Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 85
Tổng truy cập: 1373040
KHIÊM NHƯỜNG
Khiêm nhường
Cách đây ít lâu, khi có dịp về thăm họ đạo Phú Hiệp khi đến Cái Mơn tôi có ghé vào uống nước tại một quán cà phê gần nhà thờ. Khi mới vừa bước vào quán thì có một em bế đến hỏi "Thầy uống chi a?" Tôi thật lá bất ngờ. Vì ở một nơi rất xa, tôi vẫn chưa giới thiệu mình là thầy mà em bé đó đã biết. Tôi cứ suy tư mãi và có phần hãnh diện về mình và suy nghĩ trong đầu, mình thật là oai đến đây mà họ vẫn biết mình là thấy. Nhưng sau đó đến lúc trả tiền tôi liền mạnh dạn hỏi "Sao con biết thầy là thầy mà kêu thầy vậy?". Thì được em bé đó trả lời: "Dạ! Cô con dặn ai bỏ áo vào quần mà ghé quán này con đều phải xưng bằng thầy hết" Cuối cùng tôi mới hiểu vì quán này gần trường học nên các thầy ghé nhiều, em bé chỉ xưng hô như đã mặc định mà thôi. Thật là quê! Vì tôi cứ nghĩ là họ nhận ra mình làm cho mình huênh hoang tự đắc trong lòng. Khi đó tôi liền nhớ đến lời Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: "Kiêu ngạo sẽ biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Còn khiêm nhường sẽ làm cho con người trở nên thiên thần". Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường như sau: "Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường".
Mẹ Maria đã sống khiêm nhường để luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, bà Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu những hậu quả đau đớn của tội nguyên tổ. Trong khi đó Mẹ Maria, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên: Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ, nào là để xem lại, hỏi lại, hoặc là để cầu nguyện thêm cái đã...Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã xứng đáng được đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, Mẹ Chúa Giêsu giáng sinh.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói "xin vâng" trong tin yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù đen tối. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Lạy Chúa, xin cho con biết mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca "xin vâng" để xin Mẹ trợ giúp: "Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời". Để con cũng được giống như Mẹ, vui đón nhận tình yêu Giáng sinh trong an bình và hạnh phúc. Amen.
31. Truyền tin cho Đức Maria - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Maria có gì đặc biệt mà được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế và theo niềm tin Công giáo, còn là Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại? Dưới mắt người đời, Maria đâu có tài năng gì đặc biệt, làm sao Maria thành công trong công việc vĩ đại ấy?
2. Khi được Thiên Chúa chọn, ta cần có tinh thần nào để hoàn thành tốt đẹp sứ mạng mà Ngài giao cho ta? Có ai được Thiên Chúa chọn mà làm hỏng việc Ngài không? Tại sao vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Maria nhỏ bé yếu đuối nhưng được Chúa chọn...
Dưới nhãn quan Kitô giáo, chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, khởi đầu một công trình hết sức lớn lao của Thiên Chúa: cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công cuộc vĩ đại này bắt đầu một cách rất âm thầm, nhỏ bé tại một làng quê, với một thôn nữ yếu đuối chẳng mấy người biết. Điều này làm ta nhớ tới dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4,31-32). Qua kinh nghiệm tâm linh của nhiều vị thánh, ta thấy Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Có như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1,27).
Thật vậy, theo tiêu chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét về tài năng, thông minh, học vấn, sức khỏe, sắc đẹp, v.v... chắc hẳn Maria không có gì đặc biệt hơn những thiếu nữ khác cùng trang lứa với mình. Trên đời chắc chắn còn những thiếu nữ đặc biệt hơn Maria rất nhiều. Nhưng Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình vĩ đại này. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Và Ngài đã thành công trong việc chọn Maria, đang khi có những người khác được Ngài chọn đã làm “hỏng việc” của Ngài, hay đã làm Ngài không hài lòng, chẳng hạn trường hợp vua Sa-un (x. 1Sm 9,17; 13,13-14); tông đồ Giu-đa (Mt 26,47-50)...
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: nhiều người được Thiên Chúa chọn cho công việc của Ngài, tại sao có những người làm nên việc, khiến Ngài thành công và hài lòng như trường hợp của Maria, và cũng có những người làm “hỏng việc”, khiến Ngài “thất bại” (từ gượng dùng) hoặc không hài lòng? Ta có thể rút ra bài học nào cho ta khi ta được Thiên Chúa chọn làm công việc của Ngài?
2. Maria xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là ta biết xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa, xóa bỏ ý riêng mình trước thánh ý Ngài, xóa bỏ dự định hay kế hoạch của mình trước dự định hay kế hoạch của Ngài. Đó chính là tinh thần tự hủy mà Đức Giêsu là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức Maria.
Theo tư tưởng lưu truyền trong giới Công giáo, khi được thiên sứ báo tin, Maria đang dự định sống trọn đời đồng trinh để phụng sự Thiên Chúa. Việc đính hôn với Giu-se chỉ là để che mắt thị phi của thiên hạ, vì người đương thời quan niệm sai lầm rằng một phụ nữ sống độc thân là một hình thức bị chúc dữ. Nhưng khi biết thánh ý Thiên Chúa muốn chọn mình làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế, thì lập tức nàng từ bỏ tất cả mọi ý muốn hay dự định riêng của mình để vâng theo ý muốn của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
3. Được Ngài chọn, hãy toàn tâm toàn ý cho việc của Ngài
Nếu Thiên Chúa chọn ta thì là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta làm theo ý Ngài chứ không phải ý ta. Nên nếu ta được chọn, ta hãy để Ngài hoàn toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là một công cụ Ngài dùng mà thôi. Công cụ thì không hiện hữu cho mình mà cho công việc hay ý muốn của người sử dụng công cụ. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ý người sử dụng. Vậy, ta hãy toàn tâm toàn ý cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ gì đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành tựu, thì công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có thể gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của ta. Đức Giêsu có nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Vì thế, việc của ta, hãy hoàn toàn phó thác cho Ngài. Chắc chắn một Thiên Chúa quan phòng tài tình như Ngài sẽ không để việc của ta bị thất bại chỉ vì ta đã toàn tâm toàn ý lo cho việc của Ngài. Hãy tin tưởng chắc chắn như thế!
4. “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã”
Những người được chọn mà làm “hỏng việc” Ngài - như vua Sa-un, Giu-đa - có thể là những người ban đầu rất nhiệt thành, quên mình, hoạt động vì Thiên Chúa và tha nhân chứ không vì mình. Nhưng tới một lúc nào đó người ấy bị tha hóa, đã đặt mục đích hay công việc của mình lên trên mục đích hay công việc của Ngài, đặt ý mình lên trên ý Ngài, hoặc muốn lèo lái công việc của Ngài theo ý mình, v.v... Những người này lúc ban đầu nhờ nhiệt thành và quên mình nên đạt được danh vọng, quyền lực, tiền bạc... nhưng về sau họ đã bị chính những thứ đạt được ấy làm biến chất, tha hóa, khiến họ bị mất ơn Chúa và trở thành những kẻ phá hoại hay cản trở việc Chúa. Do đó, mọi Kitô hữu đang có chức vị cao, đang nắm quyền lực hay có nhiều tiền bạc trong tay cần phải lưu ý lời của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Coi chừng kẻo mình trở thành như cây chổi cùn, sau khi đã tận tâm tận lực quét đi mọi thứ rác rưởi, thì cuối cùng mình lại trở thành một thứ rác lớn nhất, khó quét đi nhất. Vậy, tinh thần tỉnh thức, luôn luôn phản tỉnh, tự xét bản thân là điều rất cần thiết. Hãy coi chừng danh vọng, địa vị, quyền lực, tiền bạc là những yếu tố có khả năng tha hóa và làm biến chất rất mạnh! Vì thế, đời sống thanh đạm, tinh thần từ bỏ, siêu thoát vẫn luôn luôn cần thiết cho đến hết cuộc đời.
5. Người được chọn sẽ bị thử thách
Ai được Thiên Chúa chọn để làm những công việc lớn lao cho Thiên Chúa, thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những thử thách mà Đức Giêsu và Đức Maria - là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đãi - phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ. Đây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rm 8,30). Cách thức “làm cho nên công chính” của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ: “Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn” (Dt 2,10); “Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ” (1Tm 3,10); “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội” (1Pr 1,7). Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18).
Chính nhờ những đau khổ và thử thách ấy nên không ai có thể ganh tị được với vinh quang vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho những ai bền đỗ với những thử thách ấy. Họ rất xứng đáng với vinh quang và hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho họ. Vì thế, khi được Thiên Chúa tuyển chọn, ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và thử thách Thiên Chúa gửi tới. Hãy tin tưởng: “Ai bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22; 24,13).
Cầu nguyện
Lạy Cha, để yêu thương và cứu rỗi nhân loại, Cha cần rất nhiều người cộng tác. Cha chọn người cộng tác theo sự tự do của Cha. Con sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Cha, nếu Cha cần đến con. Một khi được kêu gọi, con quyết sẽ toàn tâm toàn ý sống và làm tất cả mọi sự theo sự hướng dẫn của Cha, bất chấp những đau khổ thử thách mà Cha dùng để rèn luyện con. Xin cho con trung thành với quyết tâm ấy.
32. Suy niệm của Anmai CSsR
KHIÊM HẠ ĐỂ ĐÓN NHẬN MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA!
Đa-vít - vị vua nổi tiếng trong Thánh Kinh Cựu Ước mà ít nhiều gì chúng ta đều được nghe nói về ông. Điểm son và điểm dễ nhất về hình ảnh của vị vua mà có người gán cho ông cái tên dễ thương nữa là vua thánh Đa-vít. Vì sao người ta lại gán cho ông cái tên này? Vì lẽ ông quá sức tội lỗi, ông đã muốn cưới bà Bát Sê-va bằng cách giết U-ri-gia chồng của bà nhưng sau khi ông nghe lời tuyên sấm của Nathan, ông đã thay đổi cuộc đời bằng cách ăn chay, cầu nguyện và xin Đức Chúa - Chúa của ông tha lỗi cho ông.
Bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe xong chúng ta cũng nghe Đức Chúa đã phán với Nathan vài điều để Nathan nói lại với vua Đavit "Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít: ĐỨC CHÚA phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao? Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, ĐỨC CHÚA báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền" (2 Sm 7, 8-11a)
Lời tuyên sấm này Đức Chúa muốn nói với Đavít rằng Ngài sẽ thiết lập cho Đavít một dòng dõi và dòng dõi ấy sẽ được vững bền với vương quyền của dòng dõi ấy. Đức Chúa còn cam kết thêm: Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi. (2 Sm 7, 8-11b)
Và chúng ta cũng nên nhìn lại thái độ, tâm tư của vị vua đặc biệt này qua trang sách Samuel: Vua Đa-vít vào ngồi chầu trước nhan ĐỨC CHÚA và thưa: "Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Nhưng lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài. Phải chăng đó là luật chung cho con người, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng? Đa-vít còn nói được gì thêm với Ngài? Ngài biết tôi tớ Ngài, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng! Vì lời Ngài đã phán và theo như lòng Ngài muốn, Ngài đã thực hiện tất cả công trình vĩ đại này, để làm cho tôi tớ Ngài được biết. Vì thế, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài thật vĩ đại: không ai sánh được như Ngài; và không có Thiên Chúa nào khác ngoại trừ Ngài, theo như mọi điều tai chúng con đã từng được nghe. Dưới đất có một dân tộc nào được như dân Ngài là Ít-ra-en? Thiên Chúa đã đến cứu chuộc dân này để làm thành dân của Ngài, đặt tên cho nó, thực hiện cho nó những điều vĩ đại và khủng khiếp, hầu xua đuổi các dân tộc và các thần của chúng cho khuất mắt dân mà Ngài đã cứu chuộc từ Ai-cập về cho mình. Ngài đã lập Ít-ra-en, dân Ngài, để nó thành dân Ngài mãi mãi; còn Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã trở thành Thiên Chúa của chúng. Giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa, lời Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó, xin Ngài giữ mãi mãi, và xin hành động như Ngài đã phán. Danh Ngài sẽ vĩ đại mãi mãi và người ta sẽ nói: "ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa thống trị Ít-ra-en. Nhà của tôi tớ Ngài là Đa-vít sẽ vững bền trước nhan Ngài. Thật vậy, lạy ĐỨC CHÚA các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chính Ngài đã mặc khải cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can đảm dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy. Giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy. Vậy giờ đây, cúi xin Ngài giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn tại mãi trước nhan Ngài. Bởi vì, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài đã phán, và nhờ Ngài giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi mãi." (2 Sm 7, 18-29)
Qua lời cầu nguyện đơn sơ trên đây của Đavit ta thấy Thiên Chúa quyền năng đã làm những điều kỳ diệu trên con người khiêm hạ của Đavit. Nếu Đavit không khiêm hạ, Đavit sẽ không nghe lời tuyên sấm của Nathan để quay đầu trở về với Thiên Chúa. Biết mình yếu đuối, biết mình tội lỗi nhưng Đavit đã quay đầu trở lại với Đức Chúa để rồi Đức Chúa đã tin tưởng, đã giao phó, đã thiết lập cho ông một dòng dõi mang tên ông.
Một lần kia ông đã tâm sự với Chúa:
Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi!
Đường cao vọng, chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu;
hồn con, con vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
(Tv 131, 1-3)
Hình ảnh của một người khiêm hạ trong Cựu Ước thật đẹp, thật dễ thương. Nhìn trẻ thơ nép mình vào lòng mẹ thật dễ thương. Mẹ như là cùng đích, như lẽ sống của cuộc đời con để rồi khi con nép mình vào lòng Mẹ con sẽ cảm thấy không còn bận tâm, không còn lo lắng điều gì nữa.
Con người, vốn mang trong mình dòng máu của kiêu ngạo nên đã đánh mất đi tình yêu, lòng mến, sự che chở, sự bao bọc, sự che chở của Thiên Chúa là Cha, là Chúa của mình. Sự kiêu ngạo ấy đã trải dài suốt lịch sử cứu độ, suốt hành trình về Đất Hứa.
Thời Tân Ước, tưởng người ta nhận thấy bài học chua xót, cay đắng từ sự kiêu ngạo để tỏ lòng khiêm hạ trước Thiên Chúa nhưng không. Chúng ta thấy người Do Thái vẫn cao ngạo, vẫn không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, tình thương xót bao la của Ngài trên cuộc đời của họ. Đức Trinh Nữ Maria, là người nữ Do Thái mới. Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ đã đến trần gian này với lòng khiêm hạ đến cực độ. Mẹ là hình ảnh đối lập với Eva xuẩn động ngày xưa. Eva đã đi tìm cho mình vị trí bằng Thiên Chúa để rồi phạm tội ăn trái cấm. Eva xưa đã cao ngạo trước tình yêu bao la của Thiên Chúa. Không chỉ một mình mình phạm tội mà Eva còn rủ chồng mình cùng chung số phận như vậy. Mẹ Maria hoàn toàn sống khiêm hạ, sống vâng theo Thánh Chúa trên cuộc đời Mẹ. Nếu như Mẹ cũng cao ngạo như những người Do Thái chắc có lẽ Mẹ cũng sẽ chẳng đón nhận được mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể trong lòng Mẹ.
Trang Tin mừng theo Thánh Luca mà chúng ta vừa nghe thuật lại thái độ, tâm tư, tấm lòng khiêm hạ của Mẹ. Quá choáng ngợp với ơn của Thiên Chúa qua miệng sứ thần, Mẹ với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! " Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."
Sau khi nghe sứ thần giải thích, Mẹ Maria lặng lẽ thưa "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."
Mẹ Maria khiêm hạ để rồi Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm Nhập Thể vĩ đại cho Mẹ. Thiên Chúa vẫn thích hiện diện nơi những tâm hồn khiêm hạ. Chỉ có những ai khiêm hạ, những ai tin mới thấy được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các thánh tông đồ xưa là những người tạm gọi là đầu tiên tin Chúa và đã rao giảng mầu nhiệm ấy. Sau khi tin vào Chúa thì các môn ra đi loan báo Tin mừng như Đức Maria vậy. Sau khi đón nhận mầu nhiệm Nhập Thể nơi cung lòng của mình, Mẹ đã đi loan báo Tin mừng ấy, không chỉ loan báo mà Mẹ còn hành động cụ thể bằng cách chia sẻ niềm vui cho bà chị họ. Các môn đệ cũng loan báo Tin mừng bằng cách hy sinh cả mạng sống của mình. Ra di trong hân hoan, ra đi trong hạnh phúc vì có Chúa ở cùng.
Trong niềm hân hoan ấy, Thánh Phaolô tông đồ đã gửi tâm thư của mình cho cộng đoàn Rôma mà chúng ta vừa nghe: "Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Ki-tô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa". (Rm 16, 25-27)
Hôm nay, qua các lời ngôn sứ từ Nathan loan báo cho Đavit về dòng dõi mà Thiên Chúa thiết lập trên ông đến lời sứ thần loan báo mầu nhiệm Nhập Thể nơi Đức Trinh Nữ chúng ta thấy điểm chung hay nói đúng hơn điểm son nơi hai nhân vật điển hình ấy chính là sự khiêm hạ. Biến cố Emmanuel Nhập Thể mà chúng ta sẽ mừng trong vài ngày nữa cũng chỉ tỏ lộ nơi những con người nghèo, những con người nhỏ bé như những mục đồng nghèo ở cái làng Belem năm nao.
Đứng trước một Thiên Chúa toàn năng, danh Người là Thánh, chắc có lẽ tâm tình hay nhất mà chúng ta phải có đó chính là tâm tình khiêm hạ.
Xin Chúa cho chúng ta mặc lấy tâm tình khiêm hạ của vua Thánh Đavit cũng như tấm lòng khiêm cung nơi Đức Trinh Nữ Maria để quyền năng, tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ nơi cuộc đời mỗi người chúng ta như Chúa đã từng biểu lộ nơi vua thánh Đavit và Đức Trinh Nữ Maria.
33. Mầu Nhiệm Nhập Thể – ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm.
"Tình yêu" là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại, hai tiếng nói căn bản và thâm sâu nhất của cuộc sống.
Sinh ra, lớn lên và chết đi, lúc nào con người cũng mong đợi tình yêu.
Có tình yêu, con người hết là những viên đá nằm lạnh lùng bên cạnh nhau trên một con đường, những thân cây vô tri vô giác mọc lên trong một đám rừng hay những con vật đi ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau để tranh miếng mồi ngon.
Tình yêu khiên con người không những sống gần nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau, chấp nhận chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng vui, cùng khổ, cùng lao động, cùng phấn đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và vong thân trong xã hội. Tình yêu là ánh sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm giúp con người triển nở trong hạnh phúc.
Tình yêu là động lực thúc đẩy con người đến với nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên một: một lòng, một trí, một ý chí, một cuộc đời.
Thánh Kinh luôn khẳng định Thiên Chúa thương yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy khiến Thiên Chúa đến với con người, trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.
Tình yêu được biểu lộ trong lịch sử, biến lịch sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa.
Những chương đầu của sách Sáng thế cho thấy Yavê sống thân mật với con người, ngay từ khi con người được tạo dựng. Ngài đi dạo mát với con người trong vườn Eđen, Ngài chăm sóc sức khỏa và đời sống của con người. Ngài cho con người hưởng các hoa quả, cho con người một bạn đường. Ngài đối thoại thân mật với con người.
Sách Sáng thế còn cho thấy Ngài đến với con người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng đặc biệt Ngài đã đến viếng Abraham và ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với Abraham một giao ước tình yêu và nhất quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến nỗi khổ của ông: tuổi đã già mà không có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho ông một miêu duệ lớn gấp trăm ngàn lần mong muốn.
Khi con cháu Abraham chịu khổ cực và bị áp bức trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã đến để giải phóng họ và Ngài muốn chọn Maisen - một người có lòng yêu nước nồng nàn - Ngài đã gọi Maisen lúc ông bị đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết chết một người ngoại bang để bênh vực cho kẻ đồng hương.
Với Maisen, Thiên Chúa cũng đã ký kết một giao ước và từ đó thiết lập một dân riêng làm chứng cho Ngài giữa muôn nước.
Trong sa mạc, Thiên Chúa luôn hiện diện. Hòm bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa và ở gần kề. Qua đám mây và cột lửa, chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành trình.
Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện giải phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau khổ và giúp họ chiến đấu với kẻ thù để sống còn và tiến dần vào Đất hứa.
Khi dân Chúa đã sống ổn định và thiết lập một vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa vẫn hiện diện và bảo đảm cho sự trường tồn và hạnh phúc của họ. Đavít muốn xây cho Chúa một đền thờ, nhưng Ngài muốn hiện diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm Nathan, Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ đòi dân xây cho mình một đền thờ bằng gạch đá như các thần minh của dân ngoại. Chính dân là đền thờ Ngài ngự. Và Đền thờ đó do Ngài xây dựng, chứ không phải do tay con người làm nên. Chính Chúa tạo ra một Đền thờ đích thực; đó là dòng dõi, là con cháu Đavít; và qua những con người sống thực thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ hiện diện trong lịch sử loài người.
Với Đavít và miêu duệ ông, Thiên Chúa càng ngày càng gần gũi với nhân loại. Ngài tác động trên lịch sử loài người và đặc biệt trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài hướng dẫn và thanh luyện dân Ngài qua những biến cố đau thương như thất trận, lưu đày... Ngài răn bảo và thúc giục... đôi khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng an ủi vỗ về và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa thường dùng chính là "lời nói" và "cuộc sống" các tiên tri.
Ngài thương dân như cha yêu thương con cái, như mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm sóc đoàn chiên.
Nhưng Thiên Chúa như chưa bằng lòng với những gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến cư ngụ với dân, không chỉ như một thần linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn thân phận con người và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành Người như mọi người. Ngài bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn sàng đón nhận những khắc khoải lo âu của cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động, phấn đấu cho đời sống vật chất như mọi người. Ngài cũng vui, cười và than khóc như những ai khác. Ngài chấp nhận mọi giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn sau cùng và quan trọng nhất của con người.
Giêsu, con của Maria và Giuse thuộc dòng dõi Đavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Nhưng Ngài cũng là con của trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh nữ nghèo nàn sống ở Nadarét.
Đó là khía cạnh huyền diệu nhất của mầu nhiệm Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần thế, để ta nhận ra gương mặt đích thực của Ngài, một tình thương thực tế không viễn vông, không lý thuyết Ngài không là "kẻ thuộc thế giới xa lạ". Theo Ngài không phải để đi về thế giới ảo tưởng nào khác, nhưng để sống tình yêu chân thật.
Maria thụ thai Đức Giêsu là nhân loại thụ thai Đức Giêsu! Maria hạ sinh Đức Giêsu là nhân loại hạ sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1, 26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel dân Chúa. Thiên Thần kêu mời Maria hãy vui lên vì sắp sinh quý tử. Đó cũng là lời loan báo niềm vui cho nhân loại: chính từ nhân loại mà phát sinh một con người toàn thiện xứng đáng làm Trưởng tử giữa muôn loài.
Mầu nhiệm Nhập thể là tột đỉnh của sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người khiến từ lòng dân nảy sinh Đấng Cứu độ. Chồi cây Yêsê do Thiên Chúa vun trồng đã nở hoa.
Đức Giêsu là bí tích, là dấu hiệu, là điểm gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Đức Giêsu là nơi hội tụ của tình thương giữa Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa, vừa là tiếng đáp trả của nhân loại.
Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu là một con người cụ thể, với những nét đặc thù và sống động. Nhưng Đức Giêsu còn là Con của Chúa Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt động của Ngài đều do Thánh Thần của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự can thiệp của Thánh Linh: "Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Đấng Tối cao trên Cô rợp bóng".
Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động trong lịch sử trước ngày Đức Giêsu sinh ra. Nhưng Ngài đặc biệt hiện diện trong cuộc đời Giêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Giêsu tuy phải chết như mọi người, đã sống lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu "phần số" tốt đẹp Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Đức Giêsu sống lại được Chúa Cha ban trọn vẹn Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà Đức Giêsu hiện diện giữa dân Ngài "mọi ngày cho đến tận thế".
Nhờ Thánh Linh Đức Giêsu vẫn ở giữa loài người, không phải chỉ cách đây hai ngàn năm, mà Ngài vẫn hiện diện, vẫn sống giữa nhân loại hôm nay. Giáo hội là nơi Ngài hiện diện bằng chính những hoạt động không ngừng của Thánh Linh Ngài ban. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện qua các sự kiện lịch sử và các biến cố. Ta có thể gặp Ngài và phải tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở về cùng Cha, không phải để rời bỏ trần thế, nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc biệt với những người bé mọn, những người đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô cũng như Luca cho thấy sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh và lên trời trở thành hữu hình trong người anh em: "Ta đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi cho uốn, Ta là khách trọ các ngươi tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho mặc, Ta đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt 25,35-36).
Đức Kitô vẫn luôn ở giữa chúng ta. Chúng ta sẽ nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ bánh, khi lắng nghe lời Ngài, khi thao thức tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời đại. Chúng ta sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào những người anh em sống gần kề ta. Ngài ở cạnh ta, cùng xây dựng xã hội và môi trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp công biến đổi trần thế thành Đất mới, Trời mới, thực hiện lời thánh Phaolô: "Tất cả thuộc về anh em, anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa".
BÀI GIẢNG
Càng gần lễ Giáng sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi thiện chí và nỗ lực của mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay được chan hòa ơn thánh.
Nhưng chính trong bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị Đại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách Thánh hôm nay muốn nâng bổng tâm hồn chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu dọn những công việc bề ngoài, chúng ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho chúng ta.
Quả vậy, khi Đavít suy tính sắp sửa xây cất cho Chúa một đền thờ xứng đáng, Người đã sai tiên tri Nathan đến thưa nhà vua rằng: Chính Người sẽ xây cho nhà vua một nhà, một họ, một dòng tộc để tồn tại muôn đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng ta, những người đang làm hang đá, dọn máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý đến những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến báo tin cho Maria biết: Ngôi Lời muốn trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Đó là sứ điệp của Chúa nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón nhận, suy niệm rồi thực hành, để Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong thời đại này, trên quê hương Việt Nam đang hình thành một nếp sống mới.
Trước hết chúng ta hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên Người không còn đầu thai nữa như xưa kia ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy không cần phải quảng diễn thêm.
Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh Kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp. Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến mọi biến cố xảy ra hàng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên Chúa lại như nhập thể ở giữa chúng ta.
Do đó thật là chủ bại khi nghĩ rằng thế giới càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn nghĩa lý gì nữa; và nói đến tương lai mà làm gì! Nhưng người có đức tin không thể nghĩ như thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn đời sống con người thật đáng sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong lòng một Trinh nữ bình dân, nơi một điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi suy yếu của dân tộc Dothái, chúng ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh chung quanh dường như không đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ chúng ta. Chính máu chảy ra ở trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái Chúa. Như vậy, có gì phải bi quan? Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu độ xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi tất cả.
Chúng ta chỉ cần noi gương một Đavít và một Maria. Đavít đã biết quên mình để nghĩ đến Chúa. Maria cũng đã tự xưng là nữ tì để thi hành hết mọi ý định của Đấng mình tôn thờ. Chúng ta nhiều khi không sống như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều, nghĩ đến sự sống của bản thân, và không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai của dân tộc dủ. Chúng ta tìm sự sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như Phúc Âm đã nói tiếp: chúng ta sẽ mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính trước, sẽ được ban cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp được, khi ai ai cũng chỉ biết nghĩ đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta nghĩ đến công ích, làm việc cho công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn hiện tại sẽ khắc phục được dễ dàng. Đavít đã không nghĩ đến mình, Đức Maria cũng thế. Nên Thiên Chúa đã tìm được người cộng tác để thực hiện công trình của Người, ở trần gian, là chính Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài người.
Thế thì hôm nay và những ngày sắp tới, đang khi hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng sinh, chúng ta cần nhất phải mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Chúa đang đến với chúng ta. Ngài dùng Lời Thánh Kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người muốn sống như Chúa; và như vậy Ngài đang muốn nhập thể tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như Thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn. Điều cần hơn hết là chúng ta luôn phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Người muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thể với Ngài. Chúng ta có sẵn sàng đem tinh thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại Lời mời gọi đó không?
Nguyện chúc tất cả anh em được như vua Đavít và Đức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự viên của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương trần gian.
Đức Mẹ Mùa Vọng
Chúng ta còn lạ gì: mục đích của mùa Vọng không phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng sinh vì Chúa Cứu thế đã giáng sinh rồi không còn phải trông đợi theo kiểu dân Dothái ngày trước nữa. Nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc chắn để lao mình về đàng xa, về ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn vào mầu nhiệm Chúa Giáng sinh để chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng gợi lại thời gian trông đợi ngày trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày nay. Nói vắn tắt, mùa Vọng muốn hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời kỳ Tân Ước. Trong mùa này, chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó sang đời sau. Vinh dự cho chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại và đẹp đẽ này.
Và cũng như Cựu Ước ngày trước đã được kết thúc một cách tuyệt diệu nơi con người Đức Maria, trong mùa Vọng phụng vụ này Giáo hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng Người như là khuôn mẫu phải đi tới. Người thật là bông hoa của Cựu Ước. Những cái tinh túy nhất của Cựu Ước đã đúc nặn nên Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp lại tất cả lòng tin sâu xa của Abraham, lòng cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của tác giả các thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử dân Người và lịch sử thế giới để tạo nên được một con người như thể để Ngôi Hai Thiên Chúa có thể giáng trần.
Nếu quả thật trong bao ngàn năm lịch sử, "vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa nhi" thì phải đợi đến khi Maria xuất hiện, người ta mới thấy "nhất phiến cổ hoài tịnh thổ sản phúc quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất thanh sạch đón nhận đám mây từ nhân mưa Đấng công chính xuống. Đức Maria vì thế trở thành lý tưởng mà Giáo Hội và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa trở lại.
Nhưng một lý tưởng bao giờ cũng phong phú có rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa, không ai có thể nói lên được tất cả, huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy nhiên, mỗi lần nói, người ta vẫn ước vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một cảm tình mộ mến dẫn sang một thích thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của phụng vụ trong mùa này khi gợi lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời của Đức Mẹ.
Chúng ta đừng thấy lễ Vô Nhiễm là lễ Đức Mẹlà lễ Đức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội tưởng đó là hình ảnh Đức Mẹ phải tập trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không, mùa Vọng không đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì mùa Vọng. Giáo hội La Mã vẫn có óc lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm cuộc đời của Chúa trong các mầu nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời Đức Mẹ trong các mầu nhiệm ấy; đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng nên mừng sinh nhật và đầu thai của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau 9 tháng. Lễ sinh nhật Mẹ đã được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu thai vô nhiễm phải đưa lên 9 tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.
Các nhà làm lịch lễ dường như không để ý đến mùa Vọng khi đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng đặt rồi họ mới thấy đây là một sự trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, mùa Vọng Kitô giáo trở thành hân hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của Dothái ngày xưa. Thuở trước, các linh hồn thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện lời của Thiên Chúa tình yêu trong vườn địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một dòng dõi đạp dập đầu con rắn. Người nữ ấy là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho chúng tôi được nhìn thấy ơn cứu độ? Các thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi nhau câu ấy. Có lần, đàn thiếu nữ Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa bà Yuđích cắt đầu địch thủ đang trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai trò cứu nguy dân tộc sẽ là người nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ, chờ mãi... Mùa Vọng của họ dường như thiếu bảo chứng.
Nhưng nay, lễ Đức Mẹ hiện lên bầu trời mùa Vọng Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta đã có bảo đảm rõ rệt. Vì thế chúng ta có thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì ố đã xuất hiện thì ơn cứu độ cũng đã đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu Thế, nhưng việc Người đến không còn hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai mọc trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!
Nhưng ta vẫn phải nói, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm đã không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng sung sướng đón nhận lễ này nhưng lễ này không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn tập trung những cái nhìn suy niệm của toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội muốn cho chúng ta có một cái nhìn rộng rãi hơn về địa vị của Đức Maria trong bầu khí mùa Vọng. Ngay từ đầu, phụng vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh của Người chan hòa khắp trong nếp sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội chỉ chờ mong với Người và bằng cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Đức Maria không phải chỉ chiếm một ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt mùa phụng vụ này, Giáo hội phải sống với Đức Maria, phải nhìn ngắm Người và trông đợi với Người.
Kể ra làm gì những bản kinh phụng vụ mùa Vọng gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Đức Maria; các bản văn ấy bây giờ đổi theo hằng năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà xem, mùa Vọng phụng vụ sẽ không còn nữa. Điều đó chứng tỏ hình ảnh Đức Mẹ thật đã được gắn liền với mùa Vọng. Chúng ta sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì sao Đức Trinh Nữ Mẹ chúng ta lại thiết yếu cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì như vậy, chúng ta mới biết được thâm ý của phụng vụ, hầu mới biết sống được cái cốt yếu.
Tinh thần mùa Vọng như chúng ta biết nhắm thẳng về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm Chúa trở lại. Tinh thần đó không thụ động, mặc cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần gian này. Trái lại, đó là tinh thần của các ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên khi thấy các bất công xã hội và thấy các liên minh chính trị bàn truyện thế giới như thể không còn có một sức mạnh vô hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết trong giai đoạn lịch sử này những người con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc đời đen tối và bước đi trong ánh sáng để càng ngày càng đi tới thời đại huy hoàng của Đức Kitô. Thế mà Giáo hội biết không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày Chúa đến viếng thăm một cách đắc lực như Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ còn là những người trỏ tay vào Maria để chờ đón ngày Người xuất hiện. Hơn nữa Giáo hội còn biết rõ Đức Maria không phải chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị trong quá khứ, Người đang còn chờ đợi và chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ thần học nông cạn mới không biết đến điều đó; mới nghĩ rằng Đức Kitô đã chấm dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi trên Núi Sọ và mới quyết rằng Đức Mẹ đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu chuộc đến có khi ấy. Ngược lại, những thứ thần học chân chính đều thấy việc Đức Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt động hữu hiệu hơn ở ngoài những ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài phải từ bỏ xác thịt yếu đuối để hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn đổ xuống trên Giáo hội; vì Thánh Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những thứ thần học sâu xa đó cũng nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Đức Maria không những chưa chấm dứt vai trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược lại, chính khi đó, Người mới bắt đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội. Chính vì vậy mà tác giả sách Công vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ thuở sơ khai đã cầu nguyện và sinh hoạt với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu.
Chúng ta muốn nhìn thấy các hoạt động cụ thể của Đức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết như thế về hoạt động của Đức Kitô hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội tại với đời sống hiện nay của thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể chúng ta đang sống. Theo tục ngữ Việt Nam có thể bảo: người ta hiện nay sống thì khôn, còn các Ngài hiện nay đã thác thì thiêng. Khôn thì ở một bình diện, còn thiêng lại ở bình diện cao hơn và cao hẳn. Không phải những trí óc khôn ngoan đang dẫn đưa lịch sử của thế giới này, nhưng chính là những bậc thiêng liêng huyền bí. Không phải chúng ta đang xếp đặt thời gian sẽ đến nhưng chính Đức Kitô, chính vị đồng công cứu chuộc với Ngài đang âm thầm nhưng mạnh mẽ hành động qua chúng ta và muốn chúng ta cộng tác vào, vì cũng như ngày trước, đất có sẵn thì mây trời mới mưa Đấng công chính xuống.
Muốn biết chúng ta phải cộng tác chuẩn bị bằng cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo chúng ta nhìn vào Đức Mẹ. Thánh Yoan trong sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội sau này trở thành người hôn thê kiều diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà dung nhan Đức Mẹ thể hiện ở trước mặt chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên Chúa đã để lại những nét luôn luôn hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, mà Ngài muốn cho Giáo hội có trên nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch không bao giờ dừng lại trên những gì dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những lời êm ái; một dáng điệu tùng phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự lanh lẹ không quản gian lao để đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm đồng trinh, mầu nhiệm vâng theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ chính đáng của Giuse, mầu nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp tận tụy và âm thầm làm tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những nét đã được ghi sâu trong cuộc đời, nên dung nhan của Đức Mẹ và mùa Vọng phụng vụ ước mong chúng ta chiêm ngưỡng và bắt chước.
Chúng ta cũng chỉ là những con người đang có một nếp sống âm thầm với những phận sự nhỏ nhặt, nhưng tất cả những sự âm thầm nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần Linh hiện nay đang muốn dùng để xây dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô tái giáng. Thật là tuyệt diệu nếu chúng ta cũng biết sống và làm những công việc ấy như Trinh nữ Maria, với cái nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với các lời lẽ từ tốn, với lòng nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của Người đang cho chúng ta thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của Người và khuôn mặt của Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Đức Mẹ mùa Vọng.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam