Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 53
Tổng truy cập: 1371305
KÉO MỌI NGƯỜI LÊN VỚI TÔI
Cũng như Chúa nhật trước, thánh Gioan đề nghị chúng ta suy niệm về thập giá.
Trong số những người lên Giêrusalem thờ phụng Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philipphê, người Bétsaiđa, miền Galilê, và thưa rằng: “Thưa ông chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” .
Đây là Lễ Vượt Qua cuối cùng Đức Giêsu tham dự. Xét theo bản văn thánh Gioan, trang Tin Mừng mà ta đọc hôm nay, đi liền sau trình thuật tiến vào thành Giêrusalem vinh hiển của Đức Giêsu, ngày Lễ Lá. Sau sự thành công trước quần chúng trên đây, các người Pharisêu đã nói với nhau. “Các ông thấy không, các ông sẽ chẳng làm được gì hết . Hãy coi đó, thiên hạ bắt đầu theo hắn cả rồi!”. Nhận xét của nhóm Pharisêu được minh chứng ngay, qua sự kiện những người “Hy Lạp”, xa lạ nhưng lại có thiện cảm với dân tộc Do Thái, đến xin “gặp” Đức Giêsu. Như thế, đang khi những người quyết định giết hại Người, cố gắng xiết gọng kìm và bầu khí chống đối của nhóm Pharisêu đang trở nên nặng nề, thì đột nhiên, vào đầu tuần lễ cuối cùng của Người tại dương thế, Đức Giêsu có thể nhìn thấy sứ vụ cứu độ của Người đang bành trướng rộng khắp.
Những người “Hy Lạp” này đang báo trước, các dân ngoại sẽ gia nhập Giáo Hội, và thực ra công cuộc cứu độ đang lan rộng, vượt qua ranh giới của Israel: Đức Giêsu sắp nói, Người nhìn thấy cái chết của Người sẽ mang lại sự phong phú phi thường như thế nào! “nó mang lại nhiều hoa trái”; “Nó lôi cuốn mọi người”. Chúng ta lưu ý thêm, những người nước ngoài đang trao đổi với Philipphê. Ong này mang một tên gọi Hy Lạp ông xuất thân từ Bétsaiđa (miền vãng lai, có nhiều người nước ngoài cư trú!). Ong Philipphê này hẳn là biết được một ít tiếng Hy Lạp đủ để ông tiếp xúc trao đổi. Chúng ta có chú ý đến những người xa lạ, để hướng dẫn họ đến với Đức Giêsu không?
Đức Giêsu trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”.
Chúng ta có thể chấp nhận lời mạc khải đó không?
“Giờ của Đức Giêsu”, đó là giờ thập giá của Người: Và cũng chính là giờ vinh quang của Người? Thật là đáng tiếc, chúng ta vẫn tiếp tục chờ đợi một giờ khác, một biểu lộ khác của Thiên Chúa. Ta cần phải thú nhận rằng, chúng ta thường mơ tưởng một thứ vinh quang khác cho Thiên Chúa cũng như cho chúng ta. Thế mà, Đức Giêsu cứ lập lại cho ta: “Này đây, giờ đã đến” (Ga 12,23.27-31). Cho tới lúc này, giờ đó chưa đến, nhưng Đức Giêsu thường nói về giờ đó (Ga 2,4; 4,21-23; 5,25; 7,30; 8,20). Giờ “ưu việt” đó chính là giờ thập giá: Giờ “tôn vinh” Chúa Cha và Chúa Con (Ga 23-28); giờ “xét xử và cứu độ” thế gian (Ga 13, 1-2). Một vài ngày nữa, Đức Giêsu sẽ bước vào Cuộc Thụ Khổ của Người.
Bề ngoài, hình như Đức Giêsu không lạ việc các người “Hy Lạp” đến xin “gặp” Người. Nhưng thật sự, Người đã thỏa mãn ước muốn của họ: “Đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh”; ‘giờ cho tôi gặp Người’ tới gần; giờ giúp ta nhận ra Thiên Chúa. Ta không thể gặp được Thiên Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng nào khác, ngoài ánh sáng của thập giá: Đó là giờ của tình yêu tuyệt đối. Lạy Chúa, xin giúp con biết nhìn lên thập giá, luôn chiêm ngắm thập giá: Đó là giờ mạc khải quan trọng nhất về Thiên Chúa. Tất cả những gì triết gia bàn đến, tất cả những gì các tôn giáo dò dẫm kiếm tìm, thì không đáng kể gì và chưa đủ: “Và đây xuất hiện thập giá”. Vượt qua những lời nói, những suy luận, tôi hãy chiêm ngắm những hình ảnh đó, “hình tướng” về Thiên Chúa.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Vâng, giờ của Đức Giêsu, chính là giờ “chết” của Người, nhưng cũng đồng thời là giờ sự sống của Người, được nhân thừa lên. Đức Giêsu sắp ở một mình trên thập giá. Nhưng trên đó, một cách vô hình Người đang được bao quanh bởi hàng tỷ người nam nữ được cứu độ, nhờ sự hy sinh của Người. Con người thuộc mọi thời đại, thuộc mọi nền văn hoá minh tinh màn bạc về cái chết và cố khám phá ra mầu nhiệm của nó. Còn Đức Giêsu, qua một câu nói hoàn toàn đơn giản trên đây, Người đã nói cho ta niềm xác tín riêng của Người. Người không lý luận. Một cách đầy hiện thực. Người nói, Người đương đầu trước cái chết như thế nào: Đó là cách gieo hạt giống. Suốt mùa đông dài hạt giống bị vùi sâu trong lòng đất tưởng như chết mục, bỗng đâu mùa xuân đến nó đã mọc cao và trở thành bông lúa trĩu hạt trong một vài tuần sau, hứa hẹn một mùa gặt phong phú. Đức Giêsu đã nhìn thấy mùa gặt.
