Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1375205

KHO TÀNG TRONG LÒNG ĐẤT

Kho tàng trong lòng đất - Lm Bùi Quang Tuấn

Người Do thái thời Chúa Giêsu hẳn không xa lạ gì với khái niệm một kho tàng chôn trong lòng đất. Lịch sử nước Palestine từng ghi nhận nhiều bước xăm lăng của các đế quốc Babylon, Assyria, Ba tư, Hy lạp, Rôma và nhiều sắc tộc khác. Không những thế, nội chiến cũng thường xuyên xảy ra. Trên dải đất từng bị mất đi chiếm lại nhiều lần như thế, chuyện chôn giấu tài sản, khi không thể đem theo trên đường di tản, là việc đương nhiên đối với dân thời loạn.

Thế nhưng làm sao tránh khỏi trường hợp chủ nhân không may mất mạng trên đường tản cư, hay có người không thể nhớ ra chỗ mình chôn giấu, hoặc vùng đất bị giặc chiếm đóng lâu năm lâu tháng không thể trở về. Điều này khiến cho không ít người tình cờ đào được những kho tàng quí báu ngay trên mảnh đất nhà mình. Và theo luật thời ấy, ai làm chủ vùng đất nào sẽ được quyền thủ đắc mọi thứ nằm trong vùng đất đó.

Đức Giêsu đã dùng chính khái niệm thông thường này để nói với người ta về Nước Trời. Ngài kể: “Có người kia may mắn đào trúng một kho tàng trên một hửa đất nọ; anh ta vội chôn dấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả thứ gì mình có để mua cho bằng được miếng đất ấy.”

Có lẽ anh này là một tay thợ làm công, đang cày thuê cuốc mướn để kiếm miếng ăn. Cũng có thể anh đang lang thang đào cua bắt rắn để sinh sống qua ngày. Như vậy, anh ta không phải là người giàu có gì.

Kho tàng anh gặp thấy phải là lớnlắm, khó lòng di chuyển mà không bị phát giác, chẳng vậy anh đã âm thầm mang về nhà chứ hơi đâu lấp đất che kín. Giá trị của tất cả những gì anh có cũng quá bé nhỏ so với kho tàng anh bắt gặp, nếu không anh đã chẳng dại gì bán hết mọi thứ để mua cho bằng được.

Phải chăng Chúa Giêsu muốn nhắn bảo với nhân loại rằng: không gì sánh được với giá trị của Nước Trời. Nó đáng vạn lần lớn hơn những gì người ta có. Nếu phải đánh đổi tất cả để chiếm Nước Trời cũng không đáng cho người ta phân vân hay lo buồn. Vì đó là một nguồn lợi vô cùng lớn, nguồn lợi làm nên nỗi vui mừng hân hoan khiến “anh vui mừng đi bán tất cả những gì mình có để mua thửa ruộng đó” (Mt 13,44).

Một thửa ruộng có kho báu, và kho báu ấy được chôn sâu trong đất. Như thế, không phải chỉ có đi qua bước lại mà thấy được kho báu. Đúng hơn, nhờ vất vả lao nhọc mưu sinh mà rồi người ta tình cờ khám phá. Đây cũng là một thách đố cho ai đang khao khát Nước Tròi. Bởi vì không phải dễ dàng mà thấy được dưới lớp đất sinh lầy hay nức nẻ kia có một kho tàng vô giá. Lắm khi người ta phải tận lực đào bới, bền chí thi hành bổn phận hàng ngày mới có thể gặp được Nước Trời.

Nhưng Nước Trời là gì?

Nước Trời kông chỉ khác hơn chính là Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Thế nên “tìm kiếm Nước Trời", “gặp thấy” Nước Trời, và “mua được” Nước Trời, cũng chính là việc “chiếm hữu” được Đức Giêsu.

Nếu nói kho báu là Chúa Giêsu thì thửa ruộng chứa kho báu ấy sẽ là Giáo Hội. Nơi đó, khi chịu khó lao công, bạn sẽ khám phá kho tàng. Nhưng trước hết, cần phải mua thửa ruộng ấy, tức là phải sở hữu Giáo hội bằng niềm tin và trung thành lao công trên mảnh đất Giáo hội, lúc ấy bạn mới có thể chiếm hữu trọn vẹn kho tàng Giêsu.

Thiên Chúa là Đấng quảng đại. Ngài biết “thửa ruộng” có “kho báu", nhưng Ngài vẫn sẵn lòng “bán” cho ai khát khao. Trong cuộc mua bán này, giá cả chênh lệch vô cùng, nhưng phần lời bao giờ cũng nghiêng về người mua.

Chuyện kể một phú ông kia chẳng may bị chết vợ trong ngày bà sinh hạ đứa con đầu lòng. Ông buồn phiền quá sức nhưng cũng phải kiếm vội người vú nuôi để chăm nom đứa bé và coi sóc cửa nhà.

Rủi thay, đứa bé kia cũng thiệt mạng trong một tai nạn giao thông khi chưa tới tuổi trưởng thành. Người giàu có cũng chết sau đó vài năm vì một cơn đau tim bất ngờ.

Vì không có ai là họ hàng thân thích và bởi không tìm thấy một tờ di chúc nào nên người ta chẳng biết gia tài khổng lồ sẽ đi về đâu. Cuối cùng, toàn bộ gia sản được giao cho chính quyền giải quyết.

Theo lệ thường, người ta cho trưng bày và đấu giá trứơc một số vật dụng. Sau đó vài tháng sẽ cho đấu giá toàn bộ.

Ngày đấu giá sơ khởi diễn ra. Các con buôn tụ tập rất đông. Người vú nuôi ngày xưa cũng đến tham dự, không phải để được mua sắm với giá lời, nhưng vì lòng thương nhớ gia đình chủ xưa khiến bà tìm đến để nhìn lại lần cuối các vật chứa đầy kỷ niệm.

