Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 57

Tổng truy cập: 1365535

KẺ THÙ

KẺ THÙ

Một địa điểm truyền giáo nằm chênh vênh trên sườn núi heo hút nơi cao nguyên Trung Hoa lục địa. Đó là một điểm truyền giáo của các cha thừa sai Milanô, nước Italia. Địa điểm truyền giáo này gồm một bệnh xá và một nhà mồ côi dành cho các em gái do các nữ tu Italia trông coi. Các linh mục thừa sai ít khi có mặt vì phải thường xuyên đi làm mục vụ ở xa. Do đó, các nữ tu đảm trách mọi việc không những liên quan tới bệnh nhân và các em mồ côi, nhưng còn nhiều việc khác nữa, như dạy giáo lý, tổ chức những giờ đọckinh. Đó là vào năm 1951, khi các thừa sai chưa bị trục xuất khỏi Trung Hoa. Nghe biết về lòng tốt của các nữ tu nên bệnh nhân nhiều nơi tìm đến bệnh xá để được các chị khám bệnh và phát thuốc. Riêng các bé gái được đưa tới viện mồ côi phần lớn chỉ vì cha mẹ quá nghèo không thể nuôi chúng được. Nhưng cũng có một số em bị bỏ rơi vì những lý do khác. Dù sao ở đây các em được lớn lên trong niềm tin vào Thiên Chúa quan phòng trong cụ thể dưới sự săn sóc tận tụy của các nữ tu. Ngoài giờ học chữ và học giáo lý, các em còn được dạy nghề đan, thêu và dệt. Nếp sống trầm lặng của nhà mồ côi ở nơi hẻo lánh này không khác chi nếp sống của một đan viện, gồm có học hành, làm việc và cầu nguyện. Mỗi buổi chiều người ta đều nghe lời kinh vang lên từ cửa miệng các em mồ côi “Lạy Chúa Giêsu bé thơ, con yêu mến Chúa!” Nhưng vào một buổi chiều mưa, tại nhà mồ côi bỗng xuất hiện một toán người đàn ông có vũ trang. Họ đứng nghênh ngang trước mặt các chị, súng cầm trong tay, miệng quát tháo: “Muốn sống thì đứng im!” Tên chỉ huy ra lệnh cho đàn em trói các nữ tu lại, cười đắc chí: “Hừ, tốt lắm. Phen này mấy lão Giám Mục phải trả cho chúng tao một khoản tiền lớn. Nếu không chịu, tao sẽ cắt cổ từng mụ một.”

Khi ấy có người đưa tin bệnh đậu mùa đang lan tràn ở vùng Latan, sào huyệt của đảng Hắc Long là đảng cướp cạn đã từng giết nhiều người. Tên đầu đảng bắt đàn em mở các thùng thuốc chúng vừa cướp được. Nhưng chúng thất vọng vì toàn là thuốc với nhãn hiệu Italia, chẳng ai đọc được! Khi ấy chị Nga (Natalia), nữ tu trẻ nhất của địa điểm truyền giáo nói với tên chỉ huy “Tôi là y tá. Tôi biết các tên thuốc và cách dùng” Hắn nhìn chị Nga với cặp mắt nghi ngờ: “Mụ biết chữa bệnh đậu mùa đen à?” Trước câu hỏi vừa khiêu khích lại vừa khinh bạt, chị Nga điềm tĩnh trả lời: “Vâng, tôi biết.” Hắn hỏi tiếp: “Vậy mụ có biết bệnh đậu mùa đen là bệnh giết người không?” Chị Nga trả lời: “Tôi biết chứ!” Hắn lại hỏi: “Thế mụ dám tình nguyện đến Latan sao?” Chị Nga dịu dàng trả lời: “Nếu ông muốn, tôi sẵn sàng đến cứu sống dân chúng vùng Latan.” Hắn liền tươi nét mặt nhưng cũng vẫn ra bộ khinh bạt: “Được rồi, vậy mụ hãy đi theo cái ông Chúa bị đóng đinh của mụ đi.”

Quả là giây phút cảm động khi chị Nga nhìn từng chị em có thể là lần chót: “Xin các chị cầu nguyện cho em, chúng ta hẹn gặp nhau trên trời!” Thấy tay mình còn bị trói, chị Nga nói với bọn cướp: “Xin các ông cởi trói cho tôi chứ!” Đoàn người rời cứ điểm truyền giáo và xuống núi. Bóng dáng chị Nga nữ tu cứ xa dần rồi mất hút sau khúc đường dốc dưới nắng chiều của vùng cao nguyên Trung Quốc.

Câu chuyện nói trên tự nhiên làm cho ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay trở nên sống động. Lời Chúa Giêsu dậy các môn đệ xưa về yêu thương đối lại với thù ghét, chúc lành đối lại với nguyền rủa,

- Người đã “yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình” (c.27).

Người chịu “nhạo báng, đánh đập, xúc phạm” (Lc 22,63-65) chỉ vì yêu và muốn cứu chuộc những kẻ ngược đãi mình. - Người đã “chúc lành” (c.28) cho những kẻ đóng đinh Người trên khổ hình thập giá bằng lời cầu: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34). - Ở chặng đường thánh giá thứ mười, Đức Giêsu đã sống theo nghĩa đen những điều Người dạy các môn đệ là: “Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại.” (cc.29-30).

Vậy khi chị Nga nữ tu hy sinh đi cứu sống bọn cướp Hắc Long là nạn nhân của bệnh đậu mùa đen, thì cũng chỉ là để theo sát gót bước Đức Giêsu, Đấng đã “yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình” (c.27) mà thôi.

 

41.Yêu thương

Theo tờ báo Christian Digest, một người đàn bà làm việc từ thiện ở thành phố Luân Đôn gặp một cô gái giang hồ đang nằm liệt trong một căn phòng trống, vắng lạnh. Như một người mẹ hiền, người đàn bà có đạo này tận tay chăm sóc cô gái từng miếng ăn hớp uống, giặt dũ nệm ra, đốt lửa, và làm cho bầu khí của căn phòng thêm ấm cúng và sáng sủa hơn. Sau khi thu dọn xong, bà nói với cô gái: “Tôi có thể cùng cô cầu nguyện không?” Cô gái làng chơi lạnh lùng đáp: “Không! Bà đâu có thương tôi. Bà làm những việc đó để được về Thiên đàng thôi.” Nhiều ngày trôi qua, người đàn bà vẫn tận tình chăm sóc cô gái, và lòng cô gái vẫn cứ chát chúa, lạnh lùng. Rồi đến một ngày kia khi sức khỏe cô gái gần bình phục, bà khẽ nói với cô gái: “Này cô, cô sắp lành bệnh rồi, tôi sẽ không trở lại đây nữa. Vì là ngày cuối tôi xin phép được hôn cô một lần thôi.” Và rồi đôi môi tinh khiết chỉ biết nói lời dịu ngọt và lời cầu nguyện đã chạm vào đôi môi bị hoen ố với những lời nguyền rủa và tình yêu bất chính. Và lòng cô gái đã mềm ra và bị chinh phục bởi lòng thương xót hầu như không bờ bến của người đàn bà ngoan đạo. Người đàn bà trên có lẽ đã thực hiện đến mức thượng thặng những lời khuyên của Chúa Kitô trên đồi xưa: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình... hãy cho vay mượn mà không trông báo đền..., hãy tha thứ... đừng xét đoán, đừng kết án... hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” (Lc 6:27-38). Những lời khuyên trong bài giảng trên đồi dựa trên nguyên tắc “luật vàng” mà các vị lãnh đạo tinh thần vẫn rao giảng. Luật vàng ở dạng tiêu cực: “Đừng xét đoán để các con khỏi bị xét đoán.” Luật vàng ở dạng tích cực: “Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ.” Vì thánh Luca chủ chương viết Sách Tin Mừng cho dân ngoại, những lời khuyên dựa trên nguyên tắc luật vàng sẽ dễ dàng được chấp nhận bởi lương dân. Một khi lương dân đã chấp nhận nguyên tắc luật vàng, họ được mời gọi để sống cách cao thượng hơn theo tinh thần của Chúa Kitô. Là môn đệ của Chúa Kitô, họ được mời gọi để “yêu cả kẻ thù, tha cho người ghét mình, và để cho người ta vả lẫn má bên kia.” Sự mời gọi này không dựa trên nguyên tắc luật vàng, nhưng được đặt nền tảng khác là chính Thiên Chúa, Đấng vốn nhân hậu với những kẻ bội bạc và gian ác (Lc 6:35). Có lẽ người Việt Nam chúng ta phải cố gắng vượt bực mới có thể thực thi lời khuyên của Chúa Giêsu Kitô. Nước Việt Nam đã phải chiến đấu 1000 năm với Nước Hoa xâm lăng, 100 năm với ách đô hộ của Nước Pháp. Không biết đến bao giờ những vết thương đó mới có thể được chữa lành bằng sự tha thứ, cảm thông, và bác ái của Chúa Kitô? Với sức con người, có lẽ những vết thương đó sẽ không bao giờ lành. Nhưng với ơn Chúa và nỗ lực của mỗi người, dân Việt sẽ hưởng bình an thực sự.

 

42.Yêu thương

Bài Tin Mừng thánh sử Luca kể lại luật yêu thương tuyệt vời của Chúa Kitô. Chúa dạy chúng ta cách sống, cách xử thế đối với mọi người. Chúa dạy hãy yêu người khác như yêu bản thân mình. Người khác đây có thể là người yêu chúng ta, thương chúng ta, nhưng cũng gồm cả những người không yêu chúng ta, ghét chúng ta, và cả những người làm hại chúng ta nữa. Chúng ta thấy luật Chúa dạy cao trọng vượt bậc. Đó là luật vàng trong đạo Chúa. Người Do thái quen sống với luật công bằng: mắt đền mắt, răng đền răng. Nhưng từ đó họ đã đi đến chỗ báo oán báo thù, để rồi lại có những luật lệ nhằm giảm thiểu sự trả thù đó bằng sự tha thứ và kêu gọi yêu thương. Nhưng phải chờ tới Tân ước Chúa Giêsu mới chính thức công bố luật yêu thương, tha thứ. Chúa đưa ra một số thí dụ: “Ai vả má này, hãy đưa thêm má kia”, “ai đòi áo ngoài, hãy đưa cả áo trong”, “ai xin hãy cho, ai chiếm đoạt đừng đòi lại”, “hãy chúc lành cho kẻ chúc dữ mình”, “hãy cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình”.

Chúa dạy như thế không có nghĩa là Chúa đề cao lối sống buông xuôi, đầu hàng, cam chịu. Nhưng Chúa muốn dạy rằng: hãy khôn ngoan dùng tình thương là thượng sách. Tình thương mới xóa bỏ hận thù, lấy ơn mà đền oán, chứ không thể áp dụng “dĩ độc trị độc”. Thực tế, trả thù không bao giờ xóa bỏ được hận thù, mà còn chồng chất hận thù lên mãi. Cho nên, chúng ta thấy những lời Chúa dạy thật sự là hữu lý và có giá trị cho mọi thời đại. Có lẽ cuộc đời chúng ta vẫn sống theo lối “ăn miếng trả miếng”, “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại” nên chúng ta thấy khó am hợp với những lời Chúa dạy là tha thứ, yêu thương. Chúa dạy chúng ta hãy sống yêu thương tối đa giữa cá nhân với nhau, và giữa cá nhân với nhân quần xã hội. Nếu mỗi người đều cố gắng đối xử như vậy thì cuộc sống này, trần gian này sẽ tốt đẹp, an bình và tươi vui hơn biết bao. Giáo huấn của Chúa, khó thì khó thật, nhưng không phải là bất khả thi, tức là vẫn có thể thực hiện được, và dĩ nhiên để có thể thực hiện đòi hỏi người ta một tình yêu thương cao hơn quan niệm bình thường. Trong thực tế đã có những người, dù không phải là Kitô hữu, dù chưa biết Tin Mừng của Chúa, thực hiện điều này. Người ta kể rằng: gần biên giới hai nước Lương và Sở, tức Hồ nam ngày nay, có hai người làm nghề trồng dưa: một người ở nước Lương, một người ở nước Sở. Nhờ sự chăm tưới và bón phân, vườn dưa của người nước Lương lên tốt, kết quả rất mỹ mãn và hàng năm đem lại một mối lợi đáng kể. Còn anh chàng nước Sở, lười biếng, cỏ chẳng làm, dưa không tưới và bón phân, dĩ nhiên không kết quả bao nhiêu. Thấy vậy anh ta sinh ghen ghét, đêm đêm lẻn sang vườn người phá hoại.

Vườn dưa đang tốt, song mỗi ngày cứ thấy lụi dần, tìm hiểu và biết được kẻ phá hoại, tức mình lắm, định trả đũa. Nhưng trước khi thi hành, anh đem việc đến trình quan huyện là Tống Tựu. Tống Tựu can và nói: “Làm như thế chỉ tổ gây hằn thù, tôi khuyên anh: thay vì trả đũa, mỗi đêm lẻn sang đó tưới và bón phân. Nhưng phải bí mật đừng cho nó trông thấy”. Thấy bên kia không trả đũa, lại nhận ra vườn của mình mỗi ngày xanh tốt. Sau lâu ngày mới biết người kia đã không báo oán mà còn làm ơn, anh liền sang xin lỗi. Hai gia đình đã kết thân và cùng trở nên giàu có.

Với một nền đạo đức tự nhiên người xưa còn thực hiện lòng nhân ái như thế. Vậy tại sao các Kitô hữu, được siêu nhiên trợ lực, lại đầu hàng trước huấn lệnh đó sao?

Hơn nữa, Chúa còn dạy chúng ta hãy yêu thương kẻ thù. Đây là điểm vàng son của tình yêu Kitô giáo. Thực vậy, yêu kẻ yêu mình, đó là lẽ thường tình. Nhưng yêu được người không yêu mình, yêu kẻ ghét mình, làm hại mình, đấy mới là yêu thật, đấy mới xứng danh là con Thiên Chúa, là môn đệ của Chúa. Trước nhan Thiên Chúa, không còn là bạn hay thù, nhưng chỉ là đối tượng của tình yêu.

Như vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương: yêu từng người, yêu hết mọi người, yêu vô tư, yêu quảng đại, yêu với chính tình yêu của Chúa và yêu như Chúa yêu. Một khi có tình yêu như vậy, nhất định chúng ta sẽ xóa bỏ mọi hiềm thù ghen ghét, nhất định chúng ta sẽ khoan dung quảng đại với mọi người.

Tóm lại, muốn là một Kitô hữu đích thực, chúng ta phải phấn đấu đạt tới cao điểm bác ái đó. Với gương của Chúa và sự trợ lực của Chúa, cùng với thiện chí và cố gắng của chúng ta, chúng ta sẽ thực hiện được giáo huấn Chúa dạy.

 

43.Yêu thương kẻ thù

Theo tờ báo Christian Digest, một người đàn bà làm việc từ thiện ở thành phố Luân Đôn gặp một cô gái giang hồ đang nằm la liệt trong một căn phòng trống, vắng lạnh. Như một người mẹ hiền, người đàn bà có đạo này tận tay chăm sóc cô gái từng miếng ăn hớp uống, giặt dũ nệm ra, đốt lửa, và làm cho bầu khí của căn phòng thêm ấm cúng và sáng sủa hơn. Sau khi thu dọn xong, bà nói với cô gái: “Tôi có thể cùng cô cầu nguyện không?” Cô gái làng chơi lạnh lùng đáp: “Không! Bà đâu có thương tôi. Bà làm những việc đó để được về Thiên đàng thôi.” Nhiều ngày trôi qua, người đàn bà vẫn tận tình chăm sóc cô gái, và lòng cô gái vẫn cứ chát chúa, lạnh lùng. Rồi đến một ngày kia khi sức khỏe cô gái gần bình phục, bà khẽ nói với cô gái: “Này cô, cô sắp lành bệnh rồi, tôi sẽ không trở lại đây nữa. Vì là ngày cuối tôi xin phép được hôn cô một lần thôi.” Và rồi đôi môi tinh khiết chỉ biết nói lời dịu ngọt và lời cầu nguyện đã chạm vào đôi môi bị hoen ố với những lời nguyền rủa và tình yêu bất chính. Và lòng cô gái đã mềm ra và bị chinh phục bởi lòng thương xót hầu như không bờ bến của người đàn bà ngoan đạo.

Người đàn bà trên có lẽ đã thực hiện những lời khuyên của Chúa: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình, hãy cho vay mượn mà không trông báo đền, hãy tha thứ, đừng xét đoán, đừng kết án, hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”.

Thánh Luca chủ chương viết Sách Tin Mừng cho dân ngoại, những lời khuyên dựa trên nguyên tắc luật vàng sẽ dễ dàng được chấp nhận bởi lương dân. Một khi lương dân đã chấp nhận nguyên tắc luật vàng, họ được mời gọi để sống cách cao thượng hơn theo tinh thần của Chúa Kitô. Là môn đệ của Chúa Kitô, họ được mời gọi để “yêu cả kẻ thù, tha cho người ghét mình, và để cho người ta vả lẫn má bên kia.” Sự mời gọi này không dựa trên nguyên tắc luật vàng, nhưng được đặt nền tảng khác là chính Thiên Chúa, Đấng vốn nhân hậu với những kẻ bội bạc và gian ác (Lc 6:35). Phần thưởng của những người thực thi lời huấn dụ này là sẽ được trở nên con cái của Thiên Chúa và sẽ lãnh nhận phần thưởng trọng hậu trong Nước Trời. Những người không tin có Thiên Chúa, không tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, không tin có đời sau, sẽ coi những lời khuyên trên là phi lý và dại dột.

 

44.Nền văn minh tình thương

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP)

Ngày Valentine vừa qua tạo bao nhiêu rạo rực cho những người đang yêu nhau. Tình yêu là một sức mạnh vô hình nối kết những người không quen biết vào một thực tại. Thực tại đó là cộng đồng tình yêu. Tình yêu không hề biết đến giới hạn. Nhưng thực tế, nhiều thách đố vẫn đến với tình yêu. Thách đố lớn nhất chính là kẻ thù bị đặt ra ngoài vòng tình yêu và cũng là dấu chứng tỏ tình yêu cũng biết đến giới hạn. Nhưng dưới mắt Đức Giêsu, tự bản chất, tình yêu không có giới hạn, vì chính Người đã phá tung giới hạn đó.

THÁCH ĐỐ

Cuộc sống tự bản chất là một cuộc giao lưu giữa những người đang sống. Từ đó biết bao thái độ và tình cảm đã đưa đẩy con người tới chỗ hợp tan tan hợp. Hỉ nộ ai cụ ái ố dục là thất tình trong nhịp sống trần hoàn. Có cách nào vượt qua những tình cảm đó mà vẫn còn là con người không? Tình cảm có thể đẩy đưa con người vào hố sâu diệt vong hay nâng cao con người tới đỉnh cao hạnh phúc. Làm cách nào Đức Giêsu giúp con người vượt qua những cái tầm thường và sống anh hùng trong tình yêu?

Khi nói “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6:27), Đức Giêsu đã đụng tới một điểm yếu sâu xa nhất của lòng người. Ai có thể chấp nhận được một khuyên nhủ xa rời thực tế như vậy? Nhưng đó lại là đặc điểm trổi vượt nhất của Tin Mừng Cứu Độ. Không chấp nhận đòi hỏi đó, không thể trở nên môn đệ Đức Kitô. Bình thường ai cũng yêu kẻ thương mình, ghét kẻ thù mình. Không ai muốn nhìn chứ đừng nói yêu kẻ thù mình. Đời có vay có trả. Ân oán giang hồ. Không ai có thể xây dựng với kẻ thù. Bởi thế chỉ có hủy hoại, chết chóc, chém giết, giận hờn. Không thể đội trời chung với kẻ thù.

Đức Giêsu không dạy chúng ta cách nhận dạng kẻ thù. Nhưng muốn chúng ta nhận dạng người anh em ngay giữa những kẻ thù đang tìm cách hại chúng ta. Đó là một nghịch lý! Nhưng Tin Mừng thường được thành hình giữa những nghịch lý như thế. Tai chúng ta không vui chút nào khi nghe: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6:28-29). Nhưng Tin Mừng không phải là một thứ văn chương hoa mỹ nhằm thỏa mãn thị hiếu người nghe. Tin Mừng đặt vấn đề rất hắc búa, có sức thức tỉnh lòng người. Ý chí lớn lao đang ngủ yên trong lòng người. Đức Giêsu muốn lôi con người vùng dậy khỏi giấc ngủ ngàn năm đó. Người muốn con người đối diện với kẻ thù với một thái độ cao cả. Kẻ thù có thể là một vấn đề hóc búa nhất. Nhưng nếu không giải quyết được vấn đề đó, Tin Mừng cũng chẳng có sức mang lại ơn cứu độ.

Tại sao Đức Giêsu lại đưa ra một đòi hỏi quá gắt gao như vậy? Trước hết, “Đức Giêsu không nói về tình cảm đối với kẻ thù, nhưng về một hành động của ý chí. Bạn không thể hiểu được loại tình yêu này – Nó đòi một nỗ lực đầy ý thức. Yêu thương kẻ thù có nghĩa là hành động vì lợi ích tối đa cho họ. Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, và có thể tìm cách giúp đỡ họ” (Life Application Study Bible 1991:1807).

Cần nhận diện rõ khuôn mặt kẻ thù. Chắc chắn kẻ thù cũng là tha nhân, nhưng là một thứ tha nhân đặc biệt. Không thể vì yêu kẻ thù, chúng ta lại tiết lộ hết bí mật và liều mạng trước âm mưu thâm độc của họ. Yêu kẻ thù một cách thiếu khôn ngoan sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đối với kẻ thù, Chúa cũng dạy chúng ta “phải khôn như rắn” (Mt 10:16) trước những âm mưu thâm độc. Nhưng đồng thời cũng không nên đề phòng quá đến nỗi kẻ thù luôn giữ một khoảng cách nguy hiểm đối với ta. Trái lại, phải cho họ thấy tất cả sức mạnh Tin Mừng. Chỉ có Tin Mừng mới lấp đầy khoảng cách giữa kẻ thù và chúng ta. Phải cho họ thấy tất cả những nét hào hùng của Tin Mừng trong thái độ và hành động của môn đệ Chúa Kitô. Chỉ có Tin Mừng mới có thể tạo nổi “những hướng dẫn giúp xây dựng Văn Minh Tình Thương bắt đầu từ việc sám hối cá nhân” (Gioan Phaolô II, Catholic World News Service, 14/2/2001). Quả thực, kẻ thù hiện diện như một dấu chỉ hối thúc chúng ta phải sám hối. Đừng mong đợi kẻ thù thay đổi, nếu chúng ta không thay đổi trước.

Khi vấn đề kẻ thù đã được giải quyết bằng tình yêu thương lớn lao đó, tình yêu trở thành sức mạnh vô song. Lịch sử Giáo hội cho thấy Thày Chí Thánh đã vạch ra con đường dẫn kẻ thù vào sự sống đích thực, bình an và hạnh phúc. Muốn đạt đến mục tiêu lớn lao, Kitô hữu cần phải đi bước trước. Bước đầu tiên Thày chí thánh đã thực hiện khi bước lên thập giá. Thày đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Sở dĩ Thày làm được như thế, vì Thày đã noi gương Chúa Cha “là đấng nhân từ” (Lc 6:36). “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:35). Còn hành vi nào vô ân và độc ác bằng việc giết Chúa không? Nhưng chính ở hành vi tha thứ, Đức Giêsu cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội ác.

NOI GƯƠNG THÀY CHÍ THÁNH

Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho kẻ thù. Chúng ta chỉ là phàm nhân, làm sao có một tấm lòng đại lượng như Thiên Chúa? Đòi hỏi của Đức Giêsu thật gắt gao. Nhưng nếu đòi hỏi một điều gắt gao đó, tất nhiên Đức Giêsu muốn nhìn thẳng vào thực tế. Thực tế đó, chính Đức Phật cũng đã vạch ra: “lấy oán báo oán, oán oán chập chùng”. Ngày xưa chính vua Đavít có một hành vi anh hùng chỉ vì ông nhận ra Saulê là “đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26: 11). “Đó là một nhận thức về trách nhiệm thánh, chứ không phải là một hành vi tha thứ hay xót thương” (Faley 1994:177). Cao hơn một bậc, Đức Giêsu đã tha thứ cho kẻ thù ngay khi đang quằn quại trong vũng máu đào. Chính sự tha thứ ấy cho thấy không còn lý do gì khiến chúng ta phải trả miếng cho kẻ thù. Không ai là kẻ thù đối với những người tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và đều đáng được xót thương. Ngay chính khi tha thứ, chúng ta cũng cần được tha thứ. Thực tế chúng ta cần được tha thứ nhiều hơn mức ta tưởng. Tất cả đều là con cái của Đấng giàu lòng thương xót. Là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta không thể nào không có tấm lòng bao dung trước những lỗi lầm tha nhân. Nói khác, mỗi lần đối xử tệ hại với người khác, nhất là với kẻ thù, vô tình chúng ta đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Vả lại, nếu không biết thương xót, chúng ta cũng sẽ chẳng được Thiên Chúa xót thương. Đó là điều Chúa nói: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:37).

Không những là hình ảnh Thiên Chúa, “chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:49) cứu độ muôn dân. Chính Người là hiện thân của lòng Chúa xót thương. Đó là động lực mạnh nhất giúp ta thắng vượt những xung động hay quyền lợi nhất thời, để hết sức hoạt động phục vụ quyền lợi thiết thực của kẻ thù. Quyền lợi đó chính là ơn cứu độ Chúa đã dầy công tạo lập cho họ. Tất cả sự nghiệp của Người là qui tụ muôn dân. Nếu còn phân biệt bạn với thù, làm sao sự nghiệp của Người có thể hoàn thành trong trần gian? Làm sao chúng ta có thể hoàn thành được những gì còn dở dang trong công cuộc cứu chuộc của Chúa?

Một hoạt động ngoạn mục của Giáo hội đang diễn ra tại Ấn độ. Giữa lúc bị một tổ chức Ấn giáo cực đoan cản trở, Giáo Hội vẫn hiên ngang đến cứu giúp 50,000 gia đình nạn nhân vụ động đất tàn khốc vừa xảy ra ngày 26/01/2001. Tổ chức đó đã từng là thủ phạm giết nhiều linh mục, giáo dân và tấn công nhiều giáo xứ Công giáo tại Ấn độ (VietCatholic, 15/02/2001). Chắc chắn Giáo hội đã vượt qua những ranh giới thường tình để thực hiện đòi hỏi Tin Mừng hôm nay. Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại một tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa ngay trên mặt đất này.

 

45.Nền văn minh tình thương

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP)

Ngày Valentine vừa qua tạo bao nhiêu rạo rực cho những người đang yêu nhau. Tình yêu là một sức mạnh vô hình nối kết những người không quen biết vào một thực tại. Thực tại đó là cộng đồng tình yêu. Tình yêu không hề biết đến giới hạn. Nhưng thực tế, nhiều thách đố vẫn đến với tình yêu. Thách đố lớn nhất chính là kẻ thù bị đặt ra ngoài vòng tình yêu và cũng là dấu chứng tỏ tình yêu cũng biết đến giới hạn. Nhưng dưới mắt Đức Giêsu, tự bản chất, tình yêu không có giới hạn, vì chính Người đã phá tung giới hạn đó.

THÁCH ĐỐ

Cuộc sống tự bản chất là một cuộc giao lưu giữa những người đang sống. Từ đó biết bao thái độ và tình cảm đã đưa đẩy con người tới chỗ hợp tan tan hợp. Hỉ nộ ai cụ ái ố dục là thất tình trong nhịp sống trần hoàn. Có cách nào vượt qua những tình cảm đó mà vẫn còn là con người không? Tình cảm có thể đẩy đưa con người vào hố sâu diệt vong hay nâng cao con người tới đỉnh cao hạnh phúc. Làm cách nào Đức Giêsu giúp con người vượt qua những cái tầm thường và sống anh hùng trong tình yêu?

Khi nói “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6:27), Đức Giêsu đã đụng tới một điểm yếu sâu xa nhất của lòng người. Ai có thể chấp nhận được một khuyên nhủ xa rời thực tế như vậy? Nhưng đó lại là đặc điểm trổi vượt nhất của Tin Mừng Cứu Độ. Không chấp nhận đòi hỏi đó, không thể trở nên môn đệ Đức Kitô. Bình thường ai cũng yêu kẻ thương mình, ghét kẻ thù mình. Không ai muốn nhìn chứ đừng nói yêu kẻ thù mình. Đời có vay có trả. Ân oán giang hồ. Không ai có thể xây dựng với kẻ thù. Bởi thế chỉ có hủy hoại, chết chóc, chém giết, giận hờn. Không thể đội trời chung với kẻ thù.

Đức Giêsu không dạy chúng ta cách nhận dạng kẻ thù. Nhưng muốn chúng ta nhận dạng người anh em ngay giữa những kẻ thù đang tìm cách hại chúng ta. Đó là một nghịch lý! Nhưng Tin Mừng thường được thành hình giữa những nghịch lý như thế. Tai chúng ta không vui chút nào khi nghe: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6:28-29). Nhưng Tin Mừng không phải là một thứ văn chương hoa mỹ nhằm thỏa mãn thị hiếu người nghe. Tin Mừng đặt vấn đề rất hắc búa, có sức thức tỉnh lòng người. Ý chí lớn lao đang ngủ yên trong lòng người. Đức Giêsu muốn lôi con người vùng dậy khỏi giấc ngủ ngàn năm đó. Người muốn con người đối diện với kẻ thù với một thái độ cao cả. Kẻ thù có thể là một vấn đề hóc búa nhất. Nhưng nếu không giải quyết được vấn đề đó, Tin Mừng cũng chẳng có sức mang lại ơn cứu độ.

Tại sao Đức Giêsu lại đưa ra một đòi hỏi quá gắt gao như vậy? Trước hết, “Đức Giêsu không nói về tình cảm đối với kẻ thù, nhưng về một hành động của ý chí. Bạn không thể hiểu được loại tình yêu này – Nó đòi một nỗ lực đầy ý thức. Yêu thương kẻ thù có nghĩa là hành động vì lợi ích tối đa cho họ. Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, và có thể tìm cách giúp đỡ họ” (Life Application Study Bible 1991:1807).

Cần nhận diện rõ khuôn mặt kẻ thù. Chắc chắn kẻ thù cũng là tha nhân, nhưng là một thứ tha nhân đặc biệt. Không thể vì yêu kẻ thù, chúng ta lại tiết lộ hết bí mật và liều mạng trước âm mưu thâm độc của họ. Yêu kẻ thù một cách thiếu khôn ngoan sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đối với kẻ thù, Chúa cũng dạy chúng ta “phải khôn như rắn” (Mt 10:16) trước những âm mưu thâm độc. Nhưng đồng thời cũng không nên đề phòng quá đến nỗi kẻ thù luôn giữ một khoảng cách nguy hiểm đối với ta. Trái lại, phải cho họ thấy tất cả sức mạnh Tin Mừng. Chỉ có Tin Mừng mới lấp đầy khoảng cách giữa kẻ thù và chúng ta. Phải cho họ thấy tất cả những nét hào hùng của Tin Mừng trong thái độ và hành động của môn đệ Chúa Kitô. Chỉ có Tin Mừng mới có thể tạo nổi “những hướng dẫn giúp xây dựng Văn Minh Tình Thương bắt đầu từ việc sám hối cá nhân” (Gioan Phaolô II, Catholic World News Service, 14/2/2001). Quả thực, kẻ thù hiện diện như một dấu chỉ hối thúc chúng ta phải sám hối. Đừng mong đợi kẻ thù thay đổi, nếu chúng ta không thay đổi trước.

Khi vấn đề kẻ thù đã được giải quyết bằng tình yêu thương lớn lao đó, tình yêu trở thành sức mạnh vô song. Lịch sử Giáo hội cho thấy Thày Chí Thánh đã vạch ra con đường dẫn kẻ thù vào sự sống đích thực, bình an và hạnh phúc. Muốn đạt đến mục tiêu lớn lao, Kitô hữu cần phải đi bước trước. Bước đầu tiên Thày chí thánh đã thực hiện khi bước lên thập giá. Thày đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Sở dĩ Thày làm được như thế, vì Thày đã noi gương Chúa Cha “là đấng nhân từ” (Lc 6:36). “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:35). Còn hành vi nào vô ân và độc ác bằng việc giết Chúa không? Nhưng chính ở hành vi tha thứ, Đức Giêsu cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội ác.

NOI GƯƠNG THÀY CHÍ THÁNH

Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho kẻ thù. Chúng ta chỉ là phàm nhân, làm sao có một tấm lòng đại lượng như Thiên Chúa? Đòi hỏi của Đức Giêsu thật gắt gao. Nhưng nếu đòi hỏi một điều gắt gao đó, tất nhiên Đức Giêsu muốn nhìn thẳng vào thực tế. Thực tế đó, chính Đức Phật cũng đã vạch ra: “lấy oán báo oán, oán oán chập chùng”. Ngày xưa chính vua Đavít có một hành vi anh hùng chỉ vì ông nhận ra Saulê là “đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26: 11). “Đó là một nhận thức về trách nhiệm thánh, chứ không phải là một hành vi tha thứ hay xót thương” (Faley 1994:177). Cao hơn một bậc, Đức Giêsu đã tha thứ cho kẻ thù ngay khi đang quằn quại trong vũng máu đào. Chính sự tha thứ ấy cho thấy không còn lý do gì khiến chúng ta phải trả miếng cho kẻ thù. Không ai là kẻ thù đối với những người tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và đều đáng được xót thương. Ngay chính khi tha thứ, chúng ta cũng cần được tha thứ. Thực tế chúng ta cần được tha thứ nhiều hơn mức ta tưởng. Tất cả đều là con cái của Đấng giàu lòng thương xót. Là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta không thể nào không có tấm lòng bao dung trước những lỗi lầm tha nhân. Nói khác, mỗi lần đối xử tệ hại với người khác, nhất là với kẻ thù, vô tình chúng ta đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Vả lại, nếu không biết thương xót, chúng ta cũng sẽ chẳng được Thiên Chúa xót thương. Đó là điều Chúa nói: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:37).

Không những là hình ảnh Thiên Chúa, “chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:49) cứu độ muôn dân. Chính Người là hiện thân của lòng Chúa xót thương. Đó là động lực mạnh nhất giúp ta thắng vượt những xung động hay quyền lợi nhất thời, để hết sức hoạt động phục vụ quyền lợi thiết thực của kẻ thù. Quyền lợi đó chính là ơn cứu độ Chúa đã dầy công tạo lập cho họ. Tất cả sự nghiệp của Người là qui tụ muôn dân. Nếu còn phân biệt bạn với thù, làm sao sự nghiệp của Người có thể hoàn thành trong trần gian? Làm sao chúng ta có thể hoàn thành được những gì còn dở dang trong công cuộc cứu chuộc của Chúa?

Một hoạt động ngoạn mục của Giáo hội đang diễn ra tại Ấn độ. Giữa lúc bị một tổ chức Ấn giáo cực đoan cản trở, Giáo Hội vẫn hiên ngang đến cứu giúp 50,000 gia đình nạn nhân vụ động đất tàn khốc vừa xảy ra ngày 26/01/2001. Tổ chức đó đã từng là thủ phạm giết nhiều linh mục, giáo dân và tấn công nhiều giáo xứ Công giáo tại Ấn độ (VietCatholic, 15/02/2001). Chắc chắn Giáo hội đã vượt qua những ranh giới thường tình để thực hiện đòi hỏi Tin Mừng hôm nay. Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại một tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa ngay trên mặt đất này.

 

46.Yêu thương

Có một chị nữ tu nọ đặc trách quán cơm bình dân trong một trường học, vào những giờ đông người đến mua thức ăn cho bữa trưa hoặc bữa chiều thì chị phải chịu nghe không biết bao nhiêu là những lời than phiền, trách móc, đòi hỏi và cả khi bị mắng chửi trước mặt mọi người, vì không đáp ứng được nhu cầu bất chợt của những người mua thức ăn. Nhưng, dù vậy lúc nào chị cũng luôn luôn vui tươi phục vụ như không có gì xảy ra.

Một hôm có người tò mò hỏi chị cho biết lý do tại sao chị vẫn vui tươi phục vụ như vậy? Chị trả lời như sau: Thường tình thái độ sống của chúng ta chịu ảnh hưởng hay đúng hơn bị lèo lái bởi ảnh hưởng của những kẻ khác. Phần tôi thì tôi đã cố gắng không sống theo tâm thức thường tình này, họ bất kính vô lễ đối với tôi, nhưng đó không phải là lý do để tôi trở thành bất kính vô lễ đáp lại họ. Chúng ta dễ dàng theo luật trả thù “mắt đền mắt, răng đền răng”, nhưng Chúa Giêsu trong bài Phúc âm của Chúa nhật VII mùa thường niên năm C hôm nay nhắc lại cho ta một việc quan trọng, chúng ta không dùng lửa để chống lại lửa, nhưng là lấy sự lành đáp lại sự dữ.

Chúa Giêsu, Người giảng dạy và đã sống nêu gương cho ta. Chúng ta có thể đọc lại đoạn Phúc âm Chúa nhật hôm nay như sau:

Tổng thống Abraham Lincol đã bị những người hầu cận phê bình là tỏ ra quá lịch thiệp vui vẻ cả đến những kẻ thù chính trị đã từng lăng nhục ông, nhưng ông thường trả lời họ như sau: Với thái độ thân thiện, tôi đã loại được kẻ thù và biến họ thành bạn của tôi. Các anh không thấy sao? Thật ra, đây là điều dễ nói hơn là làm. Tình yêu thương tự nhiên của chúng ta thường bị giới hạn trong những kẻ thân hay những ai tốt với chúng ta. Chúa Giêsu biết vậy nên Ngài không ngừng khuyến khích chúng ta hãy can đảm đi xa hơn: “Nếu anh em yêu thương ai yêu thương anh em thì có gì đặc biệt hơn đâu? Những kẻ thu thuế cũng làm như vậy”.

Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy bắt chước mẫu gương của Đức Chúa Cha trên trời. Chúng ta không thể nào hy vọng mình có thể làm được, nếu không nhờ sự trợ giúp và sức mạnh của Chúa để vượt qua được vòng luẩn quẩn là lòng hận thù triền miên qua việc trả thù cách này hay cách khác. Cần phải phá bỏ vòng luẩn quẩn này như Chúa Giêsu đã thực hiện qua thập giá, qua cái chết hy sinh chính mình.

Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta canh tân đời sống, yêu thương, tha thứ theo Tin Mừng. Thánh Augustinô đã nói: “Có nhiều cách thức để làm việc bố thí, để giúp ta lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, nhưng không có cách nào cao cả hơn là cách chúng ta tha thứ thật lòng cho người anh em đã xúc phạm đến ta”.

Chúng ta hãy nhớ lại lời kinh Lạy Cha, hãy nghiêm chỉnh xét mình và nhất là hãy xin Chúa ban cho ta sức mạnh thực hành lời xin tha thứ: “Lạy Cha, xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

 

47.Yêu thương

Phụng vụ lời Chúa hôm nay nêu bật chủ đề đức dung thứ Kitô giáo. Bài Tin Mừng thánh Luca được trích từ những giáo huấn của Chúa Giêsu đã giảng dạy. Cấu trúc song song của Tin Mừng thánh Luca và Tin Mừng thánh Matthêu xếp các qui luật cộng đoàn này sau bài giảng “Tám mối phúc thật”, hay còn được gọi là “Hiến Chương Nước Trời”. Vì đó là những qui tắc nền tảng như một bản hiến pháp để thành lập dân Chúa và định hình cho Hội thánh, thì phần qui luật cộng đoàn cũng có thể được coi là bộ luật luân lý hướng dẫn mọi lãnh vực sinh hoạt, xã hội, tôn giáo của những người tin Đức Kitô.

Một yếu tố không thể không nhấn mạnh, đó là cộng đoàn Hội thánh được qui tụ do niềm tin nơi Đức Kitô Phục Sinh và nhận được sinh khí mới do Thánh Thần của Đấng Phục sinh. Chính trong bối cảnh của cộng đoàn Phục sinh này xuất hiện cảm nghiệm sâu sắc về sức mạnh Thánh Thần, Đức Kitô đã và còn đang biến đổi những gì phàm tục, tội lụy và giới hạn nơi con người cũ xưa thành một con người mới, thụ tạo mới với mọi sức vóc sung mãn theo mô hình của chính Đức Kitô.

Cũng chính trong cộng đoàn nhuệ khí bừng bừng ấy, các quyển Tin Mừng hình thành không như tác phẩm của lý trí suy luận, hoặc của óc sáng tạo giàu chất lãng mạn, nhưng như là tinh hoa tích tụ lại từ vốn sống rất hiện thực, rất sinh động và thánh thiêng. Nói cách khác, cộng đoàn Kitô hữu như được mô tả trong Tin Mừng không chỉ thuần là một lý tưởng, một mẫu mực được phác họa cho một nỗ lực sẽ thành đạt trong tương lai, càng không thể là dấu hiệu của nỗi hoài vọng và một cõi địa đàng trải ra trước mắt, song đúng hơn đây chính là bức tranh xác thực của một nếp sống đã và vẫn còn tiếp diễn xuyên suốt thời gian và không gian, nếp sống của những người được đón nhận thực tại vào Nước Thiên Chúa.

Thánh Phaolô viết cho tín hữu Côrintô: “Những ai thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến”. Nhờ lãnh nhận Thánh Tẩy trong mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, Kitô hữu đã hoàn toàn chết đi với con người cũ tội lỗi, nô lệ của thế gian để sống lại trong con người mới của ân sủng, tự do, chia sẻ chiến thắng vinh quang bất diệt của Đấng Phục sinh. Do đó, có thể nói qui luật sống của cộng đoàn Kitô hữu được trình bày trong Tin Mừng không thể bị giản lược thành một số lời khuyến thiện đẹp đẽ để ai nấy tùy nghi, tùy sức thực hiện, nhưng phải coi đó là những đức độ tất yếu phải có, phải thi hành nơi mỗi cá nhân và toàn thể cộng đoàn tín hữu Kitô.

Thật vậy, có một sự khác biệt sâu xa giữa hành vi anh hùng mã thượng của bậc trượng phu quân tử, như việc chàng dũng sĩ Đavid tha mạng cho kẻ cựu thù là vua Saolê, mặc dù cơ hội báo oán đang nằm trong tay, so với đức dung thứ của Kitô hữu khi họ bỏ qua cho kẻ xúc phạm hoặc hãm hại mình. Hành vi dẫu cao thượng của chàng Đavid có lẽ do nhiều động lực tình cảm gia đình và chính trị, vua Saolê là nhạc phụ của anh, nên anh phải cân nhắc những hậu quả có thể xảy ra trong cuộc sống gia đình giữa anh và công chúa Micam, nếu như anh sát hại phụ vương của nàng. Mặt khác, vì anh đang rất cần hậu thuẫn của đám quần chúng vốn còn nặng ân tình với Saolê. Chàng Đavid không muốn cho phe bảo hoàng ghép cho mình cái tội thí chúa, và tận thâm tâm chàng Đavid còn muốn ngăn ngừa một điều lệ đe dọa cho chính bản thân mình sau này khi anh tuyên bố: “Vua là thiên tử, là bất khả xâm phạm, vì đã được Giavê Đức Chúa xức dầu tấn phong”.

Trong khi đó, người tín hữu Kitô không toan tính so đo một điều gì khác, trong việc thực thi đức dung thứ ngoài ước muốn được xứng danh là con cái Thiên Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, chỉ có vậy và đơn giản như vậy: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Được trở nên hoàn thiện như Hiền Phụ trên trời chính là động lực, là chuẩn mực luân lý Kitô giáo. Kitô hữu thực thi đức dung thứ và yêu thương kẻ thù, đó là một trong những nét độc đáo của Kitô giáo. Không điều kiện, không mong bất kỳ một hình thức đáp trả bồi hoàn nào, họ hành động và ứng xử như thể đó chính là bản chất của họ, là ơn gọi của họ.

Kitô hữu không bận tâm đến việc luận công phạt tội, vì tin đã có Thiên Chúa công minh cầm cân nẩy mực. Được thưởng công và trắng án trước pháp đình Thiên Chúa không thể coi là lý do của đời sống luân lý Kitô hữu, những người đã được giải thoát khỏi gông ách của tội lỗi, những người đã nắm trọn quyền thừa kế Nước Thiên Chúa, những người sẽ ngồi ghế thẩm phán xét xử thế gian. Bằng không, họ vẫn còn sống trong tội lỗi, chung đụng với những kẻ tội lỗi, hành xử như những kẻ tội lỗi: “Nếu anh em yêu thương những kẻ yêu thương mình thì có ơn nghĩa gì đâu, ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ”.

Giả như nói đến phần thưởng dành cho trọn một đời thủy chung với giáo huấn của Chúa, Kitô hữu sẽ chẳng mong mỏi nhận được một phần thưởng nào khác hơn là chính Thiên Chúa, là tình yêu hiền phụ của Người.

 

48.Yêu thương

Phụng vụ các bài đọc Lời Chúa hôm nay đã phác thảo nên một bức tranh đẹp về lòng yêu thương và tha thứ.

- Bài đọc 1 kể lại câu chuyện xưa giữa vua Saulê và Đavid: vua Saulê vì ganh ghét đã luôn tìm hại Đavid, nhưng Đavid là một con người có tâm hồn cao thượng và lòng đại độ đã tha thứ và thậm chí tha chết cho vua Saulê mặc dù mạng sống của vua Saulê đã được trao vào tay Đavid.

- Bài trích thư của thánh Phaolô đã tô điểm rõ nét hơn về sự sống yêu thương và tha thứ nơi mỗi Kitô hữu, đó là sự sống mới trong Đức Kitô, là sự sống của những người được nhận lãnh và sống bởi Thánh Thần của Đức Kitô Phục sinh.

- Trọng tâm mà hai bài đọc muốn dẫn đến chính là lời mời gọi yêu thương và tha thứ, là nội dung đoạn Lời Chúa trong Phúc âm Luca chúng ta vừa nghe đọc.

Đức Giêsu lên tiếng dạy các tông đồ: “Các con hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các con”.

Quả thực, những lời này mới nghe qua, chúng ta thấy thật là vô lý và khó có thể chấp nhận theo như lẽ thường trong cuộc sống con người: Làm sao tôi có thể yêu thương và tha thứ cho kẻ hay gây rối và luôn tạo nên những phiền phức cho tôi; thật là nhục nhã vô lý và không công bằng chút nào khi phải yêu thương và tha thứ cho kẻ đã hạ nhục tôi, hạ nhục gia đình tôi, những người thân quen của tôi… Chắc hẳn mỗi người hiện diện nơi đây còn có thể đặt ra rất nhiều câu hỏi nữa: tại sao, vì sao tôi phải yêu thương và tha thứ cho kẻ thù nghịch với tôi như lời Đức Giêsu dạy các tông đồ mà chúng ta vừa nghe.

Bình tâm lại, chúng ta thấy đây không chỉ là lời dạy mà còn là lệnh truyền, là lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu mời gọi các tông đồ và những kẻ theo Ngài phải có một tấm lòng yêu thương tha thứ vượt lên trên cách suy nghĩ và hành xử như lối người đời vẫn hằng cư xử với nhau. Quả thật, Đức Giêsu đã nhấn mạnh: Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có ân nghĩa gì đâu? ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ… nếu anh em làm ơn cho những kẻ yêu mình, thì người tội lỗi cũng làm được như thế. Như vậy, Đức Giêsu mời gọi mọi người hãy biết mở lòng mình ra cho tình yêu của Thiên Chúa được thấm nhập hầu biến đổi để chúng ta cũng biết mở rộng tâm hồn để mến yêu và tha thứ những lỗi lầm cho anh em đồng loại như ta được Thiên Chúa yêu mến và thứ tha.

Chúa Giêsu đã không dạy chúng ta một cách bâng quơ hời hợt bên ngoài của lời nói, nhưng Ngài còn đi xa hơn, Ngài lấy chính Thiên Chúa làm khuôn mẫu cho chúng ta về lòng yêu thương và tha thứ, Ngài nói: “Các con hãy có lòng nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”.

Lần giở lại lịch sử cứu độ, chúng ta có thể bắt gặp được vô số chứng cứ và hình ảnh về lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa.

Trong Cựu ước, lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa đối với loài người bày tỏ qua một chuỗi các sự kiện:

. Thiên Chúa đã yêu thương sáng tạo ban lời hứa ơn cứu độ cho nguyên tổ.

. Một Abraham, một Mosê đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mạc khải cho biết chính Ngài là Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín.

Còn rất nhiều chứng cứ và hình ảnh mà các tác giả Cựu ước dùng đến để nói lên Thiên Chúa là Đấng yêu thương, bởi vì Ngài là Đấng thánh không thích hủy diệt, không thích tội nhân phải chết nhưng muốn họ hoán cải để được sống và đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa… như lời sách Ezêkiel đã viết: “… vì đường lối của Ngài không giống đường lối của chúng ta, và tư tưởng của Ngài vượt xa tư tưởng của chúng ta một trời một vực”.

Lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa không chỉ dừng lại trước những tội lỗi của nhân loại để chờ đợi họ hoán cải thống hối hầu sửa trị và nhắc nhở họ biết tin tưởng và quay về với Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã đi bước trước đến với con người, tình yêu tuyệt đỉnh của Thiên Chúa đã được biểu lộ qua việc trao ban người Con Một cho thế gian là chính Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã đến trong thế gian, đó là một hành động, là một hồng ân mà Chúa Cha ban tặng. Ngài đến để loan báo lòng yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa. Quả thật, suốt cuộc đời tại thế, trọng tâm lời rao giảng của Đức Giêsu là tình yêu của Thiên Chúa, Đức Giêsu thường dạy dỗ các tông đồ: “… các con hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

… Cao điểm của việc rao truyền lòng yêu thương và tha thứ đó chính là Hy tế thập giá, Đức Giêsu đã đổ máu mình ra để hoàn tất công trình cứu độ hầu ban phát tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại.

Qua Đức Giêsu, chúng ta đã được nhận lãnh lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa. Vậy mỗi Kitô hữu phải làm gì đây để tiếp nối vào sứ mạng yêu thương và tha thứ trong thế giới hôm nay?

Hằng ngày, mỗi người chúng ta vẫn dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy: Lạy Cha chúng con ở trên trời… xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con… Quả thật, đây là lời thú tội và cầu xin trước Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho mình thì chính bản thân cũng phải biết tha thứ cho anh em khi họ lỗi phạm đến chúng ta.

Lòng yêu thương và tha thứ quả thật là một thách đố lớn lao cho tất cả mọi người nhưng đó vẫn là điều khả thi. Một cách cụ thể trong cuộc sống hôm nay, để có thể hóa giải những tranh chấp, hận thù, oán hờn… thiết nghĩ mỗi người phải tự giác đi bước trước: hãy học biết quảng đại, hãy tôn trọng, chấp nhận nhau trong những khác biệt của cuộc sống, thậm chí trái ngược nhau; đừng tìm cách hạ bệ, tranh chấp thắng thua, nhưng hãy biết cho và đón nhận, hãy cùng nhau nhìn về một hướng và giúp nhau đạt tới chân lý là chính Thiên Chúa. Muốn được như thế, thiết nghĩ mỗi cá nhân với sức riêng thì khó mà thực thi nhưng hãy cậy dựa vào ơn Chúa qua việc cầu nguyện và đến với các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh thể để nhờ việc kết hiệp này, chúng ta cũng biết yêu thương và tha thứ theo gương Chúa Giêsu hầu biết hoán cải nội tâm trở nên người môn đệ đích thực và xứng đáng lãnh nhận lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa.

Chúng ta vừa cùng nhau điểm qua một số nét về lòng yêu thương và tha thứ. Quả thật, yêu thương và tha thứ là ý muốn là lệnh truyền của Thiên Chúa vì nó bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa được biểu lộ cách tột đỉnh qua hành động ban tặng chính Con Một là Đức Giêsu Kitô, và nhờ mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh, Đức Giêsu đã hoàn tất công trình cứu độ hầu ban phát tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Ước mong nhờ việc chiêm ngắm và suy niệm mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Đức Giêsu trong cuộc sống mỗi ngày, chúng ta học được nơi Ngài bài học yêu thương và tha thứ như lời Ngài vẫn hằng dạy bảo các tông đồ xưa kia: Nếu các con không biết tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng sẽ không tha thứ cho các con, nhưng nếu các con biết tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho các con.

 

home Mục lục Lưu trữ