Ai quý trọng mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời.
Như thế theo Đức Giêsu, cần phải chết đi để có sự sống đích thực! Và Người không nói điều gì, chỉ vì thích diễn tả nghịch lý. Nhưng trong một kiểu nói bí ẩn, Người cố gắng gợi lên cho ta một chân lý không tất nhiên rõ ràng, nhưng hiển nhiên cho mọi tâm hồn yêu mến: Cái chết thật không phải là cái chết thể lý, nhưng là sự từ chối hiến thân, là tự đóng kín nơi mình không mở rộng đến kẻ khác! Để bước vào sự sống đích thực, cần phải chết đi. Đó là điều Thiên Chúa thể hiện vì chúng ta; bởi vì Người là “Tình yêu tuyệt đối”. Người mất mạng sống vì chúng ta! Luật của đời sống, là tình yêu; một hạt lúa nhỏ nhất cũng nhắc cho ta điều đó.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi tính vị kỷ khô cằn mà có khi chúng con đã gọi là “sống” cuộc đời mình. Xin dạy chúng con biết hiến mạng sống như Chúa.
Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy và Thầy ở đâu, kẻ phục Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.
Cuộc phiêu lưu của hạt lúa mì, lúc đầu không đáng kể gì nhưng tới mùa gặt mang kết quả dồi dào phong phú: Đó là cuộc phiêu lưu của nước Thiên Chúa (Mc 4,1-20).
Nhưng đối với thánh Gioan, tất cả mầu nhiệm của nước Thiên Chúa đều tâp trung nơi con người Đức Giêsu: Cuộc phiêu lưu của hạt lúa chìm ẩn dưới lòng đất, để lại mọc lên thành cây, cũng là cuộc phiêu lưu của Đức Giêsu, chịu chết để sinh sản ra nhiều hoa trái.
Nhưng cuộc phiêu lưu đó không chỉ có Đức Giêsu thực hiện, nó còn được trao ủy cho chúng ta. Chính trong cuộc sống mạo hiểm này, Đức Giêsu đã được vinh quang của Người, vinh quang của tình yêu “phục vụ” đến cùng, thì chúng ta cũng có thể sống cuộc mạo hiểm đó. Số phận của “hạt lúa” cũng trở nên số phận của chúng ta: Chết đi để mang lại hoa trái: “Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ ban cho họ vinh quang”.
Rồi Đức Giêsu thưa cùng với Chúa Cha: “Bây giờ tâm hồn con xao xuyến. Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Niềm xác tín vào hiệu quả phong phú nhờ sự hy sinh của mình, không tránh cho Đức Giêsu khỏi phải cảm nghiệm sự lo âu trước cái chết. Tư tưởng về số phận hạt lúa chết đi để sống lại, đã làm Đức Giêsu thổn thức không nguôi. Vào những thời điểm khác, ba thánh sử kia đều nói cho ta biết rằng Đức Giêsu bị “thử thách” muốn sử dụng thần tính của mình để khỏi phải chấp nhận thân phận con người: Đó là cơn cám dỗ lúc đầu đời công khai của Chúa. Tại hoang địa (Mt 4,11), đó là cơn cám dỗ lúc Chúa hấp hối ở vườn cây Dầu (Mc 14,32). Nhưng trước mỗi cơn thử thách, Đức Giêsu đều kiên quyết thoát khỏi để luôn trung thành với Chúa Cha trọn tình con thảo. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta có thể phải giao động trước nỗi khổ đau.
Nhưng không, chính vì giờ này mà Con đã đến đây, lạy Cha, xin tôn vinh Cha.
Đối với chúng ta cũng vậy, việc tuân phục đức tin hệ tại thái hộ chấp nhận thân phận con người phải chết của chúng ta, và gán cho nó một ý nghĩa dưới ánh sáng Cuộc Thụ Khổ và vinh quang của Đức Giêsu: Chết đi để trao ban hoa trái. Thư gửi tín hữu Do Thái, mà ta đọc Chúa nhật hôm nay, cũng cho rằng thái độ vâng phục của Đức Giêsu đã tạo cho cái chết của Người có một ý nghĩa sâu sắc: ”Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà vâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người, vì Người đã tôn kính Thiên Chúa. Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân tới lúc thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người (Dt 5, 7-9).
Cái chết vẫn là một sự dữ. Đau khổ vẫn còn là một sự dữ. Và Đức Giêsu không phải mất công trả lời những vấn nạn thuộc phạm vi triết học mà là vấn đề về sự ác đặt ra. Một cách đơn giản, Người đón nhận cái chết như một sự vâng phục thân phận làm người, vì tình yêu. Và như thế, Người đã thay đổi ý nghĩa của cái chết.
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Thánh Gioan không thuận lại cuộc Biến Hình, cũng như bất cứ một cuộc Thần hiện vinh quang nào. Đối với ông, như ta đã thấy Chúa Nhật vừa qua, thì “Giờ của thập giá” là giờ Vinh Quang. Trên Thập Giá Người được “giương cao”, nghĩa là vừa “bị đóng đinh”, vừa “được tôn dương”: Loài người làm việc thứ nhất, còn Thiên Chúa thực hiện thứ hai.
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài .
Đó là hai mặt của cùng một thực tại: “Phán xét” và “Cứu độ”.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người phải chết cách nào.