Trong số các thứ được đem ra đấu giá, người vú nuôi chợt thấy tấm hình con ông chủ được lồng trong một khung kính đơn sơ. Bà chợt thương nhớ da diết cậu bé ngày xưa! Nước mắt bà rơi xuống. Thế rồi khi thấy chẳng ai thèm chú ý đến tấm hình, người vú nuôi liền giơ tay mua nó với giá sơ khởi là một đồng.

Bà mang tấm hình về, tháo khung ra, dự tính đặt ba tấm hình vợ chồng và đứa con của gia đình chủ xưa vào chung một chiếc khung. Nhưng lúc vừa gỡ mặt sau tấm hình cậu bé, bà thấy có mấy tờ giấy rơi ra. Xem có vẻ quan trọng, bà bèn mang chúng đến một luật sự nhờ xem giúp.

Vị luật sư sau khi quan sát kỹ các giấy tờ đã tươi cười nói với bà: “Xin chúc mừng bà! Người chủ của bà đã viết rằng: ông ta muốn giao lại toàn bộ tài sản cho người nào yêu mến đứa con của ông đến nỗi chịu mua bức hình đó, và như thế, bà được quyền thừa hưởng di chúc này.”

Thật hạnh phúc muôn lần hơn cho những ai yêu mến Đức Giêsu, Con Thiên Chúa!

Yêu mến Đức Giêsu cũng có nghĩa là yêu mến Thánh Thể, yêu mến Thánh Kinh, và yêu mến Thánh Mẫu. Điều thứ ba này nghe có vẻ hơi lạ. Thế nhưng đâu có gì thái quá khi nói: trong “thửa ruộng Maria” có “kho tàng Giêsu” - trong cung lòng Đức Mẹ có Con Thiên Chúa. Muốn có kho tàng lại phải đi mua miếng đất, Chúa dạy vậy mà.

Chắc chắn khi có lòng mến yêu như thế, bạn và tôi sẽ được Chúa Cha tặng ban cho cả thiên đàng.


 

50. Kho tàng đích thực

Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp (Mt 13,45)

Suy niệm:

Thương thì cho: thương ít cho ít, thương nhiều cho nhiều. Nếu muốn biết người nào đó thương mình thật không thì hãy xem người đó có cho mình cái gì không.

Nhưng nói như trên cũng chưa đúng lắm, vì còn tuỳ của cho là tốt hay xấu, có ích hay có hại đối với người nhận nữa. Người ta nuôi chim bồ nông, hằng ngày cho chúng ngửi thuốc phiện. Rồi người ta tròng vào cổ chúng một cái vòng, xong thả chúng đi kiếm cá trên mặt biển.

Vì có cái vòng trên cổ nên những chú bồ nông này chỉ nuốt được những con cá nhỏ. Còn cá lớn thì chúng cứ ngậm trong miệng. Tới lúc cơn ghiền thuốc phiện hành, chúng bó buộc phải trở về tàu; nhả cá lớn ra. Những người nuôi chim này cũng cho, nhưng không phải vì thương các chú chim bồ nông kia đâu. Thương thật thì phải cho những thứ tốt, những thứ có ích cho người nhận.

Thiên Chúa yêu thương loài người, và thương thật tình. Chính vì thương nên có nhiều điều tuy chúng ta cứ nằng nặc xin Ngài nhưng Ngài biết có hại cho chúng ta nên Ngài không cho. Ngài cho chúng ta những điều mà Ngài biết là tốt nhất có ích cho chúng ta nhất. Đó là những điều mà các bài đọc hôm nay kể cho ta biết: sự khôn ngoan, luật Chúa, ơn làm con Chúa và nhất là Nước Trời.

Trong 7 ơn của Chúa Thánh Thần, đứng đầu là ơn Khôn ngoan.

Người khôn ngoan là người có khả năng nhận biết đúng-sai, chính-phụ,quan trọng-thứ yếu, bền vững-chóng qua. Sách Thánh còn chỉ cho chúng ta biết: "Kính sợ Chúa là đầu mối sự khôn ngoan". Chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta có khôn ngoan hay không:

Nhiều người ham tiền. Đối với họ, tiền là trên hết, hay nói cách khác, không có gì trọng bằng tiền. Nhưng thử hỏi tiền có bền vững mãi mãi không? Dĩ nhiên là không. Rất nhiều bằng chứng về điều này... Vậy, người suốt đời lo kiếm tiền và chạy theo tiền là người dại.

Nhiều người hám danh. Họ ham được khen, họ thích địa vị. Họ bỏ tiền ra để mua danh. Nhưng thử hỏi danh có bền vững mãi không? Cũng không. Và cũng có rất nhiều bằng chứng... Cho nên hám danh cũng là dại.

Nhiều người mê tình: tình yêu trai gái, tình bạn, tình dục v.v. Cũng thế thôi.

Bỏ ít để được nhiều là khôn. Bỏ cái tầm thường để được cái quý giá là khôn. Hai người trong bài Tin Mừng hôm nay rất khôn ngoan: người thứ nhất khám phá một kho tàng dấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc quý, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc quý đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc quý mà không làm như hai người ấy! Đương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn quý giá hơn nhiều.

Qua bài Tin Mừng này, Đức Giêsu không dạy chúng ta cách kiếm thêm nhiều tiền bạc của cải, mà dạy chúng ta kiếm một thứ còn quý hơn tiền bạc của cải vô cùng, đó là Nước Trời: Tiền bạc của cải mang lại sung sướng về vật chất, Nước Trời mang hạnh phúc cả vật chất lẫn tinh thần, cả tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tiền bạc của cải giúp ta sung sướng đời này, Nước Trời làm ta hạnh phúc mãi mãi.

Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để được một viên ngọc quý. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để được Nước Trời?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, kho báu mà Ngài dành cho mỗi người chúng con được chôn dấu không phải ở đâu xa, mà ngay trong con tim trong lòng mỗi người chúng con. Đặc biệt Ngài cũng tặng cho chúng con một kho tàng vô giá là phẩm vị làm con của Ngài. Xin cho chúng con đủ khôn ngoan để chọn lựa những điều cao quý Chúa dành tặng chúng con. Để chúng con biết xây dựng Nước Trời nơi mỗi tâm hồn. Và để ơn Chúa được lớn mãi, là niềm vui trọn vẹn cho chúng con.

Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con kho tàng ân sủng của Ngài, chúng con cần phải chiến đấu chống lại những cám dỗ, tội lỗi, chống lại tinh thần trần tục và của cải thế gian, chống lại những khoái thú xác thịt, thì lúc đó chúng con mới hy vọng trung thành được với ơn Chúa. Và lạy Chúa, con vẫn biết để sống trung thành với kho tàng đức tin, với kho tàng ân sủng mà Chúa ban cho chúng con trong một thế giới có nhiều cám dỗ, chúng con cần phải cố gắng hy sinh thật nhiều. Xin Chúa tiếp sức và ban ơn kiên nhẫn để chúng con đủ sức chiến đấu với những thế lực xấu. Đồng thời biết gìn giữ kho báu Chúa ban để kho tàng đức tin và ân sủng được phát triển cho tới mức thành toàn viên mãn nơi Chúa Giêsu Kitô. Amen.


 

51. Giá trị vô song – Lm. PX. Vũ Phan Long

Tất cả các dụ ngôn đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất.

1.- Ngữ cảnh

Diễn từ của Đức Giêsu bằng các dụ ngôn liên hệ đến các khó khăn và những ngờ vực xuất phát từ tình trạng tương phản giữa hoàn cảnh hiện tại và các nỗi chờ mong nhắm đến Nước Trời và Đấng Mêsia. Nếu khi Đức Giêsu xuất hiện, quyền chúa tể của Thiên Chúa cũng bắt đầu được khẳng định, thì tại sao sứ điệp của Người không được mọi người vui mừng đón nhận? Tại sao Thiên Chúa không buộc người ta phải nhìn nhận Ngài bằng một loạt những chiến thắng lẫy lừng? Tại sao Ngài không thiết lập những phân biệt rõ ràng? Trong dụ ngôn Người gieo giống, Đức Giêsu đã cho thấy rằng hạt giống tốt chỉ có thể sinh hoa kết quả trên một mảnh đất tốt, tức là tính hữu hiệu của sứ điệp cốt yếu tùy thuộc những người đón nhận sứ điệp và tùy thuộc cách sống của họ. Với các dụ ngôn Hạt cải và Men, Người cho thấy rằng một khởi đầu bé nhỏ không loại trừ một sức phát triển to lớn và một khả năng đạt hiệu quả lớn lao. Các dụ ngôn Cỏ lùng giữa lúa tốt và Lưới cá cho thấy rằng vẫn còn tình trạng người tốt kẻ xấu ở bên nhau, nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá trị cao vời của Nước Trời, niềm vui vô biên đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy và sự dấn thân phải có khi đã thuộc về Nước Trời, tất cả những điểm này đều được làm sáng tỏ xuyên qua các dụ ngôn Kho báu và Ngọc quý. Đức Giêsu muốn loại bỏ các hiểu lầm và giúp các thính giả có lối sống thanh thoát thích hợp.

2.- Bố cục

Có thể chia bản văn thành ba phần:

1) Ba Dụ ngôn

a) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44),

b) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46),

c) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48).

2) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50).

3) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52).

Hoặc cũng có thể cho rằng bản văn có năm đơn vị:

1) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44);

2) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46);

3) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48);

4) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50);

5) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52)

3.- Vài điểm chú giải

– Nước Trời giống như một kho báu (44): Không phải là Nước Trời được ví với một kho báu, nhưng là “những gì xảy ra” khi một người khám phá ra một kho báu được so sánh với “những gì xảy ra” (hoặc phải xảy ra) khi một người khám phá ra Nước Trời.

- kho báu chôn giấu trong ruộng (44): Vào thời Thượng Cổ, vì không có hoặc có rất ít nhà băng, hơn nữa Paléttina lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh do vị trí ở giữa Ai Cập và Mêsôpôtamia, người ta giữ của cải an toàn bằng cách chôn xuống đất. Do đó, thỉnh thoảng, có người khám phá ra một khối của cải chôn dưới đất, chẳng hạn một cái chum chứa những đồng tiền vàng hay các loại đá quý.

- thương gia (45): Emporos là người buôn bán sỉ, vừa xuất vừa nhập hàng. Vào thời Đức Giêsu, ngọc quý thường được nhập từ Ấn Độ.

- chiếc lưới (47): Sagênê, “chiếc lưới”, có kích thước dài khoảng 250 đến 450m và rộng khoảng 2m; mỗi đầu có thắt một sợi dây.

- thả xuống biển (47): Blêtheisê, động từ ballô ở dạng participe aoriste passif để nói quanh thay tên Thiên Chúa. Động từ với dạng ấy có nghĩa là chiếc lưới đã được thả xuống biển rồi, và do chính Thiên Chúa thả.

– Anh em có hiểu (51): Trong dụ ngôn Người gieo giống, chúng ta đã thấy tầm quan trọng tác giả gán cho động từ “hiểu”. Ở đây, Đức Giêsu hỏi về tất cả những gì Người đã nói bằng dụ ngôn cho đám đông. Câu trả lời thật gọn: “Thưa hiểu (Nai)”. Ngữ cảnh cho thấy là những người trả lời là những môn đệ đã hỏi Đức Giêsu trước đây (x. c. 36). Nhưng khi không nêu ra chủ từ minh nhiên, tác giả Mt muốn ám chỉ bất cứ độc giả nào, bất cứ Kitô hữu nào. Chính câu trả lời này đưa người ta đi từ tình trạng “đám đông” sang tình trạng “môn đệ”.

- kinh sư (52): Cộng đoàn Mt đã có những định chế (“Nhóm Mười Hai”: 10,1; Phêrô: 16,18-19). Dựa theo bản văn ở đây, rất có thể trong lòng cộng đoàn cũng có các “thầy dạy” được gọi là “kinh sư” vì cộng đoàn vẫn tôn trọng cái gốc Do Thái của mình.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Các câu dẫn nhập 31, 33, 44 và 45 của các dụ ngôn Hạt cải, Men, Kho báu và Ngọc quý và cấu trúc các dụ ngôn rất giống nhau.

* Dụ ngôn 1 và 2: Kho báu chôn giấu và Dụ ngôn Ngọc quý (44-46)

Những gì Đức Giêsu kể về việc khám phá ra kho báu và ngọc quý thật đơn giản và rõ ràng. Rất có thể

đây là một người thợ đi cày trong ruộng của người khác và đã khám phá ra một kho tàng gồm các đồng tiền và vật trang sức được chôn trong ruộng. Dĩ nhiên là ông rất vui mừng, vì ông không bao giờ dám mơ tới khối của cải này. Cũng lưu ý là ông tìm ra kho báu không phải như một phần thưởng cho công lao khó nhọc hay do bác ái. Quan trọng là việc ông sẽ làm bây giờ.

Ông sẵn sàng hy sinh tất cả mọi nguyện vọng và dự phóng cũng như mọi lo toan để thủ đắc cho được thửa ruộng. Cách xử sự của nhân vật này không lương thiện về mặt luân lý, nhưng điều này không làm tác giả bài dụ ngôn phải bận tâm. Đức Giêsu kể lại một hoạt cảnh của đời thường, như sau này Người kể truyện người quản lý bất lương, những người làm vườn nho sát nhân: Người không nhắm tới tính luân lý. Điều này ta thấy rõ nơi truyện người đi săn ngọc quý: không hề có bận tâm gì đến tính luân lý. Trong cả hai trường hợp (khám phá kho báu và tìm được viên ngọc quý), vấn đề được đề cập là khám phá ra và nhận biết ý nghĩa của một thứ có giá trị lớn lao và tuyệt mỹ, và đây là chuyện một người hết sức vui sướng hy sinh tất cả những lợi lộc và vận dụng mọi phương tiện mà thủ đắc một điều gì; “ông bán tất cả những gì mình có” (cc. 44.46). Điểm nhắm của tác giả các dụ ngôn là điểm ấy. Đấy chính là Nước Trời; Nước Trời cao trọng hơn bất cứ tài sản nào.

Trong sứ điệp về Nước Trời, Đức Giêsu loan báo rằng Thiên Chúa Cha đứng về phía chúng ta. Với quyền năng trổi vượt của Ngài, Chúa Cha là Chúa tể độc nhất, Ngài nắm mọi sự trong tay. Mặc dù thế giới đang có những vô trật tự, những sự dữ và những tai họa, Ngài vẫn tốt lành với tất cả chúng ta và muốn ban cho chúng ta được thành công trọn vẹn và hạnh phúc viên mãn trong sự hiệp thông với Ngài. Thực tại này trước tiên phải được khám phá ra và hiểu đúng. Thực tại này chính là một kho báu được chôn giấu; tự nó, nó không buộc ai nhận biết nó cả. Có nhiều thứ khác lôi cuốn hơn nhiều, dường như quan trọng và hứa hẹn hơn nhiều. Chúng ta phải mở lòng mình ra và để mình bị chinh phục bởi sự kiện Thiên Chúa, tình yêu của Ngài đối với chúng ta và sự hiệp thông của chúng ta với Ngài có một giá trị vô song và không bao giờ bị vượt quá. Với sự hiểu biết này, niềm vui gia tăng và đồng thời cũng gia tăng ước muốn được đi vào làm chủ một giá trị như thế.

Kho báu ấy không phải là phần thưởng cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể thủ đắc nó bằng cách vận dụng tất cả sức lực chúng ta. Không phải để tự nhiên mà có sự kiện chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Có biết bao ước muốn, mục tiêu, giá trị, nhiệm vụ trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta phải đặt chúng đàng sau để thuộc về Thiên Chúa. Trên tất cả mọi sự, cần phải có sự quy hướng về Thiên Chúa, liên kết với Ngài và chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Tất cả các giá trị khác, như gia đình, nghề nghiệp, địa vị xã hội, của cải, tiện nghi, sức khỏe, lợi lộc, những thú vui… không phải là những giá trị và tiêu chuẩn tối hậu, nhưng phải được đưa vào trong dây liên kết với Thiên Chúa và được cứu xét trước nhan Ngài và theo ý muốn của Ngài. Tất cả tùy thuộc việc thuộc về Thiên Chúa, mà chúng ta chỉ thuộc về Thiên Chúa nhờ luôn ý thức sống trước nhan Ngài. Càng hiểu giá trị của việc thuộc về Thiên Chúa, ta càng sống vui, cho dù có những mệt nhọc, bề bộn với công việc và phải từ bỏ nhiều điều.

* Dụ ngôn 3: Chiếc lưới và Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (47-50)

Dụ ngôn Chiếc lưới song song với dụ ngôn Lúa tốt vả Cỏ lùng (cc. 24-30.36-43), và nêu lên cũng những vấn đề như nhau. Trong dụ ngôn trước, “cánh đồng” tượng trưng Nước Trời; trong dụ ngôn sau là “chiếc lưới”.

Tại hồ Ghennêxarét, có hơn hai mươi loại cá. Bao lâu cá còn ở trong hồ hoặc ở trong lưới, chúng bơi loạn xạ, lớn nhỏ lẫn lộn, có thứ cá ăn được, có thứ không. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng luôn luôn như thế. Khi lưới được kéo lên bờ, các người dân chài ngồi lựa: cá tốt thì được gom lại, cá xấu thì bị quăng đi. Tư thế “ngồi” của các dân chài có thể khiến nhớ tới tư thế “ngồi” Con Người thẩm phán thế gian (19,28; 25,31; 26,64). Các tính từ “tốt” (kalos) và “xấu” (sapros, “vô ích”) khiến ta nhớ tới hình ảnh các cây với trái của chúng (x. 7,16-20; 12,33), hiểu là các việc làm hoặc lời nói. Bằng dụ ngôn này, Đức Giêsu lại hướng mắt nhìn về cuộc phán xét cuối cùng và về số phận hoàn toàn khác nhau của người tốt và người xấu. Ở đây, trên mặt đất này, dường như chúng ta có quan tâm đến Thiên Chúa hay không, cũng không quan trọng gì; giữa người tốt và người xấu, không hề có sự phân biệt nào. Dường như tốt xấu cũng như nhau. Cộng đoàn Kitô hữu, tượng trưng Nước Trời, là một cộng đoàn đa tạp. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta: Anh em đừng để mình bị lừa! Anh em đừng tưởng rằng mọi sự sẽ cứ như thế mãi! Anh em hãy biết chắc rằng sẽ có một cuộc phân biệt rõ ràng, nên hãy sống hôm nay thế nào để khi đến cuối, anh em được Thiên Chúa đón nhận!

Thật ra, việc Người giảng dạy đã là một tiên báo về phán xét: Người đang ở tại “hồ” (13,1-2), có một đám đông “đã tụ họp lại” (“gom cá”) trên bờ, trong khi Đức Giêsu “ngồi” trên thuyền và nói bằng dụ ngôn. Lời nói của Người đã gây ra sự phân biệt giữa dân chúng và các môn đệ. Cuộc phân biệt này báo trước cuộc phán xét sau này. Những gì Đức Giêsu đã gây ra lúc này sẽ được lặp lại vào ngày phán xét.

Kết luận dụ ngôn Chiếc lưới, tác giả TM I nêu lên một chi tiết tương tự trong dụ ngôn Cỏ lùng: “các thiên sứ sẽ … quăng kẻ xấu vào lò lửa” (x. 13,31). Các Kitô hữu đang đau khổ vì sự hiện diện của những kẻ xấu, tác giả an ủi họ bằng cách cho biết rằng cuộc phán xét cánh chung đã gần kề; cuộc phán xét này sẽ tái lập thế quân bình cho cuộc sống của họ.

* Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (51-52)

Dụ ngôn Vị kinh sư này là một câu trả lời cho câu hỏi và lời xin của các môn đệ (cc. 10.36). Họ là những người đã hiểu sứ điệp hàm chứa trong bài giảng của Đức Giêsu. “Hiểu” không chỉ có nghĩa là “nắm được ý nghĩa” mà còn là “chấp nhận”, “làm cho nên hiện thực trong đời sống mình”. Nếu đúng như thế, các môn đệ đã trở thành những người thực sự bước theo Đức Giêsu, họ đã là “con cái Nước Trời” (c. 38). Do đó, họ cũng là những kinh sư mới, những thầy dạy mới trong Nước Trời. Kinh sư Kitô hữu đề nghị cả các chân lý cũ (palaia) lẫn các chân lý mới (kaina) trong giáo huấn của mình. Cũng rất có thể đây là cách tác giả tự giới thiệu về mình.

+ Kết luận

Tất cả các dụ ngôn đều nói với chúng ta về Nước Trời. Chúng đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất: nơi Đức Giêsu, Nước Trời vĩnh viễn đến gần con người. Các bài dụ ngôn cũng cho thấy rằng việc từ bỏ theo Tin Mừng không phải là phương tiện để đạt tới Nước Trời, nhưng là hậu quả của việc khám phá ra Nước Trời.

Sự lộn xộn và rối loạn thật đáng kể. Có biết bao giá trị và mục tiêu xuất hiện ra như là quan trọng và hứa hẹn cho ta được hạnh phúc. Đức Giêsu đánh tan mây mù và làm sáng tỏ. Người cho thấy điều gì là quan trọng, chúng ta phải vận dụng sức lực quá giới hạn của mình vào chuyện gì. Điều quan trọng là luôn luôn sống với tinh thần trách nhiệm và đặt quan hệ với Thiên Chúa tại trung tâm đời ta. Như thế, chúng ta có thể nhìn về kết cuộc không hề nao núng.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Vấn đề không phải chỉ là dời các giá trị khác ra phía sau để nhường bước cho giá trị lớn là Nước Trời, nhưng là coi mọi sự khác không còn giá trị nữa trước giá trị duy nhất là Nước Trời. Người ta chỉ thật sự là Kitô hữu nếu hiểu rằng Nước Trời là “tất cả” trong cuộc đời, cần thiết hơn cả cơm bánh mỗi ngày. Suy biết như thế là “hoán cải”, thay đổi lòng trí. Nhưng chỉ dừng lại mà chiêm ngắm sự cao cả của Nước Trời thì không đủ, còn cần phải quyết định, phải chọn lựa, phải nỗ lực suốt đời để chiếm lấy giá trị này. Truyện người thanh niên giàu có minh họa rất rõ điểm này (Mt 19,21.27.29).

2. Nước Trời là một điều thiện hảo được đặt vừa tầm tay mọi người, nhưng không phải là mọi người đều “tìm thấy” Nước Trời bởi vì không phải là mọi người đều đi tìm kiếm Nước Trời. Tìm kiếm là điều kiện thiết yếu để có thể gặp được Nước Trời (x. Mt 10,39; 12,29; 17,14; 18,13). Điều này đúng ngay cho cả bình diện trí thức: khi nghiên cứu, nếu chúng ta không có ý tìm điều gì, thì chúng ta sẽ không thấy các trang sách nói gì cả; chỉ khi nào cố ý tìm một điểm gì đó, chúng ta mới thấy sách có vô vàn gợi ý về điểm đó. Dù vậy, Nước Trời không phải là kết quả đương nhiên của cuộc tìm kiếm, Nước Trời vẫn là một ân ban.

3. Niềm vui là tiêu chuẩn cho thấy người ta đang kinh nghiệm về các giá trị cách sâu sắc. Tôi có thể tự hỏi về niềm vui tôi đã cảm nhận khi nghe được sứ điệp về Nước Trời: tôi có vui mừng không? Các giá trị Nước Trời đã đi vào đời tôi, tôi có cảm thấy vui không? Ai có Thiên Chúa thì có tất cả; Thiên Chúa đủ cho tôi rồi. Tôi có xác tín về điều này chăng? Do đang còn mang não trạng “thế gian”, do đang lo lắng sợ mất điều gì đó hoặc thiếu điều gì đó, do cứ muốn nắm được mọi sự trong tay, do muốn lên chương trình sống hoàn toàn theo ý mình, chúng ta có thể đang còn vấp phải dữ kiện căn bản này: một mình Thiên Chúa có thể lấp đầy một con tim hiến dâng trọn vẹn cho Ngài.

4. Cuộc sống con người ở trần gian còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng. Một ngày nào đó, khi đến ngày phán xét, mọi sự sẽ trở nên sáng tỏ. Rất có thể hôm nay cuộc sống thật của người ta còn đang được che giấu dưới một cái mặt nạ đạo đức, nhưng đến ngày đó, “mặt thật” của con người sẽ lộ rõ: người ta chỉ hoàn toàn là “xấu” nếu tận đáy lòng, người ta chỉ tìm kiếm chính mình, thay vì tìm kiếm một mình Thiên Chúa.


 

52. Suy niệm của Noel Quession

Đức Giêsu nói với đám đông các "dụ ngôn" sau đây.

Đức Giêsu như mọi người kể chuyện ở phương Đông, không giảng dạy một cách trừu tượng, người đưa ra những hình ảnh đẹp những từ ngữ chứa đựng những biểu tượng phổ quát mà mọi người có thể hiểu gợi ra nhiều ý nghĩa hơn định nghĩa của các từ ngữ và do đó thường có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Cũng như trong văn nói, những sự lặp lại, những điệp khúc cho phép khắc ghi một bài học vào trong trí nhớ.

Những dụ ngôn của Đức Giêsu, dù được đọc chỉ một lần, không thể nào quên được. Người ta cũng nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như những kinh sư của thời đại Người thực tế là đã dạy cho các thính giả của Người thuộc lòng những bản văn ngắn. Nhưng như thế thì rất dễ. Vậy chính các bạn hãy thử lại xem-! Các bạn hãy đọc một dụ ngôn và sau đó đọc lại bằng trí nhớ của mình.

Nước trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.

Một "kho báu”! Mỗi người có thể hiểu điều đó theo cách hiểu của mình. Trên khắp trái đất, trong mọi nền văn minh, con người đều có những đồ vật mà họ coi như những "kho báu': một vật gì đó đáng được ao ước làm người ta thèm muốn, ở Palestin, vào thời của Đức Giêsu, không có nhiều ngân hàng để gởi những món tiết kiệm mà một gia đình dành dụm cho được an toàn. Vậy, người ta chôn món tiền ấy trong một góc của cánh đồng. Và có khi chủ sở hữu chết di mà không thể tiết lộ nơi giấu kho báu cho ai. Khi làm ruộng, một nông dân sau này có thể tình cờ khám phá ra.

Người nào đã khám phá ra... liền chôn giấu lại!

Thái độ này kỳ lạ... kích thích sự tò mò. Người ấy sắp làm gì?

Rồi vui mừng, đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.

Rõ ràng đây là cao điểm của bài dụ ngôn mà Đức Giêsu muốn gợi ý cho chúng ta. Các bạn có đồng ý với cách làm đó không? Nếu các bạn gặp được một sự may mắn như thế, một cơ hội tương tự, bạn có làm giống vậy không. Phải, trong đời sống của chúng ta, chúng ta có thể thực hiện những hy sinh to lớn vì một điều mà chúng ta ấp ủ ở trong lòng: các sinh viên làm việc không nghỉ ngơi khi kỳ thi và một kỳ thi tuyển mà họ mơ ước một cách mãnh liệt sắp đến... các vận động viên kiêng cữ đủ thứ để tiến hơn trong bộ môn thi đấu và phá kỷ lục... cha mẹ trong gia đinh hy sinh cho con cái họ... các chính khách trong lãnh vực chính trị và công đoàn bỏ qua các thú vui và sự thư giãn vì chính nghĩa mà họ đang chiến đấu... Đối với Đức Giêsu, Nước Thiên Chúa là một thực tại rất cao quý đến nỗi đáng để hy sinh tất cả, để khám phá, và để sống. Ở đây chúng ta ghi nhận rằng Đức Giêsu nói về "niềm vui chúng ta đoán được niềm vui ngây ngất của Người thấy một kho báu”. Trong sự vui mừng, người ấy bán tất cả những gì mình có..." Đối với Đức Giêsu, sự hy sinh không phải là một việc đau buồn:

Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.

Rõ ràng ở đây có cùng một bài học, với cùng một điệp khúc. Nhưng thêm một khía cạnh quan trọng. Người làm thuê tình cờ khám phá được kho báu... còn người bán kim hoàn "tìm kiếm" như một người sưu tập tìm một món đồ quý hiếm. Chúng ta cũng thế, chúng ta đều đi tìm hạnh phúc. Nhưng, than ôi; nhiều người trong chúng ta đã lầm lẫn khi tìm những hạnh phúc không giá trị gì, những viên ngọc giả cũng sáng như những viên ngọc thật, nhưng không giá trị như những viên ngọc thật... và chỉ đánh lừa người dốt nát… Đức Giêsu, Người biết hạnh phúc thật của chúng ta là gì. Người đề nghị chúng ta phải trả giá và phải làm tất cả để có được hạnh phúc ấy. Không có niềm vui chân thật và lâu dài bên ngoài sự hiệp nhất với Thiên Chúa… điều mà Người: gọi là Nước Trời!

Để sống hạnh phúc vô giá, tuyệt vời ấy, hãy mua cho được viên ngọc đó... phải làm gì đây?

Ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.

Chúng ta hãy thử tưởng tượng trong thực tế cảnh tượng mà Đức Giêsu kể lại. Xung quanh con người "bán tất cả những gì mình có", hẳn người ta phải nói: “Thằng cha này điên! Vậy sao? Chính vì những người khác không biết. Khi bán tất cả tài sản của mình, người ấy biết rằng mình không mất gì cả... bởi vì người ấy biết giá trị của viên ngọc! Và tôi cố tưởng tượng Đức Giêsu đang kể lại câu chuyện lôi cuốn này. Không chút lưỡng lợ. Đức Giêsu quả là con người có những quyết định cao cả, có vẻ điên rồ. Trong thực tế Người đã cho tất cả, đã đặt vào đó cái giá tối đa. Ngày hôm nay, thật là tốt đẹp khi có những con người, nam cũng như nữ nghe được tiếng gọi "hiến dâng tất cả" một cách triệt để lập tức thánh hiến cả cuộc đời mình cho Nước Trời qua đời sống linh mục và tu trì.

Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài.

Đức Giêsu có lẽ đang nói về các thủy thủ ở bờ hồ Tibêria. Người nói về Thiên Chúa xuyên qua ngôn ngữ và những hoàn cảnh người ta đang sống. Đó là một biểu mẫu tốt nhất cho những cách dạy giáo lý về mầu nhiệm của Thiên Chúa, nếu chúng ta cũng quan tâm một cách cụ thể đến cuộc sống hàng ngày của anh em.

Nước Trời! Matthêu sử dụng công thức này để tránh nói ra từ ngữ về Thiên Chúa đối với dân Do Thái. Cách diễn tả này cũng có ý nghĩa như "Nước" của những con người hoàn hảo về mọi phương diện, là một sự quy tụ đủ mọi hạng người... tốt và ít tốt hơn! Chúng ta đã thấy tư tưởng này có trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa mì: Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi những kẻ tội lỗi và... cho họ có thời gian.

Trước hết, Thiên Chúa chịu đựng tôi và cho tôi một thời gian. Nhưng hãy coi chừng! Sự nhẫn nại của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi không thể được giải thích như một sự "bỏ mặc" khiến chúng ta sống thụ động, sống chờ thời và sống dửng dưng. Chúng ta hãy nghe phần tiếp theo…

Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính rồi quăng chúng vào lò lửa, ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.

Một lời cảnh báo hết sức nặng nề! Lòng nhân từ của Thiên Chúa không phải là sự đồng lõa với điều xấu. Vừa rồi, Đức Giêsu nói về niềm vui! Giờ đây Người nói về khóc lóc và nghiến răng… sáu lần công thức đe dọa này trở lại trong Matthêu (8,12; 13,12; 13,50; 22,13; 24,51; 25,50). Chúng ta thường có xu hướng quên rằng sẽ có một sự phán xét. Thái độ của chúng ta không trung lập: chúng chuẩn bị cho sự sống vĩnh cửu của chúng ta, Đức Giêsu nói. Và chúng ta phải mau lẹ hoán cải. Bởi sự nghiêm khắc này, Đức Giêsu muốn thức tỉnh chúng ta.

Không có gì là sự thích thú đày đọa trong những công thức ấy nhưng là tình yêu của một người sáng suốt muốn làm cho ta hiểu rõ cái được cái mất của đời sống. Khi bác sĩ phẫu thuật đưa con dao mổ vào vết thương mưng mủ, đó không phải vì ông dữ tợn mà vì ông muốn cứu người bệnh. Ngay cả khi dùng đến ngôn ngữ khải huyền (“khóc lóc và nghiến răng” là một phần của văn phong thời đại đó) rõ ràng là Đức Giêsu muốn tạo ra trong chúng ta một cú sốc sinh ơn cứu độ.

Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?

Thiên Chúa không áp đặt. Người tra hỏi chúng ta. Người tôn trọng tự do của chúng ta. Nhưng Người hỏi chúng ta "hiểu” không? Anh em có hiểu không? Từ "hiểu” là một từ được Matthêu lặp lại: Mt 12,7; 13,13; 13,14-15-19-23-51; 15,10-17; 16,9-11-12; 17,13; 19,11-12;21,45-46; 24,15-32-33-43. Đây là câu hỏi nền tảng.

Chẳng phải là trong lòng tôi có nhiều ngõ ngách của cuộc đời mà tôi không muốn hiểu đó sao? Chẳng phải là có những hoàn cảnh mà tôi không muốn đối chiếu với Tin Mừng đó sao? Lạy Chúa, xin thương nhắc con câu hỏi của Người: "Con có hiểu không?"

Họ đáp: "Thưa hiểu”.

Trong sự ngay thẳng, con cũng muốn nói rằng "con hiểu” những dự án của Thiên Chúa trong đời con. Nhưng con xin Chúa sức mạnh để hoàn thành chúng cho đến cùng, cho đến sự lựa chọn cao cả sau cùng, khi Chúa đưa ra ánh sáng “điều gì tốt" và "điều gì không có giá trị” trong cuộc sống.

Người bảo họ: "Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ".

Đức Giêsu không khinh thường khoa học của các "kinh sư” các học giả về Luật, cho dù nhiều người trong bọn họ thực ra đã chống lại cái mới của Tin Mừng. Chính Matthêu soạn ra Tin Mừng, ngài tự giới thiệu như một "kinh sư” một người hiểu biết sâu xa Truyền thống của Cựu ước... nhưng có khả năng rút ra từ truyền thống ấy điều mới mẻ!

Dụ ngôn nhỏ này và cũng là sau cùng làm kết luận cho một loạt các dụ ngôn mà chúng ta đọc từ ba Chúa nhật và mang đầy tính thời sự. Cuộc tranh luận của những người theo xưa và theo nay. Sự đối lập giữa những người bảo thủ và những người cấp tiến. Đối với Đức Giêsu, người "theo truyền thống" thật sự không thể chỉ là người lặp lại cứng ngắc. Để không phản bội tư tưởng của Đức Giêsu, phải hiểu biết tư tưởng ấy từ nền văn hóa và ngôn ngữ của thời đại mình và vì thế, làm sáng tỏ tư tưởng ấy và thích ứng nó với thời đại của chúng ta mà vẫn tôn trọng ý nghĩa sâu xa của nó. Đức Giêsu hầu như không mã hóa gì cả. Bởi vì 'Thiên Chúa là người cùng thời với chúng ta": Người nói với chúng ta ngày hôm nay. Truyền thống (cái cũ) là chân chính nếu nó sống động, đầy những chồi nụ (cái mới). Cái mới chân chính không hủy hoại truyền thống: đối với những vấn đề mới, nó rút ra những lời giải đáp mới phù hợp. Với sự khôn ngoan của mọi thời đại. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chú ý đến mọi "cái mới" trong Giáo Hội "cũ xưa" của Chúa. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung tín với Người.


 

53. Khôn ngoan là biết chọn Chúa làm gia nghiệp

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Chúng ta thường đọc thấy trên trác phương tiện truyền thông hay báo chí rất nhiều những tin đồn như ở nơi này, nơi kia có kho báu gồm: vàng, bạc, kim cương cũng như cổ vật. Khi nghe tin đồn như thế, không ít người đã làm mọi cách và dùng mọi chiến thuật để mong sao đạt được điều mà họ đang hy vọng. Còn đại đa số con người ngày nay thì kho báu của họ có lẽ là: tiền, tài, tình. Vì thế, cũng đã không ít người hăng say, lăn xả để chiếm đoạt cho kỳ được.

Với người kitô hữu chúng ta, kho tàng là gì? Làm thế nào để chiếm hữu?

 1. Ý nghĩa của các dụ ngôn

Dụ ngôn “kho tàng” và “viên ngọc quý” là một trong hàng loạt dụ ngôn Đức Giêsu dùng mặc khải về Nước Trời. Bên cạnh đó, dụ ngôn “chiếc lưới” cũng giúp cho chúng ta hiểu thêm về sự kiên trì của Thiên Chúa và giá trị của những người được chọn trong ngày sau hết.

Qua ba dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn ám chỉ “kho tàng” trong thửa ruộng chính là Nước Trời, còn Đức Giêsu chính là “viên ngọc quý”.

Người lái buôn đi tìm ngọc và anh thanh niên tìm kho tàng chính là những người có đức tin, khao khát chân lý và hạnh phúc thật.

Trong công cuộc tìm kiếm này, không phải chuyện dễ dàng để gặp được. Vì thế, người tìm kiếm phải có tài, có đức và phải kiên trì, trung thành.

“Kho tàng” và “ngọc quý” vẫn có đó, nhưng có khi có người tìm thấy sớm, có người thấy muộn và cũng có kẻ đến giờ phút chót không thấy được.

Thật vậy, con người khi đã có khát khao, nhất là sự khao khát đó lại được nuôi dưỡng trong sự chờ đợi, hy vọng, thì khi tìm được, người ta đã phải bán hết mọi sự mình đang có để mua, với ý thức rằng có “kho tàng” và “ngọc quý” là có tất cả.

Khi mua được rồi, họ đâu còn tiếc nuối công khó với mồ hôi và nước mắt mà họ đã đổ ra trên hành trình tìm kiếm.

 2. Sự khôn ngoan của con cái Chúa

Anh thanh niên và người lái buôn quả là người khôn ngoan. Sự khôn ngoan của họ rất giống với vua Salomon mà bài đọc I đã đề cập đến. Ông đã không xin Chúa sức khỏe, tiền tài và danh vọng, cũng như những thứ có giá trị ở đời, nhưng ông đã xin Chúa sự khôn ngoan. Lòng chân thành của ông đã được Chúa nhận lời và người đã ban cho ông gấp trăm ngàn lần. Như vậy, có sự khôn ngoan, ông có tất cả.

Đức tin là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Biết xử dụng đức tin trong đời sống qua các mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân là người khôn ngoan. Bởi vì nhờ có đức tin, chúng ta biết mình và biết Chúa. Biết mình giới hạn và biết Chúa quyền năng. Biết sự sống đời này là hữu hạn và sự sống đời sau sẽ trường tồn. Người khôn ngoan theo Kinh Thánh là người sẵn sàng để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời mình.

Tuy nhiên, con người ngày nay, mấy ai để cho Lời Chúa được lớn lên, sinh hoa kết trái như ý Chúa???

Họ là những con người lầm lạc, sự khôn ngoan của họ là sự ngu đần trước mặt Thiên Chúa. Khôn ngoan của những người này chính là “Khôn ngoan của con cái tối tăm” họ thực hiện điều họ cho là khôn ngoan trong tội lỗi, và như một hệ lụy, họ không nhìn ra đâu là sự thiện, sự ác, không biết lo cho phần rỗi đời đời, nên đến cuối đời, họ như những con cá bị loại ra ngoài, không được cho vào giỏ của ông chủ.

Thật vậy, người khôn ngoan theo ý muốn của Thiên Chúa là người biết xác định rõ: “Khôn thế gian làm quan địa ngục"; "Dại thế gian làm quan Thiên Đàng” và “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì?” (Mt 16, 26).

Người khôn ngoan theo Kinh Thánh chính là người sống hôm nay mà biết lo cho tương lai. Phải chu toàn bổn phận trần thế, nhưng không phải vì thế mà quên thực tại Nước Trời mai hậu. Sống trên trần gian nhưng không thuộc về trần gian.

 3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải khước từ những thứ được coi là thấp hèn. Không quá coi trọng vật chất. Khước từ tính kiêu ngạo, thích ăn trên ngồi trước. Phải sống chan hòa tình nghĩa với nhau.

Phải tin tưởng vào Chúa tuyệt đối, không thể tin nửa vời để rồi dẫn đến tình trạng mê tín dị đoan như tin thầy bùa, thầy ngải, thổ địa...

Hãy mau mắn thi hành Lời Chúa dạy. Trung thành với Giáo Huấn của Giáo Hội.

Sẵn sàng hy sinh tất cả, để chỉ còn “... mối lợi truyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô (9) và được kết hợp với Người”(Pl 3, 8-9).

Nước trời không thể đến với những người: “Bắt cá hai tay”; vì: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”; và hạnh phúc không thể có đối với người chỉ biết “há miệng chờ sung rụng”.

Lạy Chúa Giêsu, Xin Chúa ban Thánh Thần của Ngài xuống giúp chúng con biết nhận ra đâu là điều tốt, đâu là điều xấu để chúng con lựa chọn. Xin cho chúng con ơn can đảm và trung thành vì Nước Trời. Amen.

home Mục lục Lưu trữ