Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 34
Tổng truy cập: 1373406
HỌC SẴN SÀNG THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC CHÚA THỨ THA
*I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu không chấp nhận giới hạn tha thứ bẩy lần do Phêrô đề nghị, nhưng Người đòi môn đệ phải tha bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha luôn luôn cho anh em mình. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ những tội nợ của anh em mình vì ba lý do như sau: Một là vì ta đã được Thiên Chúa tha thứ vô điều kiện. Hai là vì số nợ của anh em đối với ta chẳng là gì so với số nợ ta mắc đối với Thiên Chúa. Ba là nếu ta đòi anh em tính sổ sòng phẳng thế nào, thì ta cũng sẽ bị Thiên Chúa tính sổ nợ sòng phẳng như vậy.
CHÚ THÍCH:
– C 21-22: + Ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi…: Phêrô muốn biết phải xử trí thế nào đối với những kẻ đã xúc phạm đến mình? + Con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?: Các Ráp-bi Do thái xưa dạy “quá tam ba bận” nghĩa là tha tối đa 3 lần. Tông đồ Phêrô thì đưa ra số 7 lần là một con số hoàn hảo. Nhưng Đức Giêsu còn đòi các môn đệ phải đi xa hơn nhiều. + Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy: Có chỗ ghi là bảy mươi bảy lần bảy. Ông La-méc xưa đã đòi vợ con phải trả thù cho ông: “Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, còn La-méc thì gấp bảy mươi bảy” (x. St 4,24). Ở đây, thay vì đòi báo thù, Đức Giêsu lại đòi môn đệ phải tha thứ bảy mươi lần bảy, nghĩa là: Phải tha luôn luôn, không giới hạn số lần và phải tha vô điều kiện. Lý do để tha không phải do kẻ có lỗi đã biết ăn năn sám hối, cũng chẳng phải vì kẻ bị xúc phạm muốn tỏ ra sự quảng đại của mình, nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đối xử cách quảng đại và bao dung đối với mọi con nợ của mình.
– C 23-25: + Ông vua kia: Trong Kinh Thánh, vua thường ám chỉ Thiên Chúa, Đấng có quyền tối thượng trên mọi phàm nhân, là vị thẩm phán tối cao và có quyền ra án lệnh cuối cùng. + Đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách: Ở đây là tính sổ theo phép công bình. + Các đầy tớ: Trong Thánh Kinh, đầy tớ vừa ám chỉ thuộc hạ hay nô lệ mà cũng ám chỉ bề tôi hay cận thần của nhà vua, là những người có đầy thế lực (x. 1 Sm 8,14; 2 V 5,6). + Một kẻ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng: Mỗi nén vàng thời đó giá sáu ngàn quan tiền, tương đương với sáu ngàn ngày công. Mười ngàn nén vàng tương đương với 60.000.000 (sáu mươi triệu) quan tiền + Y không có gì để trả: Không trả được vì món nợ quá lớn. Cũng vậy, tội lỗi của con người phạm đến Thiên Chúa nặng nề vô cùng, không bao giờ người ta có thể trả hết được. + Chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ: Trong Kinh Thánh có những trường hợp người mắc nợ không trả được món nợ, nên đã bị chủ bắt con cái người ấy phải làm nô lệ để trừ nợ (x. 2 V 4,1). Ở đây cho thấy cả vợ con cũng phải liên đới chịu trách nhiệm trong việc trả nợ. Như vậy tội lỗi gây ra hậu quả nghiêm trọng không những đối với người phạm tội, mà còn đối với cả những người thân trong gia đình nữa.
– C 26-27: + Sấp mình xuống bái lạy: Người đầy tớ biểu lộ thái độ khiêm nhường luỵ phục bằng việc sấp mình xuống trước tôn chủ mà bái lạy. + Xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết: Anh ta không dám xin tôn chủ tha nợ, vì anh biết số nợ kia quá lớn, và anh không đáng được tha món nợ ấy. Anh chỉ dám xin thêm thời gian để lo thu xếp trả nợ. Cũng giống như đứa con hoang đàng thấy mình không còn đáng được Cha tiếp nhận làm con giống như trước đó, mà chỉ dám xin cha cho anh được làm công cho cha để đền tội mà thôi (x. Lc 15,19). + Tôn chủ của tên đầy tớ liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ: Cho dù món nợ quá lớn, nhưng thấy người đầy tớ có thái độ khiêm nhường xin được khất nợ, thì tôn chủ đã động lòng thương. Ông không những cho khất mà còn sẵn sàng tha hết số nợ lớn lao cho anh ta. Cũng vậy, dù tội chúng ta phạm đến Chúa nặng đến đâu đi nữa, nhưng nếu ta ăn năn và quyết tâm chừa cải, thì Thiên Chúa cũng sẽ tha thứ cho ta tất cả, và còn ban thêm nhiều ơn hơn cả những điều ta dám cầu xin Người.