Đó là lúc sự dữ bị đánh bại, “thủ lãnh của thế gian này” bị tống ra ngoài, và con người được cứu độ! Phải, chính thập giá đã tạo nên một sự hấp dẫn mới, lôi cuốn mọi người! Đó là lời nói mầu nhiệm, cần phải đón nhận trong đức tin và chúng ta phải tạ ơn vì lời nói đó. Cuối cùng đó cũng là cách trả lời đích thực cho những người “Hy Lạp” đã xin “gặp gỡ “ Đức Giêsu. Lời nói này là một trong những lời nói cuồi cùng mà Đức Giêsu đã thốt ra trong thời gian thử thách sứ vụ cách công khai của Người. Và không ai đã hiểu lời đó (Ga 12,34). Thánh Gioan tường thuật tiếp: Lúc đó “Đức Giêsu lánh đi, không cho họ thấy” (Ga 12,36). Người không còn gì để nói nữa.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU SINH NHIỀU HOA TRÁI TỐT ĐẸP- Chú giải của Fiches Dominicales
*1) Dân ngoại tiến đến
Bài Phúc âm Chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản nối hai chủ đề lớn của Sách Tin Mừng Gioan: chủ đề “những dấu chỉ” (từ phép lạ Cana cho đến phép lạ Lagiarô sống lại) và chủ đề “Giờ của Chúa” (tức là cuộc khổ nạn, chết và sống lại).
Đức Giêsu đã long trọng tiến vào thành đô Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua lần cuối cùng mà cũng sẽ là chuyến từ giã thế gian này mà về cùng Cha Người.
Trong khuôn viền Đền thờ, “có mấy người Hy lạp” muốn tìm gặp Chúa. Họ không phải là những người Do thái nói tiếng Hy Lạp nhưng là dân ngoại có cảm tình với Do Thái giáo. Họ lên Giêrusalem thờ phụng Thiên Chúa dịp lễ Vượt Qua? Việc họ tìm đến với Chúa mang giá trị biểu tượng: là dấu chỉ báo trước sự lên đường của những người thuộc muôn dân sẽ đến với Đức Kitô sau này, là dấu chỉ loan báo giờ ơn cứu độ ban tặng cho hết thảy mọi người đã điểm.
Họ tìm “gặp Đức Giêsu”, không phải chỉ để trông thấy Người mà thôi, muốn vậy họ đâu cần nhờ đến ai. Nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, để đàm đạo với Người. Họ đang trên con đường đức tin rồi đấy.
Họ “lại gần ông Philipphê”, chắc bụng vì ông này với cái tên Hy Lạp, sinh trưởng ở một vùng đông dân ngoại nói tiếng Hy Lạp có thể giúp làm môi giới cho họ được.
“Ông Philipphê đi nói với ông Anrê” cùng sinh trưởng như ở ông Bétsaiđa và cũng mang tên Hy lạp như ông.
”Và hai Ông đến thưa với Đức Giêsu”. Như vậy, cũng giống như ở 1, 35-51 (Phúc âm Chủ nhật 2 Thường niên) Gioan, một lần nữa, nêu bật tầm quan trọng trong vai trò môi giới của con người giúp đi đến với Đức Giêsu.
*2) Dấu chỉ loan báo giờ của Chúa
Thay cho câu trả lời, Đức Giêsu tuyên bố: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh? Giờ mà việc hồi sinh của Ladarô đã báo trước Giờ báo hiệu những người Hy lạp tìm đến đã gần kề: đó là giờ Chết-Sống Lại của Đức Giêsu sẽ mở ra cho mọi người ơn cứu độ.
Để diễn tả cái chết sắp tới của mình là nguồn ơn phong phú đem lại muôn vàn hoa trái, Đức Giêsu nhập đề cách trịnh trọng: “Thật Thầy bảo thật anh em” cho một dụ ngôn nhỏ mà giới nhà nông hiểu dễ dàng: dụ ngôn hạt lúa mì với hai ý đối chọi nhau “trơ trọi một mình” và “sinh được nhiều hạt”. Để có thể sinh nhiều bông hạt, hạt lúa mì nhất thiết phải chết đi: đó là quy luật của sự sống. Đối với Đức Giêsu cũng vậy: cái chết của Người là quá trình bắt buộc để Người tiến vào vinh quang, là điều kiện để Hội Thánh được sinh ra, nhân lên gấp bội. Với các môn đệ Chúa cũng sẽ như vậy thôi: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất, Chúa Giêsu nói tiếp, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
- Léon-Dufour quảng giải thêm: “Cuộc sống có thể được coi như là “của tôi”, và tôi có thể dập tắt đi hay giữ nó lại như thể sự tồn tại hay tàn lụi của nó là tuỳ ở tôi, cái báu vật duy nhất cần phải bảo vệ bằng mọi giá ấy, cái tài sản chỉ tuỳ thuộc vào tôi ấy. Nếu thế cuộc sống sẽ như giòng nước đang chảy xiết sẽ vuột khỏi tay tôi, khi tôi cố giữ nó lại mà không chế ngự được dòng chảy của nó. Ngược lại nếu tôi không cố bám víu vào cuộc sống này, nếu tôi chấp nhận mở ra với AI đó, cũng là chết đi cho những gì khiến tôi co cụm lại, thì này đây sự “chết” ấy không có gì khác là một sự “xuất thần”, và một khi cuộc sống tôi mở ra như thế sẽ giữ lại được như lời Chúa nói, cho sự sống đời đời”. Như ta biết theo thánh Gioan, sự sống đời đời là sự hiệp thông với chính Thiên Chúa vậy” (Lecture de l’evangile selon Jean”, quyển II, Seuil, trang 464).
*3) Giờ chôn vùi xuống cũng là giờ nâng cao lên.
Vẻ nghịch lý mà từ đầu trình thuật vốn nối kết giờ chết với giờ vinh hiển, còn diễn ra ở phần hai. Trong phần này, Gioan chỉ mượn và sử dụng theo chủ đích của mình một số yếu tố trong những câu chuyện kể lại trong Phúc âm nhất lãm như: một bên là cảnh Chúa hấp hối trong vướng Giếtsêmani, và bên kia là sự kiện Chúa Hiển dung trên núi Taborê.
Thực vậy, Gioan sẽ không tường thuật lại cơn hấp hối của Đức Giêsu, nhưng ở đấy Gioan có ý báo trước rằng Giờ bị chôn vùi trong sự chết đang đến, giờ ấy sẽ phải là một quá trình đau thương mà nỗi xao xuyến và buồn sầu sẽ choán hết. Thế nên lời “Thầy xao xuyến” cũng như lời nguyện cùng Cha “Lạy Chúa, xin cứu con khỏi giờ này” được tiếp theo ngay bằng tâm tình hoàn toàn phó thác nơi Cha của Người: “Nhưng không, chính vì Giờ này mà Con đã đến! Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha!”. Một kinh nguyện, như A. Marchadour nhận xét: vùng lên như một bản tóm lược “kinh Lạy Cha” vậy (kinh này không có trong Tin Mừng Gioan). Đức Giêsu quả là người đầu tiên từ bỏ chính mình để vâng nghe lời Chúa Cha” (O.C. trang 169) .
Gioan cũng chẳng kể lại câu chuyện ‘Chúa Hiển Dung’, nhưng ở đây ngài nhắc đến “có tiếng phán từ trời”. Một tiếng nói mà những người chứng kiến giải thích khác nhau: Người thì cho rằng “đó là tiếng sấm”, người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy”. Tiếng nói đó tuyên bố cho mọi người biết rằng lời Đức Giêsu cầu xin cũng như việc dâng hiến mạng sống Người đã được Chúa Cha đoái nghe và đón nhận, sẽ sinh nhiều hoa trái. Tác giả kết luận: “Bởi tính chất độc đáo của sự việc, lại nằm cuối phần thứ nhất của sách Tin Mừng, nên sự can thiệp này của Chúa Cha coi như Đức Giêsu được Cha Người long trọng xác nhận là Con và là đang được sai đi. Đó là một sự phê chuẩn có tính tôn vinh một phần cho lúc này, một phần hứa cho tương lai. Cuộc khổ nạn đối với Đức Giêsu đúng là một thử thách vinh quang vậy” (idem).
Buổi đầu khi thi hành sứ vụ, ở Cana, Đức Giêsu đã nói với Mẹ Người rằng: “Giờ Con chưa đến”, thế mà Người cũng “đã tỏ vinh quang” Người cho các môn đệ. Giờ đây, “Giờ đã đến” lúc vinh quang này sẽ được tỏ ra trên khắp thế giới. “Khi làm những dấu lạ đầu tiên” ở Cana, các môn đệ “đã tin vào Người? Từ nay khi được “giương cao lên khỏi đất”, một kiểu nói ám chỉ cùng một trật, Người sẽ phải chết cách nào và được Chúa Cha đem lên vinh quang, Đức Giêsu sẽ “kéo mọi người lên theo với Người” và sẽ mở cho họ con đường đến với Chúa Cha.
- Léon Dufour hỏi để kết luận Đức Giêsu có đã đáp ứng lòng mong đợi của những người Hy lạp muốn “gặp” Người không?
Không có lời đối đáp nào được kể lại, ông trả lời, thế nhưng bài diễn từ đã cho thấy rằng muốn gặp Đức Giêsu, thì ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng-bị-đóng-đinh-được-tôn-vinh. Nói một cách tổng quát, ta đã được tỏ cho biết rằng, người ta chỉ có thể đến với Đức Giêsu tại thế, nhờ nhận ra Đức Giêsu được nâng lên cao, có nghĩa là mọi nhận thức, mỗi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ta ra với Lời và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng muốn hoàn toàn tự lập, mà người ta tiến đến “sự sống”. Đi theo Đức Giêsu là phải có tinh thần phục vụ. Phục vụ cốt tại ở cái gì, thì bài diễn từ giã biệt sẽ nói cho ta hay. Điều cốt yếu là để cho Chúa Con lôi kéo ta đi. (O.C. trang 478).
BÀI ĐỌC THÊM.
*1) “Người thời nay mải mê với những vấn đề căn bản”
(Các Giám mục Pháp, trong trình bày đức tin trong xã hội hiện nay. Thư gởi các tín hữu Pháp. Cerf, trang 40-41).
“Nhiều dấu chỉ cho thấy rằng người thời nay nếu không đang đi tìm tòi những điều cốt lõi, thì cũng đang mải mê với những vấn đề căn bản, như: Kinh nghiệm yêu thương trong thời điểm nóng bỏng của Sida, ý nghĩa của hiện hữu con người, nhất là khi cuộc sống bị thử thách, đâu là cái giá của nhân vị con người đứng trước vô vàn những vận dụng kỹ thuật hay kinh tế mà đối tượng là nhân vị con người.
Sẽ không có cơ may đối thoại với người thời nay nếu chúng ta không phải là những người có đầu óc cấp tiến. Vậy chúng ta có điều cốt lõi nào để trao đổi với người ta?
Phải xuất phát từ đòi hỏi đi đến cốt lõi ân ban của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, mới hiểu được điều chúng tôi gọi là đề nghị đức tin trong xã hội hiện nay.
Chúng tôi không có tham vọng trình bày điều gì mới lạ, mà: chỉ muốn nhìn nhận những điều kiện mới mà ta phải sống và loan báo Tin Mừng. Trong những điều kiện mới này, mặc dầu vẫn là những người có quyền thụ hưởng gia sản mà ta đã lãnh nhận, ta phải trở thành những “người đề nghị” đức tin. Để đạt mục đích đó, chính chúng ta đều được mời gọi phô diễn sự mới lạ của ân huệ Thiên Chúa, như được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Bởi vậy hai điều không thể tách biệt nhau là ta vừa phải chửng tỏ tính thời sự của mầu nhiệm đức tin, vừa phải tạo nên một Hội Thánh rao giảng Tin Mủng bằng cách sống mầu nhiệm ấy và bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa mình: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 16).
*2) Phục vụ đời sống con người theo cách thế của Đức Giêsu, người Tôi Tớ (idem trang 95-96).
Không thể cử hành mầu nhiệm đức tin đúng theo chân lý, nếu chỉ quan tâm đến hành vi phụng tự. Bởi lẽ Thiên Chúa cứu độ đến với ta trong Đức Giêsu Kitô đã đồng hoá mình với người nghèo khổ và kẻ bé mọn. Vì thế có một mối tương quan không thể tách rời giữa phượng tự Kitô giáo và đời sống con người, không gì mong manh và bị de doạ hơn đời sống ấy. Ta không thế phục vụ và yêu mến Thiên Chúa Đấng ta không trông thấy mà lại không tôn kính Người hiện diện trong những anh em hẩm hiu nhất của ta. Tác vụ của các phó tế đặc biệt nhắc nhở ta mối tương quan cơ bản này, tương quan giữa việc phục vụ Thiên Chúa và phục vụ con người.
Giới Công giáo Pháp hôm nay có sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo và người bị loại trừ được coi như “bí tích của Đức Kitô”. Sự quan tâm có tính Tin Mừng này khơi gợi nên rất nhiều dấn thân cá nhân cũng như cộng đoàn. Những con người đang bắt tay vào việc được tăng thêm xác tín rằng họ đang chu toàn ơn gợi Kitô hữu và đang rao giảng Tin Mừng bằng cách phục vụ con người như thế.
Để tôn vinh sứ mạng cao cả này, Hội Thánh đang tìm cách gởi những thành viên có những hoàn cảnh sống cụ thể, khuyến khích họ nhận lãnh trách nhiệm đối với giới được uỷ thác cho họ, giúp họ biết sống tinh thần liên đới và sáng kiến cần có theo tinh thần ấy. Để làm công việc này, các phong trào, đặc biệt là phong trào Công giáo Tiến hành đều phải chuẩn bị cho các thành viên của mình biết sống và hành động theo tinh thần Tin Mừng khi họ phải chăm lo cho đời sống cá nhân và xã hội của con người, giúp họ gây một ảnh hưởng tập thể trên nếp sống của con người.
– Cùng lúc đó, Hội Thánh cũng sử dụng những phương tiện của riêng mình để khơi gợi, nâng đỡ và ngay cả điều phối hoạt động của giới công giáo trong việc phục vụ cộng đồng nhân loại, nhờ vào các cơ quan như Tổ chức Cứu trợ Công giáo (secours Catholique) hoặc CCFD (tổ chức chống đói và giúp phát triển), cũng nhờ vào những tổ chức y tế và học đường hoặc những phong trào giáo dục và từ thiện nữa.
*3) Sức năng động của lời Chúa
(Kỷ yếu của CCFD)
Ngày nay ở Pháp cũng như trên toàn thế giới, người ta nhận thấy LỜI CHÚA có tính năng động và khả năng biến đổi lòng người.
Lời Chúa mở rộng trí khôn để biết phải hành động ở đâu và thế nào hầu giúp cho các xã hội được công bằng hơn (lấy các dự án-đèn pha làm thí dụ).
Lời Chúa giải phóng óc sáng tạo để tìm ra những con đường mới (cứ nhìn vào con số những hiệp hội được thành lập mỗi năm). Điều này không phải không gặp trắc trở khó khăn trong một số quốc gia.
Lời Chúa kích thích những con người mà người ta nghĩ là quá nghèo và trình độ quá kém, biết đảm nhận lấy những trách nhiệm.
Mọi người đều không biết rằng tính năng động kia, sự phát triển kia, và tinh thần liên đới ấy đều xuất phát từ Đấng là “chủ tể của thế gian này đã bị ném ra ngoài”. Họ vui sướng hành động, nhưng không nhận ra Đấng ban sự sống. Họ hân hoan hoạt động cho sự hoà giải, nhưng lại không biết gì về Mầu nhiệm Thập giá.
Hiệp cùng với các anh em dự tòng; những người đã nhận ra Đấng đang lôi kéo mọi người đến với Ngài, Đấng đang khắc ghi lề luật của Ngài vào đáy lòng người, Đấng hứa cho những tôi tớ Ngài sẽ được ở bên cạnh Ngài, chúng ta hãy cảm tạ vì đức tin đã được lãnh nhận và vì những tấm lòng đang rộng mở. Trong bánh và rượu đã kết hợp lao công, đau khổ và sướng vui của mọi người. Quyền năng Chúa Thánh Thần đang tác động trên lễ vật của chúng ta như Người đang tác động trên khắp thế giới, đó là: thánh hoá mọi sự, quy tụ dân Người, ban sự sống và biến chúng ta thành của lễ thực sự làm vinh danh Chúa (xem PE số 3).
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B
GIỜ CỦA ĐỨC GIÊSU (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay năm B được cấu trúc theo cùng một nét chung: ở giữa những nỗi xao xuyến vang lên một tiếng kêu tràn đầy hy vọng.
Gr 31: 31-34
Khi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và Đền Thờ bị thiêu hủy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố rằng không có gì phải mất cả: “Này sẽ đến ngày, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một Giao Ước Mới”. Đức Giê-su lấy lại diễn ngữ nầy khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25).
Dt 5: 7-9
Thư gởi tín hữu Do thái nhắc nhớ rằng Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến tận đáy lòng trước tấn thảm kịch của sự chết, nhưng nhờ cái chết của Ngài, “Đức Giê-su trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu” cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
Ga 12: 20-33
Tin Mừng Gioan gợi lên rằng trước cuộc Tử Nạn gần kề của Ngài, Đức Giê-su xao xuyến, nhưng rồi trấn tỉnh khi nghĩ đến cuộc chiến thắng vinh quang của Ngài trên Xa-tan, quyền lực của sự Dữ.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 31-34)
Chúng ta thường nghĩ rằng thuật ngữ “Giao Ước Mới”, được rút gọn: “Tân Ước”, xuất xứ từ các sách Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su đã sử dụng diễn ngữ nầy vào buổi chiều Tiệc Ly: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25). Thật ra, thuật ngữ nầy được gặp thấy rồi trong Cựu Ước. Thuật ngữ nầy xuất hiện lần đầu tiên ở nơi đoạn trích hôm nay đánh dấu đỉnh cao sứ điệp của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ông loan báo một “Giao Ước Mới” dưới hai dấu chỉ: tác động nội tâm của Thần Khí và ơn tha thứ tội lỗi. Quả thật, đây là sấm ngôn linh hứng của vị ngôn sứ, nhưng cũng là thành quả của một kinh nghiệm mà vị ngôn sứ đã sống với một tâm trí minh mẫn.
Kinh nghiệm nầy được hình thành qua hai giai đoạn: “thời kỳ hạnh phúc” và “thời kỳ bi thương” của dân tộc mình. Giê-rê-mi-a có lẽ chào đời vào năm 645 trước Công Nguyên. Vào thời niên thiếu của mình, ông đã kinh qua thời kỳ hưng phấn: cuộc cải cách của vua Giô-si-gia, khởi sự vào năm 622 trước Công Nguyên. Trước triều đại của vị vua cải cách nầy, là triều đại của vua Mơ-na-se, vị vua vô đạo đã du nhập và phổ biến việc thờ ngẫu tượng cho đến tận Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Ông còn bảo trợ tội bội giáo của dân chúng nữa.
*1.Thời kỳ hạnh phúc:
Vào năm 622, trong khi Nhà Đức Chúa đang được trùng tu, người ta tìm thấy “sách Luật”. Có thể đây là sách Đệ Nhị Luật hay ít ra những bản văn cốt yếu của sách này. Sách đã bị quên lãng hơn nữa thế kỷ qua (vua Mơ-na-se đã cai trị từ năm 687 đến 642 trước Công Nguyên).
Vua Giô-si-gia công bố trước toàn dân tất cả các lời trong sách Luật đã tìm thấy trong Nhà Đức Chúa. Vua long trọng cam kết đi theo đường lối của Đức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Ngài. Toàn dân đồng thanh chấp nhận Giao Ước (2V 23: 1-3). Vua Giô-si-gia thực hiện cuộc cải cách tôn giáo triệt để: trừ tiệt tất cả mọi vết tích thờ ngẫu tượng ra khỏi đất nước, dẹp bỏ các tế đàn ở nơi cao và tập trung việc phụng tự kính Đức Chúa vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Nhưng than ôi! Vào năm 609, vua tử trận trong cuộc chiến chống quân đội Ai-cập. Ngay sau cái chết của vua, nền phụng tự ngoại giáo lại có cơ hội bộc phát trở lại. Chính vào thời điểm nầy mà những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a vang lên, loan báo những tai họa thảm khốc nhất nếu nhà Giu-đa không thành tâm hoán cải (Gr 26). Vì thế, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã chứng kiến việc tái lập Giao Ước bị thất bại: công việc cải cách đã tác động đến phụng tự, nghi lễ, nhưng đã không thể biến đổi tấm lòng của dân chúng. Vị ngôn sứ không quên bài học nầy.
*2.Thời kỳ bi thương:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, được mệnh danh là ngôn sứ của những tai họa, không ngừng cảnh báo quốc họa rất gần kề. Vì thế, người ta đã âm mưu hãm hại ông, quấy nhiễu ông và tống giam ông. Những sấm ngôn của ông bị vua Giô-gia-kim xé từng trang và bỏ vào lò sưởi. Tuy nhiên, những lời sấm nầy đã được ứng nghiệm. Kinh thành Giê-ru-sa-lem bị quân đội của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đánh chiếm vào năm 597 trước Công Nguyên; thành phần ưu tú bị phát lưu sang Ba-by-lon; Đền Thờ bị thiêu hủy vào năm 587, sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ hai.
Qua tấn thảm kịch này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đọc được những ý định của Thiên Chúa: cuộc tái lập Giao Ước tỏ ra thất bại, thành thánh hoang tàn đổ nát, Đền Thờ chẳng bao lâu sau bị tàn phá. Đây không phải là những dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa có một kế hoạch khác, vì lòng chai dạ đá của dân Ngài sao? Chính như vậy mà ngay vào lúc Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị thiêu hủy, vị ngôn sứ loan báo rằng không có gì phải mất cả khi diễn tả niềm hy vọng bất diệt của Ít-ra-en bằng những lời lẽ tuyệt vời: “Nầy sẽ đến những ngày, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới”. Đây không còn là Giao Ước được khắc trên bia đá như Ngài đã ban cho ông Mô-sê, cũng không trong cuốn sách luật như được tìm gặp trong Đền Thờ, nhưng “Ta sẽ ghi vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta”.
Ở những nơi khác, vị ngôn sứ công bố: “Ta sẽ ban cho chúng một tâm hồn để nhận biết rằng chính Ta là Đức Chúa” (Gr 24: 7) hay “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và một con đường hành động, để chúng kính sợ Ta mãi mãi, nhờ đó chúng và con cháu sau nầy được sống hạnh phúc. Ta sẽ lập với chúng một Giao Ước muôn đời: Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo dõi, và không ngừng thi ân cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta, để chúng không xa rời Ta nữa” (32: 39-40).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo cuộc sống theo Thần Khí và dưới tác động của ân sủng. Nhờ tác động của Thần Khí, mọi người, từ người nhỏ đến người lớn, đều nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa mà không cần phải dạy bảo nhau.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong cảnh lưu đày tại Ba-by-lon cũng thoáng thấy một niềm hy vọng về một Giao Ước Mới: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Chính thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành” (Ed 36: 26-27).
Cuộc đời của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã là một mẫu gương về một cuộc sống trong Thần Khí rồi. Với tư cách là một người đạo hạnh thường hằng đối thoại với Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a xứng đáng được gọi là “cha của kinh nguyện”. Chính từ môi miệng của ông mà sấm ngôn về “Giáo Ước Mới” được loan báo.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 7-9)
“Thư gởi tín hữu Do thái” thật ra không là một “bức thư”, vì tác giả không tự giới thiệu mình và cũng không cho biết người nhận thư là ai (nhan đề: “thư gởi tín hữu Do thái”, xuất hiện sau này vào thế kỷ thứ hai).
Bức thư nầy được gán cho thánh Phao-lô vì vài tư tưởng và ngôn từ rất gần với tư tưởng và ngôn từ của thánh nhân, nhưng đề tài trọng tâm không thuộc về thánh Phao-lô: tác giả muốn chứng tỏ rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế Tân Ước, cao vời trên vị Thượng Tế Cựu Ước. Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian tuyệt vời, vị Thượng Tế duy nhất và hiến lễ của Ngài thì thập toàn. Ấy vậy, thánh Phao-lô không bao giờ gán cho Đức Ki-tô tước hiệu thượng tế.
Chắc hẳn người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái chịu những cuộc bách hại và mang nỗi nhớ khôn nguôi về nền phụng tự Cựu Ước. Về niên biểu, bức thư nầy chắc chắn được viết trước khi Đền Thờ và Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá vào năm 70 Công Nguyên, bởi vì tác giả nói về phụng tự Đền Thờ như đang hiện hành cách sinh động. Ngoài ra, nếu bức thư được viết sau biến cố năm 70, tác giả không thể nào không ám chỉ đến biến cố nầy, vì biến cố này rõ ràng củng cố đề tài của ông về tình trạng vô hiệu của Giao Ước Cũ.
Đoạn trích ngắn nầy diễn tả sâu sắc hai khía cạnh bất khả phân của con người Đức Ki-tô: nỗi xao xuyến của kiếp sống phàm nhân và vị thế Con Thiên Chúa. Hai khía cạnh này khiến cuộc Tử Nạn của Ngài được phơi bày hết mức kịch tính.
*1.Kiếp sống phàm nhân (5: 7):
Qua những lời này: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (5: 7), chắc hẳn tác giả ám chỉ đến những lời khẩn nguyện thống thiết của Đức Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni, trong đó Đức Giê-su đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha lớn tiếng đến mức ba môn đệ ở gần đó có thể nghe được. Nhưng đây cũng có thể ám chỉ đến tiếng kêu của Ngài lên cùng Cha Ngài trong cơn hấp hối trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27: 46). Dù thế nào, tác giả muốn nhắc nhớ rằng Đức Giê-su đã chia sẻ tận cùng những yếu đuối của chúng ta và nỗi sợ hãi của chúng ta trước cái chết. Quả thật, “Thiên Chúa đã nhận lời Ngài” (5: 7), nhưng không theo cách thế mà con người ở nơi Đức Giê-su mong ước. Để có thể chiến thắng tử thần, Ngài phải trải qua sự chết.
*2.Vị thế Con Thiên Chúa (5: 8-9):
Trong phần hai, tác giả muốn cho thấy rằng không có bất kỳ kiếm khuyết nào ở nơi Đức Giê-su. Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su chấp nhận thánh ý Chúa Cha với một thái độ vâng phục trọn vẹn. Từ “vâng phục” âm vang tư tưởng của thánh Phao-lô. Thánh Phao-lô nói về “sự vâng phục tràn đầy niềm tin”.
“Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (5: 8). Gian khổ là trường đào tạo tốt nhất để thành nhân, nhân loại tiến bộ nhờ những kinh nghiệm đau thương. Tác giả áp dụng tư tưởng này vào Đức Ki-tô: “khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ” (5: 9). Chính không phải với tư cách là Con Thiên Chúa mà Ngài “đạt tới mức thập toàn”, nhưng với tư cách là Đấng Cứu Độ. Bằng đau khổ mà Ngài tự nguyện chấp nhận, Đức Ki-tô đã trở nên hy lễ hữu hiệu tuyệt mức đem lại ơn tha thứ tội lỗi. Như vậy, Ngài trở nên Đấng Trung Gian lý tưởng, vừa người anh em của nhân loại vừa Con Thiên Chúa, làm một với Thiên Chúa và làm một với chúng ta. Đó là một trong những tư tưởng cốt yếu của “thư gởi tín hữu Do thái” nầy.
TIN MỪNG (Ga 12: 20-33).
Trong Tin Mừng Gioan, câu chuyện này xảy ra ngay sau bài tường thuật về việc Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vào lúc lễ Vượt Qua sắp đến gần.
Trong cùng một chuyển động, đến lượt mình, những người Hy-lạp, đại diện thế giới lương dân, bày tỏ ước nguyện “muốn được gặp” Đức Giê-su (12: 21). Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ “muốn được gặp” bày tỏ dáng dấp của niềm tin rồi. Lời thỉnh cầu của họ đã gây xúc động sâu xa ở nơi Đức Giê-su: những người Hy lạp nầy đại diện thế giới lương dân mà cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài sẽ mở ra cho họ con đường cứu độ.
Câu chuyện nầy thật cảm động. Cuộc Tử Nạn sắp đến gần của Ngài làm cho Ngài xao xuyến. Dù thánh Gioan không ghi lại nỗi xao xuyến của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni, nhưng tình tiết được trình bày ở đây như tham dự trước nỗi xao xuyến nầy.
*1.Niềm tin của những người Hy-lạp:
Những người Hy-lạp nầy lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua, họ thuộc vào số những lương dân có thiện cảm với Độc Thần Giáo Do thái. Sách Công Vụ gọi họ “những người sùng mộ Thiên Chúa” hay “những người kính sợ Thiên Chúa”.
Họ ngỏ lời xin được gặp Đức Giê-su với ông Phi-líp-phê. Ông Phi-líp-phê nói lại với ông An-rê, đoạn cả hai đến thưa chuyện với Thầy mình. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp với những người Hy-lạp đến xin gặp Ngài. Thời gian của những cuộc chuyện trò riêng tư đã qua, nay giờ thực hiện ơn cứu độ phổ quát đã điểm.
*2.Giờ của Đức Giê-su:
Trước đây, Đức Giê-su đã từ chối mang sứ điệp của Ngài đến lương dân, nay Ngài biết rằng giờ của họ đã đến, Ngài sắp đổ máu mình ra cho tất cả họ. Trước đó vài ngày, Ngài đã nói: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn nầy” (Ga 10: 15-16). Những chiên khác không thuộc ràn nầy, chính là những lương dân này, họ cầu xin được gặp Ngài. Xúc động tận đáy lòng, Đức Giê-su hân hoan nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (12: 23).
Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” để nói về mình. Tước hiệu nầy quy chiếu đến thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, trong đó một nhân vật huyền nhiệm “như Con Người đến trên mây trời” nhận được danh dự, quyền năng và vinh quang (Đn 7: 13-14). Tước hiệu bí ẩn nầy cho phép Đức Giê-su diễn tả tính siêu việt của Ngài ở nơi nhân tính của Ngài, đồng thời vẫn giữ được mầu nhiệm con người Ngài.
Trong Tin Mừng Gioan, giờ tôn vinh bắt đầu ở đồi Sọ. Thật ra, việc tôn vinh bao gồm cuộc Phục Sinh và cuộc Thăng Thiên ngự bên hữu Chúa Cha, mà bước đầu tiên chính là Thập Giá. Chính ở nơi Thập Giá mà hành động cứu độ viên mãn của Đức Giê-su được thực hiện và ý định yêu thương vô hạn của Thiên Chúa được hiện thực. Chúa Giê-su diễn tả chân lý nầy bằng một sự so sánh rất giản dị: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (12: 24).
*3.Lời mời gọi theo Ngài:
Chúng ta ghi nhận rằng mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn của Ngài, Ngài đều mời gọi bước theo Ngài trên con đường gian nan của sự từ bỏ: “Ai quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời” (x. Mt 16: 21-24; Mc 8: 31-35; Lc 9: 22-23). Chính đó là câu trả lời của Đức Giê-su cho những người Hy-lạp mong ước được gặp và biết Ngài. Một cách nào đó, Ngài cho họ một cuộc hẹn gặp: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12: 26). Không ai có thể gặp gỡ Đức Giê-su, nếu không chung bước trên cùng con đường với Ngài.
Viễn cảnh con đường đau khổ nầy làm xao xuyến Đức Giê-su. Ba chuyển động nối tiếp nhau: xao xuyến tận đáy lòng, kêu cầu cùng Chúa Cha và chấp nhận dâng hiến mạng sống mình, mà các sách Tin Mừng Nhất Lãm dùng để mô tả con người của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni. Nhưng vào giây phút nầy, Đức Giê-su không để cho mình ngã quỵ dưới sức nặng của cuộc Tử Nạn, nhưng trấn tĩnh lại ngay: “Chính giờ này mà con đã đến!” (12: 27). Thêm nữa, một tiếng phán từ trời đem lại nguồn an ủi cho Ngài.
*4.Tiếng phán từ trời:
Trong Tin Mừng Gioan, đây là cuộc Thần Hiển duy nhất. Thánh Gioan không tường thuật cuộc Biến Hình; thánh nhân tường thuật biến cố Phép Rửa chỉ gián tiếp và không có bất kỳ ám chỉ nào đến tiếng phán từ trời (x. Ga 1: 31-34). Đoạn văn nầy là đoạn văn duy nhất ám chỉ đến sự can thiệp từ trời: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (12: 28). Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Cha đã tôn vinh Ngài qua bảy dấu lạ mà Đức Giê-su đã thực hiện, nay Chúa Cha sẽ còn tôn vinh Ngài hơn nữa qua dấu lạ cuối cùng vĩ đại nhất, đó là Thập Giá. Điều đó nói lên sự hiệp nhất vinh quang giữa Chúa Cha và Chúa Con trong công trình cứu độ loài người.
Đây là dấu lạ sau cùng được ban cho đám đông. Phải chăng đây là dấu lạ mà người Biệt Phái đã đòi hỏi nhưng bị từ chối (x. Mt 16: 1-4)? Đức Giê-su chỉ ban dấu lạ nầy vào lúc quá muộn: án tử của Ngài đã được quyết định rồi.
*5.Cuộc chiến thắng trên Xa-tan:
Ngay khi tâm hồn xao xuyến, Chúa Giê-su lấy lại niềm hưng phấn lúc ban đầu. Quả thật, ơn cứu độ mà Ngài đạt đến cho thế gian ở nơi Thập Giá sẽ đánh dấu sự thất bại của Xa-tan. Nhân loại sẽ thoát khỏi quyền thống trị của sự Dữ. Thập Giá sẽ là dấu chỉ của cuộc chiến thắng nầy: “Phần tôi, khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12: 32). Động từ “giương cao lên” được dùng ở đây có nghĩa vừa “được nâng lên cao” vừa “được tôn vinh”, tức là được đưa lên trên Thập Giá và được siêu thăng bên cạnh Chúa Cha. Theo cùng một cách thức như vậy, Đức Giê-su đã trả lời cho ông Ni-cô-đê-mô: “Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3: 14-15) và với những lãnh đạo Do thái: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8: 28).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam