục gặng hỏi trong khi mắt vẫn không rời khỏi trò chơi đang đến hồi gay cấn.

“Bài văn cuối cùng này đã làm em khóc”.

Không giấu nổi sự tò mò, anh chồng bèn ngẩng mặt lên hỏi đầy ái ngại: “Bài văn của một đứa trẻ con cũng khiến em khóc được sao?”

“Anh nghe này…” – Người vợ chậm rãi đọc, nước mắt vẫn không ngừng rơi.

“Ước mơ của con là trở thành một chiếc điện thoại di động. Bố mẹ con yêu điện thoại di động lắm. Đến mức con cảm thấy bố mẹ quan tâm đến điện thoại còn hơn quan tâm đến con. Khi bố đi làm về, dù rất mệt mỏi nhưng bố vẫn chỉ ngồi bấm điện thoại di động chứ chẳng nhớ gì đến con. Khi bận bịu việc gì quan trọng, nếu bất chợt có chuông điện thoại reo, bố mẹ sẽ ngay lập tức cầm máy nghe. Thế nhưng lúc con khóc thì bố mẹ lại chẳng sốt sắng đến thế. Bố mẹ thích chơi trò chơi trên điện thoại di động chứ chẳng muốn chơi cùng con. Khi nói chuyện với ai đó trên điện thoại, bố mẹ cũng chẳng bao giờ thèm nghe con nói gì, cho dù con có chuyện rất quan trọng muốn chia sẻ. Vì thế, con chỉ ước được làm một chiếc điện thoại di động”.

Sững lại vài giây khi nghe xong bài văn, người chồng rụt rè hỏi vợ: “Trò nào viết bài này vậy em?”

Ngước cặp mắt dâng đầy nước mắt lên nhìn chồng, cô nghẹn ngào: “Con trai của chúng ta”.

Không cần phân tích, chúng ta cũng hiểu được bài học mà câu chuyện muốn dạy chúng ta. Hãy giảm bớt hoặc gạt bỏ những thứ bên lề như điện thoại, internet hay trò chơi trực tuyến…Để dành thời gian quan tâm, chăm sóc những người thuộc về chúng ta nhiều hơn. Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sỹ. Chúng ta không những xin Chúa cho Giáo Hội ngày càng có nhiều bạn trẻ biết quảng đại dâng hiến đời mình trong ơn gọi linh mục và tu sỹ, mà còn phải cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục, tu sỹ biết chu toàn bổn phận của mình và noi gương vị Mục Tử Giêsu để trở nên những mục tử nhân lành, những thừa sai của Lòng Thương Xót.

Lạy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Vì chúng con, Chúa đã phải hy sinh mạng sống. Xin cho mỗi người chúng con trở nên những con chiên ngoan hiền của Chúa. Khi phải đóng vai mục tử, xin cho cũng con cũng bắt chước mục tử Giêsu để hy sinh, quan tâm và yêu thương những người khác như Chúa. Amen.

 

32.Chúa Nhật Chúa Chiên Lành

(Suy niệm của Lm. Gioan Lê Quang Tuyến)

Tin mừng Ga 10: 27-30 Chúa nhật thứ 4 Phục sinh hôm là, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Là Chúa nhật mà toàn thể giáo hội hương về việc cầu nguyện cho các linh mục, giám mục luôn biết sống theo gương Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành đối với đàn chiên được ủy thác cho mình.

Chúa nhật thứ 4 Phục sinh hôm là, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Là Chúa nhật mà toàn thể giáo hội hương về việc cầu nguyện cho các linh mục, giám mục luôn biết sống theo gương Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành đối với đàn chiên được ủy thác cho mình. Đồng thời Chúa nhật hôm nay còn là ngày quốc tế ơn gọi lần thứ 56. Đức thánh cha Phanxicô mời gọi chúng ta cầu nguyện cho nhiều bạn trẻ biết can đảm đáp lại lời mời gọi của Chúa “khám phá kế hoạch yêu thương của Ngài dành cho cuộc sống của chúng ta; và xin Ngài ban cho chúng ta lòng can đảm bước đi trên con đường mà ngay từ đầu, Ngài đã chọn cho mỗi người chúng ta”. Nhân dịp nàu xin chia sẻ cùng quý bạ bà điều sau đây. Điều thứ nhất:Chúa vẫn muốn và cần chúng ta quảng đại đáp lại tiệng gọi mời của Chúa để được sống hạnh phúc. Điều thứ hai là: Mọi ơn gọi đều là một ân ban, cần phải biết trân quí và quảng đại đáp trả. Điều thứ ba: cần biết tin thác vào Chúa, để bảo vệ ơn gọi của mình.

Trước hết, chúng ta hãy luôn nhớ rằng “Chúa vẫn muốn và cần chúng ta quảng đại đáp lại tiệng gọi mời của Chúa để được sống hạnh phúc”. Đây chính là trọng tâm của Tin mừng hôm nay: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta”. Chúa luôn gọi mời chúng ta, và mong muốn chúng ta lắng nghe và đến với Chúa. Thế nhưng, giữa cuộc sống hiện đại của thời 4G, chúng ta lại phải đón nhận biết bao tiếng gọi mời và lôi kéo khác nữa. có sự lôi kéo của hưởng thụ vật chất. Có sự lội kéo của những sản phẩm thuộc đời mới hơn, nhiều chức cức năng hơn, kiến chúng ta mãi mế chạy theo và rượt đuổi không ngừng. Có sự lôi kéo của hình ảnh quảng cáo, của thời trang của sách báo, khiến chúng ta chẳng làm chủ được cái nhìn và đi đến chỗ phạm tội… Để chống lại những lô kéo bên ngoài này, chúng ta cần phải có một nội lực mạnh hơn ở bên trong. Đó chính là ơn Chúa. Nếu chúng ta biết lắng nghe và để cho Chúa kéo và không cưỡng lại thì chắc chăn Chúa sẽ kéo chúng ta về với Chúa. Chúng ta sẽ cảm nên được sự chăm sóc ngọt ngào của Vị mục tử nhân lành dành cho chúng ta. Ta sẽ được sống và sống hạnh phúc dồi dào.

Điều thứ hai: Mọi ơn gọi đều là một ân ban, cần phải biết trân quí và quảng đại đáp trả. Chúng ta vẫn thương nghe nói về ơn thiên triệu, đó là ơn gọi từ trời, đó là tiếng gọi của Chúa từ trời cao gọi mời chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta trở nên những tu sĩ, linh mục, giám mục ngang qua đời sống dâng hiến. Thế nhưng, ơn gọi đăc biệt này lại khởi đi và đặt nền trên ơn gợi căn bản của đời sống Kitô hữu là ơn gọi làm con Chúa. Do đó, khi lãnh nhận bí tích rửa tội, tất cả chúng ta đều lãnh nhận một món quà cao quí. Món quà cao quí ấy là “chúng ta là những người con yêu dấu của Chúa, được tập hợp trong đại gia đình Giáo hội. Nơi đó, đời sống Kitô hữu được sinh ra và phát triển. Giáo hội, là mẹ của chúng ta, Giáo hội đưa chúng ta đến cuộc sống mới và dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô. Vì vậy, chúng ta phải yêu thương người Mẹ này, ngay cả khi ta nhìn thấy khuôn mặt của Giáo hội bị tàn phá bởi những yếu đuối, tội lỗi của con người, và chúng ta phải giúp Giáo hội trở nên xinh đẹp và rạng rỡ hơn để Giáo hội có thể làm chứng cho tình yêu của Chúa trong thế giới này. Vì thế, Thiên Chúa mong muốn cuộc sống của chúng ta không trở nên vô vị và có thể đoán trước. Ngài không muốn cuộc sống của ta bị giam cầm trong những thói quen hàng ngày, hoặc không phản ứng trước những quyết định ý nghĩa. Chúa không muốn chúng ta sống ngày này qua ngày khác, mà cứ nghĩ rằng mình chẳng có gì đáng để phấn đấu. Rồi dần dà, chúng ta đánh mất ước muốn đi trên những con đường mới mẻ và thú vị. Mỗi ơn gọi là một lời gọi không được đứng trên bờ với mảnh lưới trong tay, nhưng là đi theo Chúa Giêsu trên con đường mà Ngài vạch ra cho chúng ta, vì hạnh phúc của ta và vì lợi ích của những người xung quanh.

Điều thứ ba: cần biết tín thác vào Chúa, để bảo vệ ơn gọi của mình.

Chúng ta thường biết rằng, mọi ơn gọi trong đời sống dâng hiến đều khỏi sự trong niềm vui, trong sự hấp dẫn lôi kéo của Chúa ngang qua cuộc đời của các linh mục, tu sĩ nam nữ khi họ về tạ ơn trong ngày chịu chức hay khân dòng, hoặc vì những lối sống quả cảm của họ…. Thế nhưng, khi bước vào cuộc sống ơn gọi, chúng ta mới thấy những thách thức, những khó khăn phải đối điện, phải vượt qua. Chúa muốn chúng ta phải quyết định dứt khoát khi đi theo Chúa là để làm công việc của Chúa hơn là làm công việc theo ý riêng ta. Một quyết định như thế đòi hỏi phải để lại mọi thứ ở phía sau để theo Chúa, để dâng hiến mình cho Thiên Chúa và chia sẻ sứ mạng của Ngài. Nhiều loại giằng co nội tâm có thể cản trở ta đưa ra quyết định này, đặc biệt là trong bối cảnh tục hóa lan tràn; nơi đó dường như không còn chỗ cho Thiên Chúa và Tin Mừng. Những nơi ấy dễ phát sinh ra chán nản và người ta thường rơi vào tình trạng “hy vọng èo uột”. Tuy nhiên, không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui của người dâng hiến đời mình cho Chúa! Đừng điếc lác trước tiếng gọi của Chúa! Nếu Ngài gọi chúng con đi vào con đường này, xin đừng buông xuôi mái chèo, nhưng hãy tín thác nơi Chúa. Đừng ngục ngã trước sợ hãi, vốn là điều làm chúng ta tê liệt trước những tầm cao lớn lao mà Chúa chỉ cho chúng ta. Chúng con hãy luôn nhớ rằng với những ai bỏ thuyền lưới lại đằng sau mà đi theo Giêsu, Thiên Chúa hứa ban niềm vui về một cuộc sống mới có thể lấp đầy tâm hồn chúng ta, và làm cho hành trình của của ta thêm sống động.

Vào Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi này, chúng ta hãy tham gia cầu nguyện và cầu xin Thiên Chúa giúp chúng ta khám phá kế hoạch yêu thương của Ngài dành cho cuộc sống của chúng ta; và xin Ngài ban cho chúng ta lòng can đảm bước đi trên con đường mà ngay từ đầu, Ngài đã chọn cho mỗi người chúng ta. Amen.

 

33.Không bao giờ chúng phải diệt vong

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

“Ta là Mục Tử nhân lành”

Đoạn Tin Mừng thánh Gioan hôm nay là phần cuối của chương 10 nói về Đấng Chăn Chiên Nhân Lành. Phần đầu đã được trích để suy niệm vào năm A và năm B.

Trước khi là Mục Tử nhân lành, Chúa Giêsu là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu như thế với các môn đệ của ông. Ngài gánh tội trần gian vì thế Ngài phải tan xương nát thịt vì chúng ta. Nhưng Ngài đã sống lại. Thánh Gioan Tông đồ đã nhìn thấy Ngài như “Con Chiên đã bị giết, nhưng đã sống lại, nay xứng đáng lãnh nhận phú quí và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang và muôn lời cung chúc”.

Là Con Chiên Thiên Chúa, gánh tội trần gian, Ngài xứng đáng là Mục Tử nhân lành, vì đã cứu vớt chúng ta và biến chúng ta thành “một dân thánh”. Ngài đã nói với thánh Gioan: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời”.

Chúng ta là đàn chiên Ngài chăn dắt, “Ngài dẫn chúng ta vào những đồng cỏ xanh tươi”… Ngài nuôi chúng ta bằng lúa mì tinh hảo, bằng rượu mới dầu tươi”. Chúng ta chỉ cần “nghe tiếng Ngài, theo Ngài” vì Ngài biết chúng ta, Ngài gọi chúng ta từng người một và hướng dẫn chúng ta.

“Nghe tiếng Ngài” . Nghe ở đây phải hiểu là “nghe và tuân hành”:“Ai yêu mến Ta, người ấy giữ lời của Ta”.

Nghe theo Ngài, chúng ta không còn lo sợ. Ngài là “Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Chỉ cần vững tin.

Chúng ta có một Mục Tử toàn năng, chúng ta sẽ không chao đảo, dù chung quanh chúng ta chỉ là đe dọa, bão tố và gian ác.

Chúng ta đang sống trong một thế giới đang sụp đổ, không còn biết hướng đi, không còn gì vững chắc. Chân trời của thế giới càng ngày càng ảm đạm thê lương. Con người hôm nay với những tiến bộ khoa học đáng tán dương, càng trở nên nô lệ của những phát minh tân kỳ của mình. Con người hôm nay muốn tự làm chủ vận mạng của mình, để đi về đâu? Đi đến tận diệt. Vì họ không có mục tử. Thảm họa của con người hôm nay là không biết mình đi về đâu. Vật chất, khoa học, được biến thành thần tượng, thì con người chỉ là một tên nô lệ bị gắn vào cổ máy của khoa học để rồi bị nghiền nát tan tành.

Càng hiểu thế giới hôm nay, chúng ta càng phải tạ ơn Chúa vì chúng ta không bị bán làm nô lệ cho vật chất, cho khoa học, vì chúng ta có một mục tử nhân lành đã cứu thoát chúng và đang chăm sóc đàn chiên của Ngài. Mục tử của chúng ta là Sự Sống. Ngài đã nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”. Đó là bảo đảm, là tương lai của chúng ta. Dù thế giới này có đảo điên, chúng ta vẫn không sợ sệt: “Dù qua thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn”.

Ngài biết chúng ta từng người một.

Từ “biết” ở đây phải hiểu theo nghĩa Do Thái: biết là yêu, biết theo nghĩa vợ chồng yêu nhau.

Chúa Giêsu biết chiên của mình, nghĩa là yêu thương chiên của Ngài “và yêu thương đến tận cùng”.

Ngài biết rõ “khi tôi ngồi và khi tôi đứng”, vì thế chúng ta hoàn toàn có thể tin vào quyền năng của Ngài, phó thác cuộc sống chúng ta trong tay Ngài. Theo Ngài, chúng ta được bảo đảm về mọi mặt, mặc dù chúng ta phải đối mặt với cuộc sống đầy gian khổ. Những người yếu tin mới sợ sệt lo âu, than phiền, và bất mãn. Một người tin vững vẫn lạc quan, vì họ sẽ “không bao giờ bị diệt vong, sẽ không bị cướp mất khỏi tay Ngài”.

Chúng ta đã tin chưa? Đó là vấn đề.

Cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo hội những mục tử hết sức tuyệt vời, đầy niềm tin, sáng suốt để lèo lái Giáo hội trong thời gian khó khăn hôm nay.

Đức Gioan 23, vừa nhận nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên Giáo hội gần ba tháng, đã can đảm triệu tập Công đồng Vatican II, một việc vượt xa khả năng của một cụ già 78 tuổi. Ngài vui tươi lạc quan. Ngài biết rõ tình hình Giáo hội và thế giới lúc bấy giờ. Thế giới thời bấy giờ (1962) đang trong thời chiến tranh lạnh. Hai khối lớn trên thế giới đang đối đầu với nhau: Tư bản và Cộng sản. Ngài vẫn vui tươi tiến bước.

Điều đó chứng tỏ một niềm tin vững mạnh không gì lay chuyển. Ngài đã mở một con đường mới cho Giáo hội đi vào thế giới đang đố kỵ kịch liệt với Giáo hội.

Đức Phaolô VI tiếp tục công trình đang dang dở: Công đồng Vatican II, và đã đưa Công Đồng đến hoàn thành và đi vào thực hành. Củng cố và canh tân Giáo hội theo đường lối của Vatican II. Ngài đã sáng suốt hướng dẫn Giáo hội hậu Công Đồng với một sự khôn ngoan lạ thường, với một sự cương nghị đáng phục. Ngài đã giúp Giáo hội vượt qua bao nhiêu khó khăn, qua bao nhiêu khủng hoảng sau Công đồng.

Đức chân phước Gioan-Phaolô II, với hơn hai mươi lăm năm trong cương vị giáo hoàng đã đưa Giáo hội vào con đường canh tân sâu rộng. Ngài sẵn sàng đối mặt với mọi vấn đề xã hội, chính trị, tôn giáo…

Lời nói đầu tiên của Ngài sau khi lãnh trọng trách Mục Tử đàn chiên Giáo hội là: “Đừng sợ!”

Ngài chứng tỏ là một con người có niềm tin sắt đá, và sáng suốt. Cuộc đời của Ngài là một dấn thân trọn vẹn cho Giáo hội và cho nhân loại. Có thể nói, Ngài đã canh tân sâu rộng và làm cho khuôn mặt Giáo hội trong sáng hơn trong cuối thế kỷ hai mươi.

Đức Bênêđictô XVI gặp rất nhiều khó khăn trong nội bộ Giáo hội: các linh mục suy đồi, và nhiều chống đối quan trọng khác. Ngài đã củng cố niềm tin của Giáo hội trong suốt thời gian làm Giáo Hoàng.

Đức tân Giáo Hoàng Phanxicô của chúng ta nhận trách vụ Mục Tử trong một bối cảnh cam go. Ngài vẫn mỉm cười với mọi khó khăn đang chờ đợi Ngài. Ngài tỏ ra lạc quan nhìn thế giới hỗn độn này với niềm tin thanh thản. Ngài biết rõ hơn ai hết tình trạng bi đát của thế giới hôm nay. Ngài chứng tỏ niềm tin can đảm của Ngài bằng một nếp sống đơn thường, giản dị, đầy thân ái.

Chúng ta hãy vui mừng tạ ơn Chúa vì Chúa đã dẫn dắt Giáo hội qua mọi thử thách trần gian nhờ những Mục Tử đầy niềm tin trong sáng và can đảm.

Chúng ta vững tin vì Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi… Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Chúng ta được bảo đảm như thế, hãy hiên ngang tiến bước giữa trần gian không tin tưởng và lắm khi là nghịch thù, loan truyền tình thương của Chúa với sự thanh thản vui tươi của những Kitô hữu đầu tiên, những anh em gương mẫu của chúng ta.

Chúng ta hiên ngang vì Chúa của chúng ta đã sống lại và là Thiên Chúa toàn năng: “Tôi với Chúa Cha là một”.

Mục tử nhân lành của chúng ta vẫn “ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế” và hằng ngày vẫn lấy Thịt mình nuôi chúng ta, củng cố niềm tin của chúng ta.

Còn gì hạnh phúc bằng khi biết rằng Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu và Ngài là của chúng ta và trọn vẹn là của chúng ta!

 

34.Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất

KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ

Chúa Nhật IV PS Giáo hội dành kính đặc biệt Chúa Giêsu Mục tử nhân lành, đồng thời là Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn Thiên triệu Lm và Tu sĩ.

Đức Giêsu mặc khải thêm một khía cạnh của mầu nhiệm bản thân Ngài: Ngài là Mục tử: “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng được sự sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất”

Chúa Giêsu khẳng định chính Người là Mục tử nhân lành, qua các các đặc tính tốt cụ thể:

i. Thí mạng sống vì chiên;

ii. Biết các con chiên và được các con chiên biết;

iii. Muốn quy tụ những con chiên khác ở ngoài vào đàn chiên mình, để rồi sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên.

Giêsu Mục tử Nhân lành, hằng ngày cho đến tận thế vẫn lấy chính Thịt và Máu Mình- là Bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng đàn chiên là giáo hội là chúng ta.

Quả thế, Biến cố Tử nạn- Phục sinh vừa qua minh chứng hùng hồn, rõ nhất, Chúa Giêsu Chúa Giêsu Mục tử nhân từ. Người hy sinh mạng sống vì đàn chiên; và đàn chiên đã tan tác sau các chết thảm khốc của Người thì khi Phục sinh, Người quy tụ mọi người về chung đàn duy nhất trong bình an, hiệp nhất yêu thương. Đàn chiên hiệp nhất ấy, Người chính thức trao cho các Tông đồ, đứng đầu thánh Phêrô thay mặt Người dẫn dắt. Giáo hội Tông truyền của chúng ta, Đức Giáo hoàng, các Đức Giám mục tiếp tục kế vị thánh Phêrô và các Tông đồ, tiếp tục trở nên các Mục tử nhân từ theo Chúa Giêsu dẫn dắt Giáo hội cho đến ngày tận thế.

Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các Giám mục- Linh mục nhờ Bí tích Truyền chức thánh, được Thánh Thần thánh hiến là Đầu và là Mục tử, ‘được mời gọi nối dài sự hiện diện của Chúa Giêsu’ (x. Tông huấn PDV s.15). Các ngài Mục vụ nhân danh Chúa Giêsu, theo gương Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu Mục tử nhân lành, Người yêu chiên, hy sinh mạng sống vì đàn chiên, Người biết rõ từng chiên, yêu thương chăm sóc từng chiên. Người thao thức và kêu mời chúng ta cộng tác sứ vụ Mục tử của Người: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử”.

Quả thật nhờ Bí tích Rửa Tội, Chúa Thánh Thần đã thánh hiến chúng ta thuộc về Chúa, được tham dự vào 3 sứ vụ Cứu Thế cụ thể của Chúa Giêsu: Sứ vụ Tư tế- Ngôn sứ và vương giả. Sứ vụ vương giả của người Kitô hữu cho thấy rõ hơn việc tham dự vào vai trò Chúa Giêsu Mục tử.

Tham dự vào sứ vụ Mục tử của Chúa Giêsu, qua chức năng Vương giả, mỗi chúng ta nhờ ơn Chúa chiến thắng ách thống trị tội lỗi nơi ta bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện, làm chủ chính mình, chủ vật chất. Cộng tác với ơn Chúa, tích cực “góp sức làm cho các thể chế và cảnh sống gây nên dịp tội trở nên lành mạnh” là đang thực thi quyền vương giả (x.GH 36).

Gia đình được gọi là Giáo hội tại gia. Mỗi người đều có gia đình, có con cháu. Tham dự vai trò Mục tử, ông bà cha mẹ có trách nhiệm nêu gương và hướng dẫn chúng nên thánh, góp phân xây dựng gia đình nên thánh.

Và chúng ta chỉ làm tốt vai trò vương giả; đời sống Đức tin tăng triển chỉ khi chúng ta biết nghe theo Lời Chúa. Chúng ta thuộc hàng chiên tốt, đích thực là chiên của Chúa Giêsu cũng hệ tại ở việc ta nghe theo tiếng Chúa.

Tin Mừng hôm nay, Chúa tuyên bố: ‘Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi’

Như thế, chiên tốt thì biết nghe tiếng Chúa và chỉ nghe theo tiếng Chúa.

Thánh Gioan tông đồ nói: người biết Chúa Giêsu thì phải tuân giữ điều răn của Người, nói biết Chúa mà không sống theo điều Người dạy là kẻ nói láo (x 1Ga 2, 4-5).

Mà kẻ nói dối, gây chia rẽ thì không phải con Chúa, không phải là chiên, chỉ đội lốt chiên (chiên giả).

Thuộc hàng Chiên tốt, ta không thể không quan tâm đến các nhu cầu của Giáo hội, thăng tiến Giáo xứ, cách riêng biết cầu nguyện và tích cực chia sẻ cho ơn gọi tận hiến của Giáo hội ngày càng tiến triển.

Trong Tông huấn ‘Amoris laetitia”- Niềm vui Yêu thương của Đức Thánh Cha Phanxico (Tông huấn hậu Thượng HĐGM thế giới, công bố 8.4.2016) nói về đời sống gia đình. Tông huấn cho thấy rõ những giá trị tốt đẹp- cao quý của Tình yêu Hôn nhân, nhất là Hôn nhân Bí tích mà Thiên Chúa đã thiết định để đảm bảo gia đình Hạnh phúc dẫu gia đình đang trực diện nhiều thách đố thời cuộc.

Đức Thánh Cha lưu ý cách riêng việc củng cố giáo dục con cái. Cha mẹ không chỉ nêu gương sống, kiên nhẫn mà trong giáo dục cần tôn trọng con cái, tránh áp đặt…

Có một đoạn đặc biệt ý nghĩa,có tính chất sư phạm cơ bản trong đó, theo ĐGH Phanxicô ‘Thái độ bị ám ảnh không có tính chất giáo dục và không thể có một sự kiểm soát tất cả những hoàn cảnh trong đó một người con có thể trải qua (…). Nếu một người làm cha mẹ bị ám ảnh muốn biết con mình đang ở đâu và kiểm soát mọi sự di chuyển của con, thì chỉ tìm cách thống trị không gian của đứa con mà thôi. Làm như thế họ không giáo dục con, không làm cho nó vững mạnh, không chuẩn bị con đương đầu với những thách đố. Điều quan trọng chính yếu là tạo nên nơi con cái, một cách yêu thương, những tiến trình trưởng thành tự do, chuẩn bị, tăng trưởng toàn diện, vun trồng sự tự lập đích thực” (s.260)

Lạy Chúa Chúa Giêsu Mục tử nhân hiền, nhờ ơn Chúa và trong Giáo hội Tông truyền xin giúp chúng con mỗi ngày mỗi sống xứng đáng là con Thiên Chúa, tích cực tham dự tác vụ ‘Mục tử’ của Chúa qua việc nêu gương sống Thánh thiện, quan tâm đến giáo dục con cái.

 

35.Con chiên của Chúa Giêsu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Anh chị em thân mến, chúng ta vẫn quen gọi các giám mục, các linh mục là các mục tử hay chủ chăn, và anh chị em giáo dân cũng vẫn quen nhận mình là “con chiên”. Kiểu nói nầy bắt nguồn từ trong Kinh Thánh. Ngay từ thời Cựu Ước, tiên tri Êzêkiel đã dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên để báo trước rằng: chính Chúa sẽ đến chăn dắt dân Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên, thay thế hết các người lãnh đạo dân từ trước đến nay. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã xưng mình là mục tử và là mục tử tốt lành, đích thực, khác với những kẻ chăn thuê, những mục tử giả.

Tin Mừng hôm nay vắn tắt có bốn câu nói về “con chiên” nhiều hơn là chủ chiên, tức là nói về “người giáo dân” hơn là hàng giáo sĩ. Người giáo dân là con chiên của Chúa Giêsu, là người biết “nghe tiếng Chúa”, dám “bước theo Chúa” để không bao giờ phải hư mất, nhưng “được sống đời đời”.

Trước đây, anh chị em có nghe nói mình là “con chiên của các cha” thì lấy làm thường tình, chẳng thắc mắc gì. Nhưng ngày nay, hình ảnh con chiên dễ làm cho người ta hiểu lầm và mặc cảm cho là hạ phẩm giá con người giáo dân - người ta là con người mà coi như con vật - coi giáo dân còn ấu trĩ và thụ động trong Giáo Hội.

Cách đây mấy chục năm, Đức Hồng Y Gasquet trong một cuốn sách nói về người giáo dân, có kể câu chuyện như sau: Một người sắp theo đạo hỏi linh mục về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội như thế nào? Linh mục trả lời: “Giáo dân có hai vai trò: một là quỳ gối trước bàn thờ, hai là ngồi quay mặt về tòa giảng”. Và Đức Hồng Y Gasquet hóm hỉnh viết thêm: “Người ta quên mất một vai trò thứ ba, đó là móc ví tiền ra”.

Câu chuyện trên phản ảnh một quan niệm lệch lạc về địa vị giáo dân. Vai trò của người giáo dân bị giản lược vào mấy việc: xem lễ, nghe giảng và góp tiền vào nhà thờ! Ngày nay, Công Đồng Vatican II đã quan niệm Giáo Hội trước tiên là “Cộng đồng Dân Chúa”. Giáo Hội trước hết là giáo dân chứ không phải Giáo hoàng, Giám mục hay Linh mục. Ngày nay, giáo dân phải đứng hàng đầu trong Giáo Hội. Nói như thế không có nghĩa là giáo dân điều khiển tất cả, nhưng có nghĩa là giáo dân phải lãnh phần trách nhiệm sống đạo chủ động của mình, như những người trưởng thành giữa xã hội ngày nay.

Sống đạo trong xã hội “dân chủ tập thể” hôm nay dĩ nhiên giáo dân vẫn phải là những “con chiên” của Chúa, hiền lành yêu thương, đừng hung bạo ác ôn, nhưng cũng phải từ bỏ thái độ ấu trĩ, vô trách nhiệm và thụ động. Chúng ta muốn làm những con người tín hữu đứng hàng đầu, những con người có tinh thần trách nhiệm, dám nhận lãnh sứ mạng, dám sống bổn phận của mình cách chủ động. Với điều kiện đó, chúng ta mới “nghe tiếng Chúa” và “bước theo Chúa” cách đúng đắn và phù hợp với những đòi hỏi của xã hội ngày nay. “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Chúng theo Ta, và Ta ban cho chúng sự sống đời đời. Không ai giựt chúng khỏi tay Ta được”. Nghe tiếng Chúa là tin nhận Lời của Chúa và bước theo Chúa là dấn thân sống Lời Chúa một cách tự do và chủ động. Nghe và theo Chúa là sống gắn bó thiết thân với Chúa. Bởi vậy, nghe và theo Chúa Kitô tức là bước vào cuộc sống bất diệt ngay từ đời nầy.

Tiếng Chúa hôm nay đang vang lên từ quả tim của từng con người nghèo khổ, bị áp bức, bị bóc lột. Tiếng Chúa hôm nay là tiếng kêu của đồng bào, của cả đất nước, của cả xã hội loài người đang cần nhau để sống, để có cơm ăn áo mặc đầy đủ, để tạo được hạnh phúc chung. Tiếng Chúa đang vang dội từng ngày, từng giờ mời gọi thúc bách chúng ta xung phong đi đầu, dấn thân theo Chúa trên mọi nẻo đường yêu thương, phục vụ, hy sinh. Yêu thương, phục vụ đến chỗ không còn tìm kiếm gì cho riêng mình, không giữ lấy gì cho riêng mình và đến chỗ dám liều chết cho anh em được sống, như chủ chiên dám liều mạng sống vì đàn chiên.

Làm con chiên nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa là như thế. Làm người có đạo hôm nay dám sống đạo thật là như thế. Nghe tiếng Chúa và dám bước theo Chúa trong xã hội chúng ta hôm nay phải như thế, và như thế nhất định chúng ta sẽ được sống đời đời, không một sức lực nào có thể cướp giựt chúng ta khỏi tay Thiên Chúa.

Anh chị em thân mến,

Chúa nhật hôm nay với chủ đề mục tử và đàn chiên được Giáo Hội chọn làm Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi Giáo sĩ và Tu sĩ. Giáo Hội đang thiếu các mục tử và nhất là các mục tử tốt lành. Tiếng báo động nầy đang vang đến tai chúng ta hôm nay ở nơi nầy, trên đất nước chúng ta. Hiệp ý với toàn thể Giáo Hội hoàn cầu, chúng ta hãy cầu xin cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa và nhất là có đủ can đảm để bước theo tiếng gọi đó bằng cuộc sống dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, cô đơn, già yếu…

Sự hy sinh hầu như tuổi trẻ có thừa, nhưng cần rất nhiều yếu tố xã hội góp phần để tuổi trẻ thực hiện quyết định hy sinh quảng đại của mình: cha mẹ, gia đình, và giáo xứ có đóng góp phần đào tạo ơn gọi thì ơn gọi mới nẩy nở và mới được bảo đảm. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu đã viết: “Tôi nói với bậc cha mẹ, dựa vào lòng tin, rằng họ có thể nếm hưởng niềm vui của ân sủng sẽ vào nhà họ, khi một con trai hay con gái của họ được Chúa gọi để phục vụ Ngài… Đặc biệt, tôi hướng về giới trẻ của thời nay và tôi nói với họ: Hãy để cho Đấng Vĩnh Cửu quyến rũ các bạn, và tôi lập lại lời Ngôn sứ Giêrêmia (20,7): “Ngài đã làm cho tôi say mê, lạy Chúa… Ngài đã chinh phục tôi và Ngài đã mạnh hơn tôi”… “Hãy để Đức Kitô quyến rũ bạn. Hãy để gương Ngài lôi cuốn các bạn. Hãy để tình yêu của Thánh Thần yêu mến các bạn… Hãy say mê Đức Kitô để sống cuộc đời của Ngài, hầu nhân loại có sự sống trong ánh sáng Tin Mừng…”. Đức Thánh Cha còn nhấn mạnh: “Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời”.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha giao phó giới trẻ cho Đức Trinh Nữ Maria, đặc biệt các thanh thiếu niên đã được gọi bước theo Chúa Giêsu. Mẹ biết rõ tất cả những khó khăn, chiến đấu và trở ngại các bạn trẻ phải trải qua. Xin Mẹ giúp các bạn trẻ biết nói lên câu: “Xin Vâng” đáp trả tiếng gọi của Chúa, như Mẹ đã thưa khi được Sứ thần truyền tin.

 

36.Bản sắc của một cộng đoàn Kitô giáo

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)

Mỗi thời đại và mỗi sắc dân có những hình ảnh tượng trưng riêng. Mỗi nhà văn hay mỗi vị giảng thuyết là đứa con của thời đại và của dân tộc mình đang sống, vì thế trong văn chương và trong ngôn từ của họ, họ xử dụng chính hình ảnh đó. Do đó, để hiểu được ngôn từ và các bản văn của họ, chúng ta cần phải tìm hiểu các hình ảnh tượng trưng đó: Các hình ảnh đó muốn nói lên ý nghĩa gì? Những gì được dấu ẩn phía sau những hình ảnh đó?

Bởi vậy, nếu trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu đã nói đến hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, Người đã xử dụng chính những hình ảnh quen thuộc và thân thương đối với những khán thính giả của Người lúc bấy giờ ở các miền quê Pa-lét-ti-na, tương tự như cánh đồng lúa, con trâu hay chiếc cày đối với người Việt nam chúng ta. Ðây là những hình ảnh hoàn toàn tùy thuộc vào thời gian và không gian lúc bấy giờ. Nhưng nội dung các ý nghĩa mà Ðức Giêsu muốn trình bày qua các hình ảnh đó thì lại có giá trị vượt mọi biên giới của thời gian và không gian. Qua những hình ảnh đó thánh sử Gioan muốn nói lên bản sắc đích thực của cộng đoàn Kitô giao, tức sự hiệp nhất giữa Ðức Giêsu và cộng đoàn các tín hữu.

Thật vậy, trong khi đối chất với những người phê bình và những đối thủ của Người, Ðức Giêsu đã dùng tới hình ảnh người mục tử và đoàn vật, để nói lên tính chất gắn bó mật thiết giữa Người và các tín hữu, những “con chiên” thuộc về “đàn chiên” của Người và do Người chăn sóc. Một câu hỏi đã từng làm bận tâm vị thánh sử và cộng đoàn Kitô hữu là: Tại sao nhiều người Do-thái chối từ Ðức Giêsu và không tin nhận giáo lý của Người, mặc dù Người đã ngày đêm đi khắp mọi miền đất nước của họ để rao giảng Tin Mừng Cứu Ðộ cho họ, thương yêu và chữa lành mọi bệnh tật cho họ, cũng như Người đã không ngần ngại làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống họ? Thánh sử Gioan chỉ tìm thấy một câu trả lời duy nhất, là: Bởi vì họ không muốn! Bởi vì họ không chịu thoát ra khỏi cái bóng đen của chính mình và không chịu tin vào lời rao giảng và các việc làm của Người, những việc làm đã mặc khải cho họ biết Người là Ðấng nào.

Ðối với những người Do-thái đã từ chối không muốn tin nhận Người, Ðức Giêsu đã trình bày cho họ thấy được thái độ của các con chiên của Người: Chúng luôn biết nghe và đón nhận tiếng Người, nghĩa là chúng tin vào Người. Dĩ nhiên đức tin chân chính và sâu xa không dừng lại nơi sự tuyên xưng bằng môi miệng suông mà thôi, nhưng nó được chứng mình qua thái độ sống cụ thể: Luôn sẵn sàng cùng Ðức Kitô đồng hành trên con đường của Người!

Nhưng đức tin đó không hề là con đường một chiều thuộc về phía người tin, nhưng nó kiến tạo một tương quan hoàn toàn mới mẻ giữa Ðức Giêsu và các tín hữu của Người: Người lo lắng chăm sóc họ, Người biết rõ họ, Người tin tưởng họ và gắn bó mật thiết với họ. Người ban cho họ cuộc sống hạnh phúc trên nơi vĩnh cửu. Và những gì Người ban, Người cũng che chở bảo vệ như thể một kho báu vậy!

Ở đây, Ðức Giêsu hoàn toàn phó thác mọi sự nơi Cha Người, Ðấng ở trên Trời. Người và Chúa Cha là một! Do đó, tất cả những gì Ðức Giêsu nói và hành động, Người đều nói và hành động với uy quyền của Thiên Chúa Cha! Ðiều đó càng làm cho những lời rao giảng của Ðức Giêsu mang một giá trị tuyệt đối. Vì thế ai tin nhận Người, thì có thể chắc chắn được rằng mình cũng được chính Thiên Chúa công nhận và chấp nhận. Ngược lại, ai chối từ Ðức Giêsu, thì đương nhiên cũng “nói không” cùng chính Thiên Chúa. Như thế, vấn đề được đặt ra ở đây là sự cứu rỗi hay sự bất hạnh, sự sống hay sự tiêu diệt. Ðó là quan điểm của thánh sử Gioan về cộng đoàn Kitô giáo.

Vậy, ngày nay dựa theo quan điểm đó chúng ta có nhận thấy mình là cộng đoàn Kitô hữu nữa hay không?

Ðức tin không phải là con đường một chiều. Ðức tin tạo nên sự thông hiệp với Ðức Kitô và với nhau. Phải chăng điều đó cũng là một thực tại trong cộng đoàn Ðức Kitô nơi chúng ta đang sống? Phải chăng trong giáo xứ chúng ta thường đã mong đợi quá nhiều nơi những người khác, như nơi: Cha Quản Xứ, ban hành giáo xứ, các hội đoàn, các giáo lý viên, v.v..., nói tắt: nơi “những người có trách nhiệm”? Còn đâu là sự đóng góp và sự dấn thân của mỗi người trong chúng ta cho cộng đoàn? Chúng ta có sống đức tin của mình một cách đầy xác tín, hầu có thể trở nên nhân chứng cho Ðức Kitô giữa lòng đời hay không? Chúng ta có sống đức tin của mình sao cho người khác phải lưu ý và tìm hiểu tại sao chúng ta tin và chúng ta tin ai không?

Qua Phép Rửa và nhờ đức tin tất cả chúng ta thuộc về một đại gia đình, gia đình Ðức Kitô. Nhưng gia đình này chỉ có thể tồn tại được nhờ vào sự cùng đồng trách nhiệm, sự tha thứ và lòng yêu thương trọn vẹn. Vì như Chúa đã phán: “qua đó thế gian sẽ nhận biết rằng, các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13,35). Amen.

 

37.Chúa Nhật 4 Phục Sinh

Chúa nhật thứ IV Phục Sinh hôm nay được gọi là Chúa nhật Đấng Chăn Chiên nhân lành. Vì thế, Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề chính là mục tử và đoàn chiên. Mục tử, tức là người chăn chiên, là hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái. Vì vậy, suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một biểu tượng phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người nuôi nấng, chăn dắt, săn sóc một cách đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chúng ta. Chúng ta thấy Chúa dùng hai hình ảnh: người chăn chiên mướn và người chăn chiên tốt lành, để so sánh và diễn tả cho mọi người biết Ngài là người chăn chiên thật, là một mục tử tốt lành.

Thế nào là một mục tử tốt lành? Chúng ta có thể tóm tắt trong hai điều: đó là người mục tử biết các con chiên của mình và ân cần săn sóc chúng. Chúa Giêsu là một chủ chăn tốt lành vì Ngài có đầy đủ hai yếu tố đó. Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Biết từng con một, biết ngày sinh tháng đẻ, biết con nào tới đợt xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho từng con, biết bệnh tật từng con để chữa trị: con nào hay bị lạnh, con nào làm biếng ăn, con nào hay đi tách ra khỏi bầy, con nào khó tính,... hơn nữa, có khi họ còn chụp hình, còn ghi sổ từng con mỗi năm và cân ký hàng tháng để coi con nào lên ký, con nào xuống ký. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh đó áp dụng cho Ngài như Ngài đã tuyên bố: " Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi" (Ga 10, 27). Thực vậy, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết chúng ta là những con người, là những tín hữu, là những người có tính tình thế nào, tình trạng ra sao. Ngài biết chúng ta còn hơn chúng ta biết mình nữa. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo, ai là con chiên ghẻ, lười biếng, khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết. Để rồi từ đó, Chúa Giêsu trở nên một chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, Ngài ân cần săn sóc cho chúng ta, Ngài hằng ở bên để săn sóc từng người chúng ta nữa, và Ngài còn basự sống đời đời cho chúng ta nữa.

Chúa Giêsu nói mình là Mục Tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng đáng với tước vị đó, thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Một con vật như con chiên không có lý trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, chúng ta có linh tính, thì chúng ta càng phải đền đáp sao cho xứng với tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy. Vậy bổn phận của chúng ta là gì? Chúng ta phải suy tôn Chúa là chủ chăn chúng ta bằng lòng tin tưởng và yêu mến. Nhưng suy tôn không phải chỉ ngoài miệng mà phải suy tôn Chúa trong đời sống, trong công ăn việc làm, trong sự đối xử với người chung quanh, trong việc làm chứng nhân cho Chúa. Rồi chúng ta phải tín nhiệm vào Ngài, như con cái tín nhiệm cha mẹ, như bạn bè tin tưởng nhau, như người công nhân tín nhiệm vào nơi chổ mình lao động, thì chúng ta càng phải biết tín nhiệm vào Chúa nhiều hơn. Sau cùng, chúng ta phải biết lắng nghe Lời Chúa và sống theo Lời Chúa, đó là điều chắc chắn vị Chủ chiên sẽ hài lòng, bởi vì ai mà chẳng vui khi thấy người thuộc quyền mình biết vâng nghe theo lời của mình.

Tất cả những điều trên đây chúng ta đều biết cả, nhưng biết mà không đem ra thực hành thì thực là uổng công vô ích. Nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta không chối Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta hay quên Ngài. Giữ đạo Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta quá lo lắng đến tiền bạc, đến vật chất, đến nỗi chúng ta xao lãng các bổn phận thiêng liêng: không đi lễ, làm biếng rước lễ, không chịu đọc kinh hôm kinh mai cầu nguyện với Chúa; rồi cũng bao lần trong đời sống, do cách ăn ở, do cách cư xử của chúng ta thiếu công bình, thiếu bác ái, thiếu yêu thương, không làm chứng cho Chúa trước những người chung quanh.... Chúng ta xin Chúa cho chúng ta can đảm sửa chữa những khuyết điểm, đó là cốt yếu của Lời Chúa dạy hôm nay, là sống tốt trong đoàn chiên của Chúa, cầu xin Chúa cho chúng ta cũng trở nên những con chiên ngoan, biết lắng nghe, vâng phục và cộng tác với Hội Thánh mà cụ thể là những vị chủ chăn của mình một cách tích cực, đầy tình thân ái trong Chúa Kitô.

Mặt khác, năm nay là Năm Thánh cầu nguyện cho các linh mục, là con chiên, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị Mục Tử của Chúa, sống hết mình vì đoàn chiên, chu toàn trách nhiệm trong tình yêu và lòng thành tín của Chúa Giêsu; Ngoài ra, hôm nay cũng là ngày Hội Thánh dành để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu linh mục và tu sĩ. Ngày nay, có nhiều tâm hồn trẻ muốn dâng mình cho Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho Hội Thánh nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời mời gọi bước theo Chúa, dâng mình cho Chúa, hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ dân thánh Chúa. Là Cha mẹ trong gia đình, chúng ta hãy quảng đại dâng con cho Chúa, khuyên bảo và nhắc nhở cho con cháu mạnh dạn đi tu để làm Tông Đồ, làm sáng danh Chúa... Xin Chúa cho chúng con có những vị Mục Tử như lòng Chúa mong muốn.

Lạy Chúa, xin làm cho chúng con trở nên những con chiên ngoan tốt lành của Chúa. Amen.

 

38.Chúa Chiên Lành - McCarthy

(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

Suy Niệm 1. CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI

Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bossco bắt đầu làm việc cho giới trẻ nghèo khổ và bị lâm nguy tại thành phố Turin ở Ý. Chẳng bao lâu, các thanh niên nhận ra rằng nơi ngài, đến nỗi một lần kia, khi ngài lâm bệnh nặng, họ đã hết lòng cùng nhau cầu nguyện sốt sắng, và một số người còn muốn được thay thế vào chỗ của ngài, bằng cách tận hiến cả cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Sau sự kiện đó Thánh Gioan Bosco đã được hồi phục. Mối tương quan này không thể tồn tại được, trừ phi có sự gần gũi, và sự gần gũi lôi kéo theo sự nhận biết và được nhận biết.

Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành nói “Tôi biết các chiên của tôi”. Người biết các chiên của Người một cách chính xác, bởi vì Người là Chúa Chiên Lành. Có nhiều mức độ nhận biết khác nhau. Chúng ta quen biết một số người chỉ qua khuôn mặt hoặc danh tính. Còn đối với những người khác, chúng ta chỉ mới quen biết sơ giao mà thôi. Và có người chúng ta quen biết với tư cách là bạn bè.

Có một điều đáng buồn trong việc không nhận biết con người. Elie Wiesel, một văn sĩ người Do Thái, rất gắn bó với cha của ông, người đã bị chết tại Aushwitz vào năm 1944. Tuy nhiên, khi viết cuốn tự thuật, ông nói:

“Tôi chưa biết bao giờ thực sự nhận biết cha tôi. Thật đau lòng khi phải thừa nhận rằng tôi biết rất ít về con người mà tôi yêu thương nhất trên đời, một con người mà chỉ cần một tia nhìn, cũng có thể lay động tâm hồn tôi. Tôi thắc mắc không biết những người con trai khác có cùng một vấn đề giống như tôi không. Liệu họ có nhận biết cha họ như là một con người nào khác với một khuôn mặt đầy uy quyền, cứ mỗi buổi sáng đều rời khỏi nhà, và trở về nhà vào buổi tối, để nuôi sống cả gia đình chăng?”.

Tôi e rằng đó là một tiếng than phổ biến. Con cái không biết gì về cha mẹ của họ; cha mẹ không biết gì về con cái. Để nhận biết về nhau, cần phải dành ra thì giờ và công sức, những điều này sẽ mang lại thành quả vĩ đại. Khi thiếu mất sự nhận biết này, thì sẽ để lại hậu quả là sự mất mát lớn lao. Cuộc sống trôi qua vô cùng nhanh chóng. Chúng ta biết về nhau một cách nghèo nàn. Bạn không thể yêu thương một người nào đó mà bạn không hề quen biết.

Sự nhận biết đặc biệt quan trọng đối với những người làm công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những người làm công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những người mà họ săn sóc. Biết tên của những người đó là một bước khởi đầu tốt. Nhưng để thực sự biết về họ, thì phải biết về lịch sử cuộc sống của họ. Những người được săn sóc sẽ không hơn gì những chiếc bóng đối với người săn sóc, trừ phi người săn sóc biết được một số điều về thế giới mà từ đó người được săn sóc xuất phát.

Lối nhận biết mà chúng ta đang nói đến đòi hỏi phải có thì giờ, sự kiên nhẫn và hy sinh. Nhưng sự nhận biết này được bù đắp bằng phần thưởng lớn lao. Bất chấp chúng ta không ưa một cá nhân nào đó như thế nào, nhưng một khi đã biết về lịch sử cuộc đời của người đó, thì thái độ của chúng ta đối với họ sẽ mềm mỏng hơn.

Tuy nhiên, sự nhận biết này phải là một công việc có hai đường lối. Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành, biết những con chiên của Người một cách thiết thân. Nhưng họ cũng biết Người: “Những kẻ thuộc về tôi thì biết tôi”. Đức Giêsu không ngại ngùng trong việc để cho mình được nhận biết. Nhưng đôi khi, chúng ta lại có cảm giác đó. Chúng ta không muốn để người khác đi vào cuộc đời của mình. Sẽ không có ai biết được những cảm giác, nhu cầu, nỗi đau và niềm hy vọng thực sự của chúng ta là gì.

Có lẽ nỗi sợ hãi bị khước từ làm cho chúng ta tự co rút mình lại. Chúng ta sợ rằng nếu người ta thực sự biết được con người bất toàn của mình, thì họ sẽ khước từ chúng ta. Hậu quả là người khác sẽ nhận biết về chúng ta theo như hình ảnh mà chúng ta có ý tưởng về mình, hơn là đúng với con người của chúng ta. Sẽ thật là điều đáng buồn, khi chúng ta phải sống và chết đi, mà chưa bao giờ được người khác biết đến một cách sâu xa, chưa bao giờ được kể ra câu chuyện cuộc đời mình.

Làm sao chúng ta có thể tạo thành một mối quan hệ với người khác được, nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách đối với họ, do đó, chúng ta đã ngăn cản không để cho họ nhận biết mình? Nếu họ cũng giữ một khoảng cách đối với chúng ta, và nếu điều đó để lại hậu quả là họ không tin tưởng hoặc sợ hãi chúng ta, thì liệu chúng ta có trách cứ họ không?

Đức Giêsu chính là Chúa Chiên Lành đối với chúng ta. Người mong muốn chúng ta có được sự sống ở nơi đây và có sự sống đời đời sau này. Nhưng đây phải là một công việc hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình yêu của Người. Con Chiên trung thành thì phải biết lắng nghe tiếng nói của chủ chiên và đi theo họ. Chúng ta phải nhận biết Chúa, lắng nghe và thực hành lời của Người.

home Mục lục Lưu trữ