– C 28-30: + một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền: Người bạn này chỉ mắc nợ y một trăm quan tiền, tương đương với một trăm ngày công lao động. Ở đây so sánh hai món nợ chênh lệch nhau quá nhiều nhằm diễn tả tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa thật quá nặng nề, nếu so với tội anh em phạm đến ta. Vì Thiên Chúa thánh thiện và uy quyền vô cùng, nên tội ta dù nhỏ bé, cũng trở nên nặng hơn nhiều lần. Giống như khi ta dùng một lời nào đó để chửi bạn bè nặng một, nhưng nếu ta cũng dùng lời đó để chửi cha mẹ hay người bề trên thì sẽ thành nặng hơn gấp mười. + Y túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao !”: Câu chuyện này diễn tả thái độ khắc nghiệt của tên đầy tớ đối với một người bạn là con nợ của hắn ta. Thái độ này tương phản với thái độ bao dung độ lượng của tôn chủ đối với anh ta. + Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh: Thái độ và lời năn nỉ của người đồng bạn cũng giống như thái độ và lời cầu xin của tên đầy tớ đối với tôn chủ trước đó. Cả hai con nợ đều không dám xin tha nợ, mà chỉ xin khất một kỳ hạn. Đức Giêsu cố ý trình bày sự tương đồng giữa thái độ của hai con nợ, để làm nổi bật sự tương phản, một bên là lòng quảng đại bao dung của Thiên Chúa tha nợ vô điều kiện, và bên kia là sự hà khắc độc ác của phàm nhân chúng ta đòi xử lý tới cùng. + Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ: Khi bắt con nợ vào ngục, chủ nợ cưỡng bức lao động để trừ dần số nợ, hoặc để người này phải nhờ thân nhân bán đồ đạc nhà cửa, hay đi vay mượn để lấy tiền trả nợ. Ở đây cho thấy lòng dạ tên đầy tớ này thật hẹp hòi và thiếu lòng khoan dung độ lượng.
– C 31-33: + Các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ: Họ bất mãn trước cách cư xử vô nhân đạo và độc ác của tên đầy tớ với bạn hắn ta. Thái độ ấy trái với lòng quảng đại bao dung mà hắn đã nhận được từ nơi tôn chủ. Vì thế những người này đã đi tố cáo hành động bất nhân của hắn để yêu cầu tôn chủ xử lý hắn. + Tên đầy tớ độc ác kia: Tôn chủ la rầy sự độc ác mà hắn đã xử với con nợ của hắn, trái với lòng khoan dung của ông đối với hắn. + Ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?: Tôn chủ đã hạch tên đầy tớ về thái độ thất nhân ác đức đối với đồng bạn của hắn. Trong kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy các môn đệ phải tha thứ tội nợ cho anh em để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ cho mình.
– C 34-35: + Tôn chủ nổi cơn thịnh nộ: Việc tên đầy tớ không chịu tha thứ cho đồng bạn khiến hắn đã bị tôn chủ nổi giận. Ông đã xử lý với hắn theo phép công bình là giam hắn vào ngục tối cho đến khi trả hết số nợ, đúng như hắn đã xử lý với người bạn là con nợ của hắn trước đó. + Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế: Lời kết luận nhằm áp dụng cụ thể bài học: Nếu các môn đệ muốn được Thiên Chúa đối xử khoan dung tha thứ tội lỗi cho mình, thì cũng phải sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm cho anh em.
CÂU HỎI:
1) Phân biệt về số lần đòi báo thù của ông La-merk thời các Tổ phụ, lời dạy về số lần tha thứ của các rab-bi Do thái, lời đề nghị về số lần tha thứ cho anh em của Tông đồ Phêrô và lới dạy về số lần phải tha thứ của Chúa Giêsu khác nhau thế nào? 2) Trong dụ ngôn về hai con nợ, kẻ mắc nợ mười ngàn nén vàng đã cư xử thế nào đối với con nợ chỉ mắc nợ anh ta có một trăm quan tiền?
*II. SỐNG LỜI CHÚA
*1. LỜI CHÚA: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35).
*2. CÂU CHUYỆN:
1) Người hành khất có lòng khoan dung tha thứ:
Văn hào Nga LÊ-ÔNG TÔN-TOI (Léon Tolstoi) có kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Có một lão hành khất kia đứng trước cửa nhà của một người phú hộ để xin bố thí. Nhưng thay vì bố thí cho kẻ nghèo, người phú hộ kia lại nhặt một hòn đá ném vào lão ăn mày để xua đuổi đi. Bị hòn đá ném trúng vào mặt, máu chảy đầm đìa, lão hành khất tức giận lắm, nhưng không làm gì được. Sau khi băng tạm vết thương, lão ta đã nhặt lấy cục đá ném mình cho vào bị, rồi tự nhủ: “Ta sẽ mang theo hòn đá này cho đến ngày mi bị sa cơ thất thế. Bấy giờ ta sẽ dùng chính nó để ném trả vào mặt mi”. Nhiều năm sau, lời chúc dữ của lão hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận công quỹ, nên người phú hộ đã bị bắt và còn bị tịch biên toàn bộ tài sản. Trong lúc lính đến vây bắt ông ta, thì lão hành khất kia cũng có mặt ở đó. Lòng căm hận ngày xưa giờ đây lại có dịp bùng phát trở lại. Lão ta cứ bám theo đám người áp tải kia, tay nắm chắc hòn đá năm xưa để chờ cơ hội ném tên phú hộ rửa hận. Nhưng đến khi nhìn thấy gương mặt tiều tụy hốc hác của người này, thì một sự thương cảm lại nổi lên trong lòng lão. Lão tự nhủ: “Bây giờ thì tên phú hộ này cũng chỉ là một kẻ khố rách áo ôm còn khổ hơn ta. Hắn vừa mất hết tài sản, lại còn bị cùm trong ngục tối không biết đến khi nào. Như vậy là ông Trời đã trả báo điều dữ xưa hắn đã làm cho ta rồi. Vậy ta cần chi phải báo oán nữa?”. Nghĩ thế rồi, lão hành khất buông tay ra cho hòn đá rơi xuống đất và bỏ đi nơi khác.
2) Xây dựng một tình yêu đại đồng:
Trong cuốn tiểu thuyết “MẶT TRẬN PHÍA TÂY VẪN YÊN TĨNH” (All quite on the Western), tác giả đã thuật lại câu chuyện cảm động về hai người lính Đức và Pháp như sau:
“Lúc đó cuộc chiến đang diễn ra rất ác liệt giữa quân đội hai nước Đức và Pháp. Một chú lính Đức còn trẻ đang nằm sát dưới một cái hố để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên chú ta thấy một người lính Pháp cũng nhảy vào trong hố để tránh đạn đang nổ ầm ầm chung quanh. Trước khi người lính Pháp nhận ra kẻ thù, thì chú lính Đức kia đã đâm anh ta một nhát trúng bụng, khiến anh ta ngã ra bất tỉnh. Bấy giờ chú lính Đức kia chăm chú vào cặp mắt thất thần của kẻ thù. Chú ta thấy người này do máu ra nhiều nên đang há miệng thở hắt ra rất gấp. Môi anh ta bị khô như sắp nứt nẻ. Chú lính Đức liền động lòng trắc ẩn, chú ta lấy ra bình nước đang đeo bên mình cho kẻ thù sắp chết kia uống. Sau khi uống xong mấy ngụm nước thì người lính Pháp tắt thở. Cái chết của anh ta khiến chú lính Đức đột nhiên cảm thấy hối hận vì đã giết chết anh ta. Đây là lần đầu tiên chú nhúng tay vào máu. Chú ta tò mò muốn biết tên của kẻ kia. Khi lần túi quần người chết, chú ta lôi ra một chiếc ví da, trong đó có gắn hình người phụ nữ khá đẹp đang bế một bé gái khoảng ba bốn tuổi, mà chú ta đoán là vợ con của người lính Pháp này. Chú ta chợt nhận ra anh ta không phải là kẻ thù của chú, nhưng là một người chồng và một người cha, là một người cũng biết yêu và muốn được yêu, giống như chú vậy. Chú liền lấy ra một quyển sổ tay để ghi địa chỉ của người chết, và giữ lại tấm hình kia, mà chú định viết thư cho vợ con anh ta để bày tỏ lòng hối tiếc, đồng thời xin lỗi vợ con của người bị chú giết chết”.
Chính nhờ biết thay đổi cách nhìn, mà chú lính Đức đã nhận ra người lính Pháp không phải là kẻ thù, nhưng là một người anh em giống như chú, một người chồng và người cha đang mong sớm chấm dứt chiến tranh để được trở về sống hạnh phúc bên vợ con.
3) Sẵn sàng tha cho kẻ thù ghét giết hại mình:
Cha KÍT-XI-ĂNG XÉC-GHÊ (Christian de Chergé) và 6 tu sĩ đã được bề trên phái đi truyền giáo tại một nước Hồi giáo xa xôi. Các nhà lãnh đạo tôn giáo ở đây đã làm đủ cách để hạ uy tín và trục xuất các ngài. Nhưng các tu sĩ không nao núng và vẫn kiên trì với ơn gọi thừa sai. Cuối cùng các người lãnh đạo quyết định giết các ngài. Khi được mật báo mình sắp bị giết, cha Xéc-ghê đã viết một bức thư để sẵn trong túi áo. Ngài viết để gửi cho những kẻ thù ghét đang kéo đến giết hại mình. Nội dung bức thư có đoạn viết như sau: “Và cả bạn nữa, một người bạn giây phút cuối cùng cuộc đời tôi. Bạn đã không hiểu biết việc bạn đang làm. Tôi cầu xin Chúa cho hai chúng ta đều là những kẻ trộm lành. Chúng ta hy vọng sẽ được gặp nhau trên quê trời. Nơi đó chúng ta sẽ được ở với Thiên Chúa là Cha chúng ta”. Lời lẽ trong bức thư không chút hờn oán.
Cha Xéc-ghê đã coi kẻ sắp giết mình như là một người bạn, một người trộm lành giống như cha, và cha mong ước sau này sẽ gặp được anh ta ở trên trời. Thật là một sự tha thứ phi thường giống như Đức Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đó cũng phải là thái độ và là nội dung lời cầu của mỗi tín hữu chúng ta.
4) Để dễ tha thứ cần khiêm tốn nhận mình cũng bất toàn:
Một hôm gà con cứ theo bám riết lấy gà mẹ. Nó vừa khóc vừa kể cho mẹ nghe về nỗi uất ức ma nó đang phải chịu. Nó nói: “Mẹ ơi, tụi thỏ dám nhạo con rằng tai con chỉ bằng một góc tai của chúng”. Gà mẹ trả lời: “Con đừng để tâm đến những lời bọn thỏ nói làm chi, và hãy tha thứ cho chúng, con nhé!”. Gà con chưa chịu thua tiếp tục tố cáo: “Nhưng bọn cò lại bảo con rằng: con chỉ cao bằng một phần năm cẳng chân của chúng!” Gà mẹ lại an ủi con: “Con ơi! Đừng chấp với chúng làm chi!” Nghe mẹ nói thế, gà con uất ức khóc to lên và nói: “Mẹ! Lúc nào mẹ cũng nói là phải tha cho chúng, đừng thèm chấp với chúng. Còn con thì cứ phải chịu đựng bị bọn chúng cười nhạo chế diễu hoài! Tại sao vậy hả mẹ?” Bấy giờ gà mẹ mới ôn tồn nói với gà con: “Tại vì bọn chúng nói đúng mà con!”. Gà con hỏi tiếp: “Sao lại đúng hả mẹ?”. Gà mẹ trả lời: “Tại vì con thật ra cũng chỉ là một con gà mà thôi!”.
Giống như chú gà con kia, chúng ta thường cảm thấy bị xúc phạm và khó lòng tha thứ cho những kẻ dám cười nhạo khinh thường chúng ta, chỉ vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật yếu đuối hèn kém của mình. Lòng khiêm tốn là điều kiện giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận bỏ qua những lời nói hành nói xấu hay lời chế nhạo của kẻ khác đối với chúng ta.
5) Mau quên các lỗi phạm và luôn ghi nhớ công ơn của tha nhân:
Sự tha thứ và biết ơn luôn là những cách giúp chúng ta yêu quý cuộc sống, tránh được sự muộn phiền và lòng tràn ngập yêu thương. Nhưng để làm được điều ấy thật không dễ. Bài học về tha thứ và biết ơn từ câu chuyện của cát và đá sau đây sẽ mang đến cho chúng ta niềm vui tâm hồn.
Có hai người bạn thân cùng nhau đi trên sa mạc hoang vắng. Trong suốt cuộc hành trình, họ đã tranh cãi với nhau nhiều lần, đến một lúc, có một người trong phút nóng giận đã tát vào mặt anh bạn của mình. Khi đó, người bị tát dù cảm thấy rất buồn, nhưng anh ta chỉ lẳng lặng dùng ngón tay viết lên bãi cát bên cạnh: “Anh bạn đồng hành với tôi hôm nay đã đánh tôi”. Sau đó hai người tiếp tục đi.
Khi hai người đến một ốc đảo và quyết định nghỉ chân tại đây. Chẳng may, người bị đánh khi nãy bước vào chỗ đầm lầy bị lún, mà càng cố thoát ra thì lại càng bị lún sâu hơn. Rất may sau đó anh đã được người bạn kia cứu thoát khỏi chỗ lầy.
Sau khi đã bình tĩnh lại, anh đã dùng con dao đeo bên mình khắc lên phiến đá gần đó như sau: “Cám ơn anh bạn thân, vì đã cứu sống tôi khỏi vũng lầy”.
Anh bạn đã đánh và sau đó đã giúp đỡ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi tôi đánh anh thì anh viết lên cát, còn bây giờ khi tôi cứu anh thì anh lại khắc lên đá? ”.
Người kia cười và trả lời như sau: “Mỗi khi chúng ta bị đối xử tệ bạc hoặc bị người khác làm tổn thương, chúng ta chỉ ghi sự tức giận lên cát, để với thời gian, gió cát sẽ xóa nhòa điều ấy. Còn khi chúng ta được giúp đỡ, chúng ta hãy trân trọng sự giúp đỡ đó và ghi khắc nó lên đá để sau này luôn nhớ đền đáp công ơn của họ. Chính điều này sẽ gia tăng nhân cách nơi chúng ta.
*3. SUY NIỆM:
1) Tại sao phải tha thứ?:
+ Tha thứ để đáng được thứ tha: Đức Giêsu dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ các lỗi lầm của anh em, để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ lớn lao cho mình: Câu chuyện về tên đầy tớ độc ác vừa được tôn chủ tha cho số nợ vô cùng lớn lao là 10.000 nén vàng đang khi hắn chỉ dám xin ông cho khất nợ. Nhưng hắn đã không đối xử bao dung nhân ái như thế với một người bạn chỉ nợ hắn có 100 quan tiền. Hắn đã đòi xử lý để yêu cầu tống giam người kia vào tù, cho đến khi trả hết số nợ. Tôn chủ của hắn nghe biết đã nổi giận và đã xử lý với hắn giống như hắn đã làm cho người bạn kia. Ông yêu cầu tống giam hắn vào ngục, cho đến khi trả hết số nợ lớn lao, mà lẽ ra hắn đã được chủ tha vô điều kiện.
+ Đàng khác, tha thứ cũng là một cách để hóa giải thù hận như Đức Phật đã dạy: “Lấy oán báo oán, oán thù chồng chất. Lấy ơn báo oán, hóa giải oán thù”.
2) Phải tha thứ bao nhiêu lần?:
+ Phải tha luôn luôn: Về số lần tha thứ thì các Ráp-bi Do thái đã dạy chỉ tha thứ tối đa 3 lần: “Quá tam ba bận”. Ông Phêrô đề nghị với Thầy tha tới bảy lần và nghĩ rằng sẽ được Thầy khen ngợi. Nhưng ông thật bất ngờ khi Thầy đòi ông không những phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là phải tha luôn luôn, không có giới hạn và tha vô điều kiện (x. Mt 18,22).
+ Phải tha vô điều kiện: Qua bài dụ ngôn trong Tin Mừng: Đức Giêsu đòi các môn đệ phải sẵn sàng tha thứ, không phải vì kẻ có tội đã biết nhận lỗi, cũng chẳng phải để các ông có dịp lập thêm công đức, nhưng chỉ vì lòng xót thương. Chúa muốn các môn đệ hãy luôn tha thứ vì mình đã được Thiên Chúa tha cho món nợ khổng lồ là các tội đã phạm đến Chúa, nên cũng phải biết noi gương Chúa để sẵn sàng tha lỗi cho anh em mình.
3) Điều kiện để dễ tha thứ:
+ Theo bản tính tự nhiên, mỗi người chúng ta khó thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn tranh chấp và báo oán. Luật “mắt đền mắt, răng thế răng” tuy có giúp chúng ta trả oán công minh, nhưng chính nó lại là nguyên nhân khiến thế giới này lâm vào tình trạng chiến tranh hận thù liên miên. Chỉ khi con người sẵn sàng tha thứ thì họ mới có thể sống chung hòa bình và được hạnh phúc thực sự.
+ Tha thứ đồng nghĩa với chịu thiệt thòi. Khi chấp nhận tha thứ là ta công nhận tình thương sẽ đánh tan băng giá. Tình thương sẽ làm cho trái tim chai đá của chúng ta biến đổi nên mềm mại để tiếp tục rung động và chạnh lòng xót thương những kẻ đau khổ tội lỗi noi gương Chúa Giêsu.
4) Làm gì để thực hành sự tha thứ?
Việc tha thứ cho kẻ thù không dễ dàng, đòi mỗi chúng ta phải quyết tâm áp dụng các phương thế giúp chúng ta dễ tha thứ cho kẻ đã xúc phạm đến chúng ta như sau:
+ Một là kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cành nho tháp nhập vào thân cây nho như lời Đức Giêsu: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
+ Hai là nhớ lại chúng ta đã được Chúa tha cho bao tội lỗi, nên chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ cho những xúc phạm của kẻ khác, như ông chủ đã trách con nợ trong Tin Mừng: “Tên đầy tớ độc ác kia. Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? “ (Mt 18,32-33).
+ Ba là coi kẻ có lỗi đang bị lầm lạc, như Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ hành hạ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
+ Bốn là hãy năng nhắc lại lời Chúa dạy tha thứ kèm theo lời cầu nguyện như sau: “Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,37), “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
*4. THẢO LUẬN:
1) Mỗi người hãy tự xét mình: Bây giờ tôi đang có kẻ thù nào không? Tôi có làm gì sai lỗi đáng bị thù ghét không? Tôi cần làm gì để loại bỏ nguyên nhân ấy? 2) Theo lời Chúa dạy, tôi sẽ làm gì để quảng đại tha thứ cho những kẻ đã xúc phạm đến mình, và sẽ làm gì cụ thể để biến thù thành bạn?
*5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Xin hãy giúp chúng loại bỏ đi sự thù oán để chứa đầy tình thương bao dung, bỏ đi những tranh chấp chiến tranh để chấp nhận sống chung hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an của Chúa vào trái tim khô cằn của chúng con, để sự bình an ấy sẽ chảy tràn sang những người thân trong gia đình, lan ra ngoài xã hội và đi đến khắp nơi trên thế giới.
– Lạy Chúa. Xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường, sự quảng đại tha thứ và lòng bao dung nhân hậu, để chúng con luôn biết quan tâm phục vụ mọi người, nhất là cầu nguyện cho những kẻ đang thù ghét bách hại chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, Đấng giàu lòng từ bi thương xót, và nên anh chị em của mọi người chung quanh để làm chứng cho Chúa.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
THA ĐẾN BẢY MƯỜI LẦN BẢY- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,21)
Chúng ta đang nói với nhau về đời sống cộng đoàn trong gia đình của Thiên Chúa. Tuần trước chúng ta nói với nhau về việc phải sửa lỗi cho nhau. Hôm nay Chúa nói với chúng ta về một vấn đề khác “gay” hơn một chút, nhưng lại rất thú vị vì nó làm nên một cái gì đó có tính cách độc đáo trong đạo của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Đó là sự tha thứ.
*I. Bài học hôm nay bắt nguồn từ câu hỏi của Phêrô.
Hôm đó Chúa dạy các môn đệ về cách phải đối xử với người có lỗi với mình. Đại ý Chúa bảo phải tha thứ cho những người lầm lỗi khi họ thực lòng thống hối ăn năn.
Cảm thông trước lời dạy của Chúa, Phêrô lên tiếng hỏi: “Lạy Thầy, nếu người anh có lỗi với con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến 7 lần không ?”
Hỏi nhưng đã có sẵn câu trả lời.
Tại sao Phêrô dừng lại ở con số 7 như một định mức mà có lẽ ông cho là thế nào Chúa cũng sẽ bằng lòng? Tha như thế đối với ông kể ra cũng là quá lý tưởng rồi.
Có lẽ để hiểu được Phêrô chúng ta hãy trở lại một chút về phía trước một chút.
– Trong Sách Khải Nguyên cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước đoạn 4,20 Lamek tuyên bố luật “rừng” thời bấy giờ như thế này: “Phải báo thù đến 7 lần”
– Buớc sang thời của Moise thì chúng ta thấy đã có tiến bộ hơn một chút nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở hai tiếng sự công bình: Mắt thế mắt, răng đền răng.
– Tiến sang thời lập quốc và thời các ngôn sứ, chúng ta thấy một số các Rabbi Do thái đã có những lập trường thoáng hơn. Họ đã bắt đầu nói đến tinh thần bác ái mà sau này Chúa đã đẩy lên đến tột đỉnh và coi đó là con đường của Ngài.
Rabbi Hanina nói: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”. Rabbi Jehuna dạy: “Nếu một người phạm tội một lần, họ phải tha thứ cho người ấy. Hai lần, họ phải tha thứ cho người ấy. Ba lần họ cũng phải tha thứ cho người ấy. Nhưng lần thứ tư thì không được tha nữa.”
Các Rabbi lại dừng lại ở con số ba vì Tiên tri Amos khi nói về việc Thiên Chúa tha thứ cho những ai lỗi phạm đến Người, thì tiên tri đã nói Thiên Chúa chỉ tha thứ đến ba lần. Đến lần thứ bốn thì Ngài sẽ không tha thứ nữa mà sẽ trừng phạt.
Nếu Thiên Chúa đã làm thế thì con người không được phép “qua mặt” Người. Chính vì thế mà các Rabbi chỉ chấp nhận sự tha thứ đến lần thứ ba.
Chúng ta thường nói với nhau: “Quá tam ba bận”.
Như vậy khi Phêrô đề nghị tha đến bảy lần tức là gấp hai lần cộng một cái lằn mức của các Rabbi thì ông nghĩ là ông đã làm một cuộc cách mạng và chắc là Chúa phải bằng lòng và khen ngợi ông.
Chúng ta phải cám ơn Ông Phêrô. Bởi chính từ câu chuyện này mà chúng ta được Chúa dạy cho chúng ta một bài học thật tuyệt vời. Chúa không bảo phải tha đến bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy. Phải tha thứ luôn luôn và mãi mãi.
Tiến sĩ Morgan một trong những nhà chú giải Kinh Thánh nổi tiếng nhất của thời đại nói: “Có lẽ chúng ta phải sống lâu lắm mới có dịp để tha thứ cho một người đến 490 lần”
*II. Để cắt nghĩa bài học mà Chúa vừa đưa ra, Chúa đã dùng một dụ ngôn, một dụ ngôn rất đẹp về ý nghĩa nhưng không được đẹp mấy về hình ảnh.
a/ Người đầy tớ của Vua trong dụ ngôn hôm nay vừa là con nợ vừa là chủ nợ.
– Anh ta là con nợ của Vua và là chủ nợ của bạn anh
– Với tư cách là con nợ anh chỉ là một người đầy tớ. Tương quan giữa anh và Vua là tương quan chủ nô.
– Với tư cách là chủ nợ anh là một người bạn. Tương quan giữa anh và bạn anh là tương quan huynh đệ. Một tương quan đẹp và cao hơn nhiều.
b/ Với tư cách là con nợ, món tiền anh mắc nợ rất lớn: 10.000 nén vàng.
Sử gia Joseph Flavius nói rằng: Món nợ này tương đương với 100.000.000Đ của người Do thái lúc đó. Và nếu cứ tính theo giá tiền công lao động lúc đó là 1đ/ngày thì số tiền đó tương đương với 100.000.000 ngày công. Đó là một móm nợ lớn không thể tưởng tượng được. Đây là nón nợ lớn hơn tiền chuộc một vị vua.
Người bày tôi trong câu truyện được Vua cho nợ một món tiền lớn như thế thật là truyện lạ lùng.
c/ Và với tư cách một chủ nợ, anh ta cho bạn của anh ta nợ 100 đồng….Một số tiền tương đương với 100 ngày công. Tỉ lệ 100/100.000.000. Một sự cách biệt khổng lồ.
d/ Bây giờ chúng ta coi cách nhà vua đối xử với anh và cách anh ta đối xử với bạn của anh ta như thế nào.
– Với tư cách là con nợ, khi anh bị đòi, anh không có gì trả, anh đã xin khất. Nói là khất cho đẹp chứ thực ra khả năng chi trả của anh có cả đời cũng không trả được.
Nhà vua quảng đại không những không bắt anh trả một đồng nào mà ngược lại còn tha hết nợ cho anh.
– Bây giờ đến lượt anh ta. Bạn anh mắc nợ anh 100 quan tiền
Anh đòi nợ. Bạn anh chưa có tiền để trả. Bạn anh van xin anh được khất lại một kỳ. Anh đối xử như thế nào thì tất cả chúng ta đã rõ.
Khi chú giải về đoạn Tin Mừng này, Cha Gutziller…:”Trước mặt Thiên Chúa con người phải điều chỉnh lại mối tương quan của mình đối với người khác. Thái độ của họ đối với anh em sẽ xác định thái độ của họ đối với Thiên Chúa. Người tín hữu khi biết Thiên Chúa đối xử tốt lành đối với mình mà còn tới gần anh em mình với tinh thần khắc nghiệt thì họ sẽ đáng sự trừng phạt của Thiên Chúa”
*III. Hãy biết tha thứ kính thưa anh chị em. Hận thù chẳng để lại một ích lợi gì cho chúng ta ngược lại nó còn làm cho cuộc đời của chúng ta mất đi những niềm vui mà đáng lý ra chúng ta luôn có.
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: có một người hành khất đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu được những lời van xin đó nữa thì thay vì bố thí, người giàu có đã lấy một hòn đá ném vào người hành khất.
Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục, nỗi căm hờn trong lòng ông sôi lên sùng sục . Ông đi theo đoàn người áp tải tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông.
Nhưng cuối cùng nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ:
– Tại sao ta lại mang nặng hòn đá từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta.
Loren Fischer “”Ghim giữ nỗi đau hay là phóng thích nó bằng sự tha thứ? Hai điều ấy khác nhau như là ban đêm ta nằm ngú trên chiếc gối chĩa đầy gai nhọn hay trên chiếc gối phủ đầy những cánh hồng”
Và đây là Lời của Chúa: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”(Mt 7,36-38).
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- A
THA THỨ(*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm A là sự tha thứ.
Hc 27: 30-28: 7
Trong Bài Đọc I, nhà hiền triết Do thái, trung thành với luật Mô-sê, mời gọi “oán cừu nên tháo không nên buộc”.
Rm 14: 7-9
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc cho người Ki-tô hữu nhớ rằng không ai sống cho chính mình.
Mt 18: 21-35
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải tha thứ vô điều kiện và luôn mãi.
BÀI ĐỌC I (Hc 27: 30-28: 1-7)
Trào lưu Khôn Ngoan nở rộ trong toàn thể miền Cận Đông xưa: Ai-cập, Su-me, Ba-by-lon… Sách Huấn Ca là một trong năm tác phẩm thuộc trào lưu Khôn Ngoan Cựu Ước: Châm Ngôn, Gióp, Giảng Viên, Khôn Ngoan và Huấn Ca.
Tác giả của sách Huấn Ca là ông Si-rác sống vào cuối thể kỷ thứ ba đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Là bậc vị vọng ở Giê-ru-sa-lem và bậc hiền nhân, ông đã viết lại những lời khuyên “đối nhân xử thế” của mình vào khoảng năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau, cháu nội của ông đã dịch tác phẩm của ông sang tiếng Hy-lạp và xuất bản.
Sự khôn ngoan, thành quả của trầm tư và kinh nghiệm, là gia sản chung của toàn thể nhân loại. Nhưng sống vào thời kỳ Do thái giáo bị đe dọa bởi văn hóa Hy lạp, nhà hiền triết Do thái ôm ấp một hoài bảo: chấn hưng những giá trị luân lý Do thái giáo. Theo ông, sự khôn ngoan Do thái vượt lên trên sự khôn ngoan Hy lạp, vì sự khôn ngoan Do thái có Thiên Chúa làm khuôn mẫu và Luật của Ngài làm chuẩn mực sống.
Sách Huấn Ca là loại sách kim chỉ nam chứa đựng nhiều lời khuyên cho cuộc sống thường ngày. Sách đề cập đến mọi đề tài. Đoạn trích dẫn hôm nay đề cập đến việc báo thù và tha thứ.
*1.Cách hành xử của kẻ gian ác:
Nhà hiền triết nhắm trước tiên đến thái độ của kẻ gian ác:
“Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm,
về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài”.
Nếu ai cố chấp trong sự oán hờn và giận dữ, người ấy rồi sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa:
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng ly”.
Đây là điều mà chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo, gieo gió gặp bão”.
Theo Cựu Ước, quan niệm “thưởng phạt ở đời sau” chỉ xuất hiện sau nầy, vì thế kẻ gian ác sẽ chuốc lấy hậu quả của điều ác mà nó gây ra ngay tại đời nầy.
*2.Đức hạnh của người công chính:
Ngược lại với thái độ của kẻ gian ác, nhà hiền triết phác họa đức hạnh của người công chính:
“Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác,
thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha”.
Sự tha thứ được sách Lê-vi diễn tả rõ ràng: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em… Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19: 17-18).
Nhà hiền triết nêu lên lý do tại sao phải tha thứ:
“Người với người cứ nuôi lòng hờn giận,
thế mà dám xin Đức Chúa chữa lành!
Nó chẳng biết thương người đồng loại,
mà lại dám xin tha tội cho mình”.
Đó chính xác cũng là lời nguyện trong kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12)
“Hãy nghĩ đến ngày tận số
mà chấm dứt hận thù”.
Đây là đề tài chủ đạo của nhà hiền triết. Người công chính phải thoát khỏi mọi ưu tư hằng ngày để nghĩ đến số phận của mình là một ngày kia sẽ từ giả cõi thế, đây không cốt là nghĩ đến phần thưởng của cuộc sống mai sau. Vào thời Si-rác, Ít-ra-en chưa biết đến phần thưởng mai hậu nầy (chỉ xuất hiện muộn thời). Cho dù người công chính không thể biết được khi nào những án phạt sẽ giáng xuống trên bọn ác nhân – vì Đức Chúa sẽ báo thù – thì phải trung thành với những huấn lệnh và nghĩ đến Giao-ước:
“Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi”.
Thái độ nầy thật sự cao thượng dù chân trời bị giới hạn chỉ vào việc thưởng phạt trần thế và kinh nghiệm cho thấy những phần thưởng nầy khó đáp trả sự mong chờ của người công chính. Nhưng người có niềm tin phải hành động xuất phát từ lòng yêu mến Thiên Chúa và Luật của Ngài. Không phải chính lòng trung thành với Giao Ước đảm bảo sự quan phòng của Thiên Chúa trên dân Ít-ra-en và mỗi thành viên đó sao? Nền luân lý nầy thật cao thượng chuẩn bị trực tiếp cho lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Rm 14: 7-9)
Đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma nầy, nếu tách ra khỏi mạch văn của nó, chúng ta khó nắm bắt được ý nghĩa những lời khuyên nhủ của thánh Phao-lô.
Trong chương 14 thư gởi tín hữu Rô-ma nầy, thánh Phao-lô bàn đến những mối liên hệ giữa những người Ki-tô hữu trong lòng cộng đoàn. Thánh nhân gợi lên nhiều quan điểm khác nhau trong thái độ thường ngày, giữa những người mà thánh nhân gọi là “những người yếu” và những người thánh nhân gọi là “những kẻ mạnh”.
Thánh nhân đề cập cách chi tiết: những người không ăn kiêng và những người ăn kiêng, những người sống khổ hạnh và những người bài bác khổ hạnh, vân vân. Từ đó thánh nhân kết luận cuộc sống hòa hợp của cộng đoàn phải căn cứ trên sự tự do của mỗi người trong sự kính trọng kẻ khác.
Ở nơi lời dạy của thánh nhân, tự do chứ không cá nhân chủ nghĩa, vì “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Đức Ki-tô, mà có chết cũng là chết cho Người”, bởi vì “Đức Kitô đã không sống cũng không chết cho chính mình, nhưng cho chúng ta”. Mọi dị biệt phải bị xóa nhòa trước mối liên hệ căn bản: hiệp nhất mọi thành phần của cộng đoàn: Tất cả chúng ta đều thuộc về Đức Ki-tô.
Khởi đi từ những chi tiết nhỏ nhặt cụ thể đến một quan điểm thần học, đó là nét đặc trưng của thánh Phao-lô thường hằng trong các thư của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 18: 21-35)
Sau khi đã căn dặn đức ái huynh đệ trong việc sửa lỗi cho nhau và đã cảnh báo mỗi thành viên trong cộng đoàn phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau (Chúa Nhật XXIII), Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài còn đi xa hơn nữa: cho đến việc tha thứ vô điều kiện và luôn mãi đối với những kẻ xúc phạm mình.
*1.Cuộc chuyện trò thân mật giữa Thầy và trò (18: 21-22):
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu làm nổi bật nhân vật Phê-rô, thậm chí ngay cả trước khi thánh nhân được tấn phong làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai và của Giáo Hội trong tương lai như thánh Phê-rô trong bão tố, thánh Phê-rô ở Xê-sa-rê, thánh Phê-rô trong biến cố Biến Hình.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy, chính thánh Phê-rô lên tiếng hỏi thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mầy lần?”. Thánh nhân vừa hỏi, nhưng đồng thời cũng nhanh miệng đưa ra một đề nghị: “Có phải bảy lần không?”. Khi đề nghị bảy lần, thánh Phê-rô nghĩ là mình quá rộng lượng từ tâm lắm rồi, bởi vì theo truyền thống Do thái việc tha thứ cho anh em mình chỉ dừng lại ở con số ba lần. Kinh sư Hanina dạy rằng: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”, còn kinh sư Jehuna thì dạy: “Nếu một người phạm tội một lần, hãy tha thứ; hai lần hãy tha thứ; ba lần cũng hãy tha thứ cho người ấy; nhưng lần thứ tư thì không tha thứ nữa!”. Đối với văn hóa Việt Nam, “Sự bất quá tam”. Hơn nữa, “con số bảy” được dùng trong Kinh Thánh để diễn tả mức độ trả thù tận mức : “Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy.” (St 4: 15). Ngoài ra ông La-méc, hậu duệ của Ca-in, đã huênh hoang tự đắc với các bà vợ của mình:
“Ca-in sẽ được trả thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy.” (St 4: 25).
Khi trả lời cho thánh Phê-rô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”, Đức Giê-su thay thế sự trả thù vô cùng tận của La-méc bằng sự tha thứ vô giới hạn.
*2.Dụ ngôn (18: 23-24)
Để minh họa tư tưởng của mình, Đức Giê-su kể một dụ ngôn mà chỉ mình thánh Mát-thêu thuật lại. Khi so sánh với bài đọc thứ nhất trong đó hiền triết Si-rác dạy rằng phần thưởng cho việc tha thứ chỉ vuông tròn trong hạnh phúc trần thế, Đức Giê-su nhắm đến việc tha thứ đem lại phần thưởng trong Vương Quốc Nước Trời. Lời khai mào nầy loan báo rằng Đức Giê-su sắp ban chìa khóa mở cửa Vương Quốc nầy.
Dụ ngôn là một bi kịch gồm ba hoạt cảnh.
2.1-Hoạt cảnh thứ nhất:
Đức Vua (ám chỉ đến Thiên Chúa), được giới thiệu ngay từ đầu, đòi hỏi bầy tôi thanh toán sổ sách. Phần cuối của dụ ngôn sẽ cho thấy việc thanh toán sổ sách không là điều cốt yếu mà dụ ngôn nhắm tới.
Đức Vua đích thân triệu tập người đầy tớ mắc nợ Vua mười ngàn nén vàng. Đây là một món nợ quá lớn đến mức tự sức mình chúng ta không thể nào có thể trả nổi. Với một món nợ quá lớn mà một người nô lệ không thể nào mắc nợ được, vì thế các nhà chú giải hiểu rằng người đầy tớ trong dụ ngôn nầy là một vị quan, bởi vì trong nền văn hóa Đông Phương, các quan được gọi là tôi bộc của Vua.
Vì không thể trả nổi, người đầy tớ bị Đức Vua ra lệnh thi hành án phạt: “Bán y, cùng tất cả vợ con, tài sản, mà trả nợ”. Quả thật, sự liên đới của mọi thành viên trong gia đình trải rộng cho đến món nợ mà người chủ gia đình mắc phải. Bấy giờ tên đầy tớ sấp mình xuống van xin: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ trả hết”. Đức vua liền chạnh lòng thương (đây cũng là động từ mà các Tin Mừng dùng để diễn tả tấm lòng xót thương của Đức Giê-su trước những đau khổ của con người), tha hết món nợ cho y: hình ảnh của ơn cứu độ nhưng không.
2.2-Hoạt cảnh thứ hai:
Hoạt cảnh thứ hai được xây dựng trên một sự tương phản với hoạt cảnh thứ nhất. Tên đầy tớ được Vua tha bổng lại hành xử đối với một trong những bạn đồng liêu của mình, người nầy mắc nợ y một trăm bạc, một món tiền không đáng là bao so với món nợ của y đối với Đức Vua. Y chẳng thèm để ý đến lời van xin của bạn mình: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”, chính xác là những lời mà trước đây y đã van xin Đức Vua. Cách hành xử của y đối với bạn của y: liền túm lấy, bóp cổ và tống anh bạn mình vào tù mà không một chút động lòng xót thương, khác xa với cách hành xử của Đức Vua đối với y.
Người đầy tớ nầy không ngờ rằng có một mối quan hệ hỗ thương giữa thái độ của y đối với bạn đồng môn của mình và thái độ của Đức Vua đối với y. Khi từ chối lòng xót thương của y đối với bạn mình, y huỷ bỏ lòng xót thương mà y được hưởng từ Đức Vua.
2.3-Hoạt cảnh thứ ba:
Đức Vua thay đổi thái độ hoàn toàn đối với y: Ngài nổi cơn thịnh nộ giao người đầy tớ không có lòng xót thương cho lý hình hành hạ cho đến ngày y trả hết nợ. Chính ở đây để lộ cách thức tính sổ của Đức Vua. Ngài phán xử mỗi người không căn cứ trên việc tính toán chi ly của món nợ, nhưng trên khả năng yêu thương và tha thứ của mỗi người đối với anh em đồng loại của mình.
3.Bài học (18: 25):
Từ dụ ngôn, Đức Giê-su rút ra một bài học quan trọng trong mối quan hệ giữa Thiên Chúa với chúng ta: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Bài học nầy làm chúng ta nhớ đến điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa tha thứ trong kinh Lạy Cha: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Phía sau dụ ngôn nầy, chính cuộc sống của Đức Giê-su bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đem đến những phương thế đổi mới tấm lòng của con người, ngõ hầu họ có khả năng yêu thương và tha thứ cho nhau.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam