Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 90
Tổng truy cập: 1373080
HOANG ĐỊA PHÌ NHIÊU
Hoang địa phì nhiêu – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn mở đầu Phúc âm theo thánh Maccô là một tuyên cáo. Đây là một bản loan Tin Mừng, bằng những lời mạnh không hoa mỹ, nó chứa đựng những yếu tố chủ yếu của sứ điệp, đó là: Thời đại Cứu chuộc đã khởi sự, những lời tiên tri đã được thực hiện –Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa- Người đã đến thanh tẩy loài người trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là đến cứu rỗi nhân loại. Đoạn Phúc âm mời gọi mọi người hãy sám hối, thanh tẩy bản thân cách xứng đáng để được tha thứ.
Tiền hô Gioan Tẩy giả được trình bày với dáng vẻ cường tráng, trung kiên và khiêm hạ. Thánh sử đặt ông ngay phần mở đầu, giống như các kiến trúc sư thời trung cổ thiết bị cửa chính nhà thờ như một lời mời hãy tiến vào thánh đường. Ta ghi nhận Gioan Tẩy giả đã sống trong sa mạc, nghĩa là trong cô tịch, thiếu thốn tiện nghi thể xác, quang đãng vật chất, và khoáng đạt tâm hồn. Được khai quang hết những gì không tối cần thiết, ông sẵn sàng để Thiên Chúa sử dụng. Điều này mời chúng ta suy niệm về ý nghĩa thiêng liêng của hoang địa.
1) Hoang địa là sự chuẩn bị bắt buộc phải có cho mỗi thực hiện đáng giá trên bình diện nhân phẩm hoặc trên bình diện hành động. Chúng ta hiểu “hoang địa” theo nghĩa: đó là những khoảnh khắc cầu nguyện trong vắng vẻ, những giây phút suy tư và suy niệm, yên lặng, cố gắng dọn dẹp loại bỏ cái thừa. Ân sủng chính của “hoang địa” là khám phá thấy con người tùy thuộc trước hết vào Thiên Chúa.
Người ta nhớ tới cuộc xuất hành khi Môisê dẫn dắt dân ông. Kinh nghiệm về hoang địa của Israel trốn chạy khỏi Ai cập để tiến về Đất hứa, chính là 1 nhận thức về hai điểm. Trước hết họ hoàn toàn tùy thuộc vào sự chăm nom của Thiên Chúa. Điểm hai: họ có thể trông nhờ vào sự chiếu cố ấy, một sự ân cần săn sóc không lúc nào vắng thiếu. Đời sống Kitô hữu cũng vậy. Trên đường tiến đến tận cùng số mệnh mình, người Kitô hữu phải biết sức mạnh đó miễn là phải loại bỏ tất cả những gì ngăn chặn Chúa đến. Để chuẩn bị đón tiếp Chúa trong dịp lễ Giáng sinh, chúng ta sẽ khai quang tâm hồn chúng ta như thế nào?
2) “Hoang địa” là một chuẩn bị ưu tiên cho hành động đặc biệt cho cho hoạt động Tông đồ. Cũng như Gioan Tẩy giả, người làm việc Tông đồ chuẩn bị cho người ta nghênh đón “Đấng đến để thanh tẩy trong Chúa Thánh Thần”. Hoạt động Tông đồ được bồi dưỡng cường lực và hiệu năng, nếu trước đó đã được thuần luyện bằng suy niệm và nguyện cầu, trong tâm trạng “hoang địa” nó khai phóng tâm trí, thanh luyện tâm hồn, củng cố ý chí, mở rộng linh hồn đón nhận cường lực của Thiên Chúa.
Giống Gioan Tẩy giả lúc từ sa mạc trở về, đã lôi cuốn những đám dân chúng đông đảo, chiến sĩ của Đức Kitô lôi cuốn người khác nếu họ cảm thấy trong con người chiến sĩ tính chất chân chính có được nhờ thời gian lâu dài sống vắng vẻ với Chúa. Một yếu tố đặc biết đáng lưu ý. Ta có thể tự hỏi: sống vắng vẻ với Chúa, phải chăng là sống ngoài trần thế? Vậy mà tín đồ của Chúa phải dấn thân vào thế gian, để trong thế gian trở nên một thứ men sinh động cho đời sống và tiến hóa của thế gian. Lời đáp nằm trong một nhận định sơ đẳng. Mọi cuộc đời đều có một nhịp độ hấp thụ và cống hiến. Người ta chỉ có thể cống hiến điều gì đã được hấp thụ. Không được nuôi dưỡng thì cơ thể không làm được những cố gắng thể lực. Cũng vậy, đời sống thiêng liêng không thể hoạt động thật sự, nếu không hấp thụ sức mạnh của Thiên Chúa. Chính trong sự gặp gỡ Thiên Chúa, thực hiện được bằng cầu nguyện và tĩnh tâm, trong vắng vẻ (dù chỉ vài ba phút) trong từ bỏ không luyến tiếc những cái ngổn ngang rườm ra, mà chiến sĩ Đức Kitô trở nên men tác động giữa thế gian, môi trường sinh hoạt của mình.
51. Tiếng kêu – ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm
Điểm nổi bật trong các bài đọc hôm nay là tiếng kêu. Khi một âm thanh vang động, thì tiếng ấy phải phát xuất từ đâu, muốn nói gì và cho ai? Tiếng kếu chúng ta nghe hôm nay phát xuất từ Thiên Chúa qua Gioan Tiền hô loan báo cho ta một sứ điệp: "Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước để dọn đường cho con". Sứ giả Gioan chính là tiếng kêu trong sa mạc: "Hãy dọn đường cho Chúa, chỗ quanh co hãy uốn lại cho ngay thẳng" (Mc 1,1-3).
1. Tiếng kêu của Chúa
Từ ngày xưa cũng như bây giờ, Thiên Chúa vẫn làm phát xuất những tiếng kêu: qua các ngôn sứ, qua tiếng lương tâm và qua cả những trạng huống của đời sống con người. Những tiếng kêu bi thiết trầm thống của mọi thời đại đã vang tới Chúa. Phải chăng chỉ vì vậy mà Chúa mới nhắn bảo các sứ ngôn: "Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta. Hãy nói cho Yêrusalem biết rằng: nó không còn phải mang kiếp tôi đòi nữa và tội lỗi của nói đã được tha" (Is 40,2-2).
Vì thế tiếng kêu của Chúa là một tiếng kêu đặc biệt. Thông thường khi nói tới tiếng kêu, chúng ta quen nghĩ tới kêu cứu, kêu gọi, kêu cầu: kêu cứu vì mình đang lâm nguy; kêu cầu để van xin giúp đỡ; kêu gọi để nhắc bảo phải làm một cái gì. Tiếng kêu của Chúa không hàm nghĩa kêu cứu và kêu cầu, mà chỉ ngụ ý kêu gọi.
2. Chúa kêu gọi ta làm gì?
Để lay động thức tỉnh ta, bắt ta chú ý và chuẩn bị đón nhận một sứ điệp. Tiếng kêu của Gioan tiền hô giữa nơi hoang vắng tiên vàn cũng đánh thức, gây chú ý và quy tụ dân chúng để nghe ông nói.
Sứ điệp của ông cũng tương tự như những điều ngôn sứ trong sách Đệ nhị Isaia đã nói với dân Dothái vào thế kỷ VI, sau khi họ vừa thoát khỏi cảnh lưu đày ở Babylon.
Chúa đã thẳng tay trừng trị Yêrusalem, nhưng giờ đây họ không còn phải làm nô lệ nữa, và tội lỗi của họ đã được tha thứ.
Phải dọn đường cho Chúa trong sa mạc. Chỗ gập ghềnh khúc khuỷu hãy uốn lại cho ngay.
Mọi người sẽ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, vì Người đến với đầy vẻ lẫm liệt oai phong.
Người lãnh đạo dân mình như mục tử chăn dắt đoàn chiên (Is 40,1-5.9-11).
Những năm tháng lưu đày đã giúp họ hồi tâm lại và nhận thức lý do đem tới đau khổ là chính tội lỗi của họ (Is 7,25-28). Từ đó nhóm dậy trong lòng họ những tâm tình sám hối, dẫn đến quyết định dứt khoát với tội lỗi.
Khi làm như thế là họ sửa sang đường lối trong tâm hồn cho ngay thẳng để đón tiếp vinh quang Chúa đến. Đó chính là điều các ngôn sứ nhắm, khi các ngài gióng lên tiếng kêu.
3. Tiếng kêu của Gioan gây nên âm hưởng nào đối với người Do Thái đương thời?
Chắc chắn, tiếng kêu ấy đã khiến họ ngỡ ngàng, băn khoăn và làm cho họ như phải đối diện với một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã hội (Lc 3,7-14). Họ đã chịu phép rửa sám hối, xin ơn tha tội để dọn tâm hồn tiếp nhận Đức Kitô.
Còn đối với chúng ta hôm nay thì sao?
Sứ điệp của sách Đệ nhị Isaia và của Gioan tiền hô vẫn thúc bách chúng ta dọn đường cho Chúa trong sa mạc, nhưng là để đón Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Quả vậy, kinh nghiệm sa mạc của người Dothái trong biến cố Xuất hành khỏi Aicập hướng về Đất Hứa và trên đường hồi cư từ Babylon trở về Quê Hương vẫn mang một giá trị hiện thực cho cuộc sống chúng ta hôm nay. Sa mạc trong lịch sử cứu độ mang những ý nghĩa thần học sâu xa. Chính trong sa mạc con người chịu thử thách và phải chiến đấu để trung thành với Giao ước; cũng chính trong sa mạc, con người được thanh luyện tinh tuyền để xứng đáng với Thiên Chúa trong cuộc gặp gỡ ân tình. Giáo hội hôm nay cũng phải trải qua kinh nghiệm sa mạc bằng cuộc sống chiến đấu và thử thách để minh chứng lòng trung thành với ơn gọi Kitô hữu của mình và để tự thanh luyện xứng đáng gặp lại Đức Kitô đến thiết lập Trời mới Đất mới (2P 3,13).
4. Phải chăng trời mới đất mới chỉ hình thành trong thời viễn lai?
Ngay từ bây giờ Trời mới Đất mới xuất hiện khi mỗi người thi hành sứ điệp dọn đường cho Chúa và biến cõi đời này thành nơi đáng sống hơn. Ở đó mỗi ngày một bớt dần những cảnh bất công tàn ác; ở đó nhân phẩm được kính trọng và các quyền lợi căn bản của con người được bảo đảm; và nhất là ở đó mọi người được hòa giải với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Như thế, vinh quang Thiên Chúa đang xuất hiện giữa thế giới loài người, vì theo thánh Irênê: "Con người là vinh quang của Thiên Chúa". Chúng ta không ngừng xây dựng Trời mới Đất mới để tiến tới ngày viên mãn rực rỡ lúc mà Đức Kitô trở lại hoàn tất lịch sử cứu độ, thu hồi vạn vật về một mối (Ep 1,10) và trao phó vương quyền cho Thiên Chúa Cha, để Người trở nên mọi sự trong mọi người. (1Cr 15,28).
Đó là viễn tượng giúp ta hiểu đúng câu nói của thánh Phêrô trong bài đọc thứ 2: "Ngày đó, các tầng trời sẽ sụp đổ tan tành, lửa, nước, ánh sáng, gió, mây đều cháy tiêu tan, và trái đất với tất cả mọi công trình xây dựng của con người đều bị thiêu đốt" (2P 3,10). Câu đó có nghĩa là chính Đức Kitô sẽ dùng năng lực Thánh Thần và lửa tình yêu nung nấu tất cả, để siêu thăng và biến đổi chúng nên rực rỡ tốt đẹp cách nhiệm mầu chứ không hủy diệt chúng. Đó sẽ là cuộc biến hình hoàn vũ, mà cuộc biến hình trên núi Tabo là dấu chỉ và khởi đầu.
Tiếng kêu của Gioan vọng lại tiếng kêu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, đang gọi ta đứng dậy, ngước mắt nhìn lên và hướng về tương lai. Viễn tượng Chúa đến trong vinh quang đem lại cho ta niềm tin, phấn khởi trong cuộc hành trình qua sa mạc của đời sống hiện tại.
Vì thế, tiếng kêu của vị tiền hô là một tiếng kêu mang đầy Hy Vọng và Niềm Vui.
***
BÀI GIẢNG
Chúa nhật hôm nay có thể gọi được là Chúa nhật của vị Tiền Hô, của Gioan Tẩy giả, của "tiếng kêu" dọn đường Chúa đến, và như thế là Chúa nhật của niềm trông đợi chứa chan hy vọng.
Chúng ta ngày nay, xét về mặt xã hội, không còn như Israel ngày xưa. Dân Chúa bấy giờ đang lầm than trong cảnh nô lệ lưu vong. Nhưng xét về nhiều phương diện khác, đời người luôn luôn có những khổ sở. Và chẳng bao giờ nhân loại thấy đã thoát khỏi lầm than, đau đớn... Luôn luôn chúng ta có một số vấn đề không làm đau khổ thể xác thì cũng làm khắc khoải tâm hồn. Và cái khổ là bao giờ những khó khăn hiện tại đối với tâm lý, cũng vẫn là những gò bó khó chịu nhất mà chúng ta muốn cựa quậy, giũ đi cho bằng hết. Trong hoàn cảnh đó tiếng kêu của vị Tiền hô đang muốn khơi lại niềm tin hun đúc niềm cậy, để mọi người chúng ta tìm lại được tinh thần chứa chan hy vọng do Tin Mừng cứu độ mang tới.
Gioan không bịa ra những nguồn tin giả dối, trần tục, vô căn cứ và miễn cho ta những nỗ lực chính đáng. Chính ông cũng không tự xưng là người sẽ giải thoát anh em. Ông chỉ cho chúng ta thấy Đấng Cứu thế đích thực, là Đức Yêsu Kitô. Nói đúng hơn, khi rao giảng, ông bảo mọi người hãy trông cậy vào Đấng sẽ đến sau, Đấng chưa ai thấy, nhưng chắc chắn sẽ đến mà ông chẳng đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Gioan không nói viển vông. Đặt niềm tin ở Sách Thánh, căn cứ vào mạc khải của Thiên Chúa, Gioan khẳng định Đấng Cứu thế không phải là phàm nhân, không hành động như các vĩ nhân trong lịch sử. Ngài đến chăn dắt đoàn chiên mình như mục tử; Ngài ẵm chiên con trên cánh tay; ôm ấp chúng vào lòng và nhẹ tay dẫn dắt các chiên mẹ.
Đấng Cứu thế chúng ta trông đợi là như thế. Ngài không có những toan tính trần gian. Ngài là một mục tử hiền lành săn sóc từng con chiên và cả đoàn chiên. Vì thế, chúng ta hãy trút bỏ não trạng trần tục khi khắc khoải đợi chờ Đức Kitô trở lại. Trong bất cứ thử thách nào Đấng Cứu chuộc chúng ta vẫn là Chúa, vì chỉ có Ngài mới đáp ứng được niềm trông cậy của ta.
Niềm trông cậy ấy tạo nên ở nơi ta một thái độ, một tác phong, một nếp sống đặc biệt. Khi người ta ao ước những sự hão huyền hay chờ đợi những giải pháp trần tục, thường người ta dành công việc cứu thế cho người khác; còn chính bản thân người ta chỉ thụ động ỷ lại và biếng nhác. Ngược lại, khi rao giảng Đấng Cứu thế là ai, thì Gioan cũng vạch ra cho mỗi người con đường phải sửa soạn có thể tiếp một vị cứu tinh như thế. Người sẽ rửa ta trong Thánh Thần. Người sẽ thánh hóa tất cả những ai sẵn sàng. Thế nên hết mọi người phải ăn năn thống hối, phải thú tội và sửa lại đường lối xưa nay. Không còn được sống quanh co, lúc thế này khi thế khác. Phải trước sau như một, thi hành một đòi hỏi của sự thánh thiện. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với tha nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình người và lòng bác ái cứu độ của Đức Kitô đến với hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn và chúng ta mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa trải rộng trên khắp mặt địa cầu.
Không những rao giảng, Gioan còn sống cuộc đời sám hối. Ông ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Ông mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da thú. Ông sống như các thánh nhân thời bấy giờ: không quan tâm đến việc trang điểm bằng các sản phẩm mỹ nghệ, không ăn dùng như những người tưởng chỉ có các thú vui ở đời này. Ngược lại, ông thấy hạnh phúc trong nếp sống gần thiên nhiên, thấy thiên nhiên như tiếng gọi trở về đời sống chất phác và chân thật. Ông coi cuộc đời phù phiếm như đã qua, và trông đợi Trời mới và Đất mới trong đó có công lý sẽ ngự trị.
Tất cả chúng ta không đang được kêu gọi đi vào một nếp sống cụ thể như thế sao? Cả một lối sống phù phiếm như đã qua rồi. Những giờ lao động tiếp xúc với thiên nhiên như đang khiến ta có một nhân-sinh-quan mới: chân thật và đơn sơ hơn. Nhiều nhân đức Phúc Âm như đang có cơ hội được thực thi dễ dàng hơn trước. Chúng ta phải bắt lấy thời cơ, nhờ ơn từ trời xuống, giúp nhau sám hối và đổi đời. Làm được như vậy, là đang san phẳng đường đi cho Chúa đến. Nói đúng hơn, Thánh Thần Chúa ở trong ta đang muốn dùng ta để thay đổi mặt đất này cho công lý ngự trị.
Thánh Thể mà chúng ta cử hành bây giờ cũng chỉ muốn thực hiện những điều đó. Đức Kitô cứu thế mời ta góp phần đời sống sám hối canh tân của chúng ta vào mầu nhiệm Tử nạn của Người, để ơn Phục sinh của Người tràn vào tâm hồn và đời sống chúng ta, dùng nếp sống đổi mới hằng ngày của ta, canh cải mặt đất này tạo nên một Trời mới Đất mới cho tất cả mọi người.
Xin anh em hãy hết mình đi vào mầu nhiệm bàn thờ với những tâm tư quyết liệt như thế.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
52. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Tin Mừng Maccô lại bắt đầu bằng câu chuyện của Gioan Tẩy giả, mà không bắt đầu bằng chuyện Đức Giêsu giáng sinh? Việc dọn đường của Gioan có ý nghĩa gì đặc biệt đối với người Rô-ma?
2. Dựa theo tinh thần bài Tin Mừng, để dọn đường đón Chúa đến, chúng ta cần làm gì một cách cụ thể? Những hình ảnh «dọn sẵn con đường của Đức Chúa», «sửa lối cho thẳng để Người đi» có ý nghĩa gì?
3. Việc dọn đường Chúa đến có liên hệ gì với những quan hệ của ta với tha nhân không?
Suy tư gợi ý:
1. Gioan Tẩy Giả, người dọn đường để Đức Giêsu đến
Khởi đầu Tin Mừng Maccô là chuyện Gioan Tẩy Giả loan báo và dọn đường cho Đức Giêsu đến, khác với Matthêu và Lu-ca khởi đầu bằng chuyện Đức Giêsu giáng sinh. Tại sao? Vì Tin Mừng Maccô được viết cho người Rôma. Theo quan niệm và thông tục của người Rôma, các nhân vật quan trọng đi đến đâu đều phải có người dùng loa thông báo cho dân chúng biết trước mấy ngày, vừa để làm nổi bật sự quan trọng của nhân vật đó, vừa để dân chúng sửa sang những con đường trong vùng cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch sẽ, vừa để dân chúng đón tiếp hai bên đường cho long trọng nếu vấn đề an ninh cho phép. Vì thế, để giới thiệu Đức Giêsu cho các Kitô hữu Rôma mà khởi đầu Tin Mừng bằng câu chuyện của Gioan Tẩy Giả thì sẽ hiệu quả và lôi cuốn sự chú ý hơn. Ngoài ra, để nói lên tính cách đặc biệt thần thiêng của việc dọn đường ấy, thánh sử còn trích dẫn lời của 2 ngôn sứ Isaia và Malakia đã loan báo trước đó khoảng 450-550 năm (tương đương với thời của các vị giáo chủ các tôn giáo châu Á): «Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta» (Ml 3,1), «Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi» (x. Is 40,3).
Phần chúng ta, khởi đầu năm phụng vụ mới, chúng ta cũng cần chuẩn bị đón mừng kỷ niệm Đức Giêsu đến trong nhân loại, đồng thời đón mừng Ngài đến trong tâm hồn mỗi người. Vì thế, thiết tưởng bản thân mỗi người cũng như toàn Giáo Hội hãy dọn đường đón mừng Ngài. Dọn đường thế nào thì Isaia và Gioan Tẩy Giả đã chỉ cho chúng ta.
2. Dọn đường đón mừng Chúa đến
Ngôn sứ Isaia viết: «Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu» (Is 40,3-4). Như vậy, theo ngôn sứ Isaia, để đón Chúa đến, việc đầu tiên là phải mở một con đường. Muốn thế, phải bạt núi, san đồi, lấp thung lũng, đổ đầy các hố rãnh. Đó là nói theo ngôn ngữ hình tượng. Còn trong thực tế thì phải làm gì?
a) Phải mở một con đường = muốn và quyết gặp gỡ Chúa
Chúa đến để gặp gỡ và đem lại cho chúng ta sự cứu độ, không chỉ ở đời sau mà còn ở ngay đời này: một sự bình an và hạnh phúc siêu nhiên, tuyệt vời, không phải thứ bình an hạnh phúc kiểu thế gian vốn bị lệ thuộc vào những điều kiện trần tục (x. Ga 14,27). Nhưng để việc gặp gỡ đó thành hiện thực, chính chúng ta cũng phải mong muốn và quyết tâm gặp gỡ Ngài. Ngài không thể đến với ta nếu chính ta không tích cực muốn điều đó. Do đó, trở ngại lớn nhất khiến chúng ta không thể gặp gỡ Ngài chính là chúng ta không thật sự muốn gặp gỡ Ngài. Vì khi gặp gỡ Ngài, Ngài sẽ đòi hỏi chúng ta phải đối diện với sự thật của chính bản thân chúng ta. Nhưng chúng ta thường muốn trốn tránh sự thật, tránh việc phải đối diện với lương tâm mình... Vì điều này đòi buộc ta phải chỉnh đốn lại cách sống của mình, phải từ bỏ những đam mê, những thói xấu, những bất công vốn đem lại cho ta vui thú, lợi lộc, quyền lực, danh vọng là những thứ ta rất ham thích. Như vậy muốn Chúa đến với ta, ta phải khai phá một con đường, con đường ấy chính là tâm trạng sẵn sàng đón Chúa đến, sẵn sàng đến với Ngài, gặp gỡ Ngài với bất cứ giá nào.
b) Con đường thẳng ngay, bằng phẳng = tâm hồn chính trực
Với những ai muốn đón Chúa đến, Gioan Tẩy Giả yêu cầu: «Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi». Khi đón một nhân vật quan trọng đến một vùng nào, người vùng đó phải dọn dẹp đường cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Cũng vậy, để đón Chúa đến, ta cũng phải sửa lại những con đường trong tâm hồn ta cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực, không quanh co, gian dối, giả tạo...
Ngay thẳng là một trong những yếu tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Kitô hữu cần phải tạo cho mình một tư cách ngay thẳng, chính trực, nói gì hay làm gì cũng phải «công minh chính đại», «đường đường chính chính», không lén lút, giấu giếm, không làm ai phải nghi ngờ điều gì. Tư cách của người Kitô hữu phải là tư cách của một người quân tử, tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào nói thế nấy, và nói thế nào làm thế nấy: «Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không", thêm thắt điều gì là do ác quỷ» (Mt 5,37). Nghĩ một đằng nói một nẻo, hay nói một đằng làm một nẻo là tư cách của tiểu nhân, của phường gian ác, không thể là tư cách của người Kitô hữu: «Đường lối của kẻ gian ác thì quanh co, hành động của người trong sạch thì ngay thẳng» (Cn 21,28); «Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác» (Dt 1,9); «Ngài ghê tởm tâm địa quanh co» (Cn 11,20).
Nguyên nhân biến con người thành quanh co, giả hình, mưu mô... chính là tâm địa ích kỷ, lắm tham vọng, muốn phình to bản ngã. Tâm địa này khiến người ta cố gắng đạt được những điều mình ham muốn - danh vọng, quyền lực, tiền bạc - với bất cứ phương tiện nào, kể cả phương tiện xấu, và bằng bất cứ giá nào, kể cả tội ác. Từ đó con người bị tham vọng và đam mê của mình thu hút, mê hoặc, dẫn đưa mình vào con đường cong queo của tội ác. Do đó, «sửa lối cho thẳng để Người đi» một cách căn bản là dần dần diệt bỏ khuynh hướng ích kỷ, thích đặt nặng «cái tôi» của mình. Khuynh hướng này gây nên tất cả mọi lồi lõm, mọi cản trở khiến Chúa khó đến với ta, và ta khó đến với Chúa. Hãy noi gương Gioan Tẩy giả, sống thanh đạm: «mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng»; không tham vọng, không ham đề cao «cái tôi» của mình, sẵn sàng nhìn nhận sự thật hèn kém của mình: «Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người».
c) Đường đến với Chúa cũng là con đường đến với tha nhân
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn luôn tự đồng hóa với tha nhân của ta. Do đó, người Kitô hữu không thể quan niệm Thiên Chúa độc lập với tha nhân của mình, không thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu tha nhân, không thể đến với Thiên Chúa bằng một con đường khác với con đường đến với tha nhân. Ngược lại, con người không thể yêu thương tha nhân mà không yêu mến Thiên Chúa, không thể đến với tha nhân bằng con đường khác với con đường đến với Thiên Chúa. Chủ trương chỉ yêu tha nhân không cần đếm xỉa gì đến Thiên Chúa, hay ngược lại, chỉ yêu Thiên Chúa mà không đếm xỉa gì đến tha nhân đều là những tình yêu giả tạo, không thực tế. Do đó, muốn đến và gặp gỡ với Thiên Chúa không gì tốt đẹp và chắc chắn bằng đến hay gặp gỡ Ngài nơi tha nhân của ta. Và muốn đến và gặp gỡ tha nhân không gì bảo đảm và tạo hạnh phúc cho họ bằng đến và gặp gỡ họ trong Thiên Chúa. Đối với người Kitô hữu, không thể tách rời Thiên Chúa khỏi tha nhân, và tách rời tha nhân khỏi Thiên Chúa.
Vậy, đón Chúa đến, không gì làm Chúa hài lòng bằng sửa sang lại mọi quan hệ của ta với tha nhân cho tốt đẹp hơn, tình nghĩa hơn: làm sao để cha mẹ ta cảm thấy ta thật sự là con hiếu thảo, con cái ta thấy ta thật sự là cha mẹ tốt, anh chị ta thấy ta là người em tốt, các em ta thấy ta là người anh tốt, bạn bè ta thấy ta là người bạn tốt, những nhà chung quanh ta thấy ta là hàng xóm tốt... Hãy sống làm sao để không mấy ai có thể chê trách ta được, ai cũng cảm nhận được tình thương của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha là một Thiên Chúa luôn luôn đồng hóa với tha nhân của con. Nhờ đó, con có thể gặp gỡ Cha trong những người sống chung quanh con, con có thể yêu thương và phục vụ Cha bằng việc yêu thương phục vụ họ. Vì thế, chuẩn bị đón Cha đến trần gian, không gì tốt đẹp hơn làm cho môi trường con đang sống biến thành một môi trường yêu thương. Xin giúp con thực hiện điều Cha mong muốn nhất ấy.
53. Sống cùng trời và đất mới
(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Mùa Vọng -mùa của những ngóng trông. Mùa của những đợi chờ. Trông ngóng đợi chờ mưa Đấng Cứu Tinh như cộng đoàn của Phêrô đã mỏi mòn ngày đêm trông ngóng đợi chờ.
Đợi chờ trông ngóng đã lâu, họ cảm thấy nôn nao xao xuyến. Và Phêrô chỉ còn biết ủi an họ so sánh ý niệm về thời gian khác nhau một trời một vực giữa Thiên Chúa và con người. Như có người kia hỏi Chúa: "Một triệu đồng với Chúa đáng giá bao nhiêu?" "Chỉ một xu thôi!" Chúa đáp. "Thế một triệu năm thì sao?" "Một giây!" "Thế Chúa hãy cho con một xu," người kia khẩn khoản. "Hãy đợi Ta một giây," Chúa mỉm cười...
Nhưng ngay cả Phêrô cũng không thể nào tính toán xác định ngày giờ Đấng Cứu Tinh đến. Điều quan trọng trong tâm trí Phêrô không phải chờ đợi ngóng trông nhưng là thực lòng sống sự chờ đợi ngóng trông kia -một đời sống chân chính thánh thiện không tỳ ố. Sống một đời sống chân chính thánh thiện không tỳ ố chẳng phải giản đơn sống để rồi khi chết đi đuợc đến thiên đàng nhưng là sống cùng một "trời mới và đất mới". Và Phêrô cả quyết là có sự khác biệt giữa hai đời sống này như sự khác biệt ý niệm về thời gian giữa Thiên Chúa và con người.
Sống để rồi khi chết đi đuợc đến thiên đàng là không làm điều xấu nhưng cũng rất ngại ngần không làm điều tốt. Nếu tội đuợc hiểu theo nghĩa không hẳn chỉ làm điều xấu mà không dám làm điều tốt thì đây quả thật là một đời sống rất cứng nhắc và máy móc. Một đời sống an phận thủ thừa. Một đời sống không kết trái đơm hoa.
Nhưng khi sống cùng "trời mới và đất mới", chúng ta sống tay áo luôn xắn cao. Đó không bao giờ là một đời sống hưởng thụ cầu an nhưng hằng hằng chấp nhận và đối diện với những thực tế rất phũ phàng của cuộc đời để rồi từ đó tìm một hướng đi lên, một đuờng lối mới.
Sống cùng "trời mới và đất mới" là thực thi công lý hoà bình. Là gieo rắc tin yêu hy vọng. Là luôn gióng tiếng chuông cao mạnh dạn cảnh tỉnh những thái độ sống bất chính bất lương. Là xung phong nơi đầu tên ngọn gió đối đầu với những chế độ phi nhân xem thuờng mạng sống con người.
Vì thế, câu hỏi mà mỗi chúng ta cần tự vấn mùa Vọng năm nay chẳng phải là đã sẵn sàng chưa cho ngày sau hết nhưng là đã chuẩn bị chưa để sống cùng "trời mới và đất mới!" Và Gioan Tẩy Giả gọi đó là một đời sống luôn biết thống hối ăn năn.
Một đời sống thống hối ăn năn không hẳn chỉ hoài niệm về quá khứ để rồi ân hận, tiếc nuối, xót thương nhưng là luôn hướng về tương lai để khiêm cung nhận thức rằng qua những thiếu sót lỗi lầm con nguời, tình yêu và lòng thứ tha vô bờ bến của Thiên Chúa lại luôn chan chứa đầy tràn.
Chiến tranh, thù hận là khi con nguời u mê chôn chặt tâm trí vào quá khứ để rồi không dám mở rộng vòng tay ôm lấy "trời mới và đất mới." Sống trọn vẹn tinh thần mùa Vọng -mùa của những đợi chờ- là biết nhìn nhau và nhìn về tuơng lai với đôi mắt rất tha thứ bao dung và tay nắm tay xây dựng thế giới mỗi ngày mỗi tuơi đẹp hơn. Cho chính chúng ta. Cho đàn con đàn cháu. Như câu mở đầu cuốn phim đầy cảm xúc "The Schindler's List": "Cứu đuợc một người là cứu đuợc toàn thế giới."
54. Dọn đường Chúa đến
Hãy dọn đường Chúa đến, đây là một hình ảnh khá quen thuộc của thế giới đông phương thời xưa. Thực vậy, đường sá lúc bấy giờ đâu có trơn tru phẳng lì như những xa lộ hiện đại. Đường thì gập ghềnh, có chỗ trũng có chỗ cao. Mỗi lần viên chức cao cấp đi qua, dân trong vùng lân cận đều được huy động đi dọn đường, bạt chỗ cao lấp đầy chỗ trũng, làm cho thẳng những khúc quanh co.
Lời kêu gọi dọn đường đặt chúng ta vào trong một bầu khí rộn ràng, nhộn nhịp của việc chuẩn bị đón mừng Chúa đến. Thế nhưng Ngài đã không đến như một viên chức cao cấp. Ngài đã chẳng ngại đêm tối hay nhờm gớm mùi hôi hám của một chuồng bò. Ngài chấp nhận cái nóng bỏng chân của con đường ngang qua sa mạc. Ngài yêu thích những con đường gồ ghề dẫn tới biển để gặp các môn đệ, những con đường dẫn lên núi để ở giữa đám đông, rao giảng Tin mừng cho ho, những con đường ngang qua những cánh đồng để đi tìm những con chiên lạc.
Ngài đã đi con đường dẫn tới núi Sọ với cây thập giá trên vai với sức nặng của những lời chế diễu và chửi bới… Ngài đã chấp nhận một cuộc sống không có lấy một hòn đá gối đầu và một cái chết không mảnh vải che thân, bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Một con người như thế đâu cần ai dọn đường…
Chúng ta có thể trang hoàng thánh đường một cách lộng lẫy, những hang đá đẹp đẽ, tập những bài hát du dương, nhưng tất cả là để cho chúng ta, những kẻ khó chấp nhận Tin mừng của sự nghèo túng, Tin mừng của những cái bình thường.
Riêng Chúa, Ngài vẫn muốn đi trên những con đường dẫn tới lòng người, dẫn tới trái tim. Và như thế, dọn đường Chúa đến có nghĩa là dọn lòng mình để đón nhận Chúa cùng với Tin mừng cứu độ của Ngài.
Chúng ta đừng vội nghĩ ngay đến việc xưng tội, mặc dù chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuốn đến cùng Gioan Tẩy giả thú nhận tội lỗi và chịu phép rửa trong sông Giócđan. Xưng tội thì có xưng, nhưng họ lại không đón nhận Ngài khi Ngài đến. Và không chỉ có vậy, hơn thế nữa, họ còn hò hét đòi thủ tiêu Ngài. Họ xưng tội nhưng lại khóa chặt cửa lòng đối với Tin mừng Phúc âm. Họ đã không nhận ra Ngài là gì đối với sự cứu thoát của họ và họ đã ngại đi vào con đường cứu thoát mà Ngài đã vạch ra. Con đường có quá nhiều chông gai, bấp bênh và nguy hiểm. Con đường đòi buộc chúng ta phải cởi bỏ tất cả những gì mình đang chiếm hữu như một bảo đảm cho sự sống để đón nhận cái mới, đó là sự hiện diện của Con Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta.
Dọn đường như thế có nghĩa là dọn lòng, là cởi bỏ những định kiến, những ích kỷ, những tính toán, lấy chính cái tôi làm tiêu chuẩn, những quyền lợi có thể là mang dáng dấp thiêng liêng, nhưng lại chẳng có chút dấu vết gì của Tin mừng, là cởi bỏ những ràng buộc để chúng ta có thể tự do đón nhận giáo huấn của Chúa. Bởi vì, giáo huấn của Chúa chính là con đường dẫn chúng ta tới sự giải thoát.
55. Chúng ta đợi chờ
Truyện cổ Đông Phương kể về một con cá con bơi dọc theo bờ sông. Cạnh bờ sông, ông giáo đang dạy khoa học cho các học trò đang quây quanh ông. Thày giáo giảng: "Nước tuyệt đối cần thiết cho sự sống. Không có nước trong một tuần lễ chúng ta sẽ chết." Một con cá con nghe vậy liền tự nghĩ: "Trời! Nếu nhà khoa học đó nói đúng, tôi phải đi tìm cái mà người ta gọi là nước đó, nếu không tìm được mấy ngày nữa tôi sẽ chết." Nó hỏi mọi con cá khác nó gặp có biết nước là gì không, nhưng không ai trả lời cho nó. Họ chỉ biết để ý đến tìm của ăn nuôi sống. Nhiều con cá còn cho nó là dại gì mà nghĩ những chuyện đâu đâu. Nó tiếp tục đợi chờ đi tìm cái gọi là nước. Rồi một hôm nó cố hỏi con cá lớn tuổi, có phần khôn ngoan: "Làm ơn chỉ cho tôi cái chất mà người ta gọi là nước là gì và tìm đâu ra nó?" Con cá lớn trả lời: "Nước hả! Mày đang ở trong đó, mày sinh ra và lớn lên trong đó. Nước bao quanh mày và mày cứ ngụp lặn, hút lấy nó thì mày sống được." Con cá đang sống trong nước mà nó không nhận ra. Cũng thế, chúng ta đang sống trong sự hiện diện của Chúa mà chúng ta không nhận ra Ngài.
Thời gian đã đến, Thiên Chúa thể hiện công trình cứu chuộc. Ngài đã không kiến tạo một thế giới khác, xứng đáng đón nhận sự viếng thăm của Ngài. Ngài đã đến trong thế giới con người, những người đang mong mỏi chờ đợi Ngài đến. Hầu hết những người Do Thái, không sống đúng với việc nghinh đón Đấng Thiên Sai, đã quên đi việc chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế. Nhiều lần trong Cựu Ước, con cái Israen đã bước theo những thần tượng khác.
Trong biến cố Giáng Sinh, Tình yêu Thiên Chúa đi vào sự hiện hữu của con người. Nơi Chúa Kitô, Thiên Chúa được khám phá ngay trong cuộc sống thường ngày của con người.
Đối với hầu hết chúng ta, không ai là tầm thường khi là một phần tử của gia đình. Thông thường, sự quen thuộc gây nên mãn nguyện, coi thường. Điều đó đúng khi không biết tìm mới lạ trong thường ngày. Đây chính là bí mật của Phúc Âm được khám phá do những người vợ, người chồng, người anh, người em, những người bạn. Thật đẹp biết bao có những gia đình, những tình bạn mà tình yêu luôn đầm thắm. Nhưng điều đó hiếm hoi quá.
Chúng ta giống như các trẻ em sáng thứ Bảy muốn có những cuộc giải trí hào hứng. Tuy nhiên, tiến trình làm phong phú sự liên hệ tình người không phải là cuộc giải trí nhưng là dấn thân. Chúng ta nghe có những gia đình mất đi những thích thú. Họ thấy nhạt chán. Từ trước đến giờ, họ trở đi trở lại cũng một trò cười, những thói quen, những phàn nàn. Họ nghĩ đến một liên hệ mới để có thể tìm vui hứng. Thật đáng buồn.
Nơi Chúa Kitô, Chúa tự ngụp sâu vào tình trạng con người. Thực tại của con người, của mỗi người thì vô tận. Mỗi người là một mầu nhiệm đối với những người khác: Mầu nhiệm vui và buồn, mầu nhiệm của nước mắt và hy vọng, mầu nhiệm của đau đớn và hoan lạc. Chúng ta là mầu nhiệm đối với chính chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Chỉ trong Nước Chúa, chúng ta sẽ thấy chúng ta như Chúa thấy chúng ta." Cho đến ngày đó, chúng ta vẫn còn thám hiểm.
Một trong những mầu nhiệm cao cả của Đức Tin là Ơn Thánh Chúa cống hiến chúng ta sự sống mới mà chúng ta đang mong đợi và Chúa đang đợi chúng ta đáp trả. Ngài không áp lực. Ngài không đánh tráo. Ngài chờ đợi! Còn chúng ta, chúng ta không hiểu được "Chúa ở đâu?" "Ngài ẩn trốn?" hay "Ngài bỏ rơi?" Thật ra, Chúa ở đó và chờ đợi. Chúng ta phải đáp trả mới nhận ra sự hiện diện của Ngài. Chúng ta phải có ý sử dụng sự sống mới Ngài tặng ban, nếu không, việc tặng ban sẽ vô ích. Chúng ta phải có ý bước theo con đường của Ngài.
Thánh Mátcô nói: "Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa thống hối." Nói cách khác, Đấng Thiên Sai quí vị đang mong chờ đang hiện diện. Đây là lúc cần thay đổi. Gioan không công bố, "Đức Kitô sắp đến." Ngài rao giảng phép rửa thống hối; ngài kêu gọi một sự đáp ứng.
Trong cuốn tiểu thuyết The Shoes of the Fisherman, có câu rất hay: "Cái giá phải trả để thành một con người hoàn toàn quá đắt đến nỗi ít người có hứng hay có can đảm để trả nó." Lúc này chúng ta có thể quyết sống một đời sống mới. Chúng ta quyết chí thành một người hoàn toàn. Chúng ta đón nhận ơn soi sáng nhận ra Chúa hiện diện trong ta và can đảm sống cuộc sống mới.
Chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, Ngài hỏi chúng ta có muốn một đời sống mới không? Giáng Sinh nói cho chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài tự hạ mình hiện diện trong cuộc sống nhân loại. Ngài chờ chúng ta khám phá ra Ngài. Chúng ta sẽ không thể nhận ra Ngài nếu chúng ta không nhận ra Ngài trong người chồng, người vợ, người cha, người mẹ, các con, bạn bè, người khách lạ, hay kẻ thù. Giáng Sinh không những để mừng vui, Giáng Sinh mời gọi khám phá, khám phá ra sự hiện diện của Chúa Giêsu.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam