Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1373445

KHÔNG VÀ CÓ

KHÔNG VÀ CÓ

Một linh mục phó xứ quyết định mở khoá học Thánh Kinh vào mỗi buổi tối Chúa nhật. Sau thánh lễ 8 giờ sáng, ngài yêu cầu giáo dân ở lại để trình bày ý tưởng về nhóm học Thánh Kinh. Sau khi cắt nghĩa chương trình, ngài hỏi, “Quý ông bà anh chị em có nghĩ rằng chúng ta nên mở khoá học Thánh Kinh trong họ đạo vào mỗi tối Chúa nhật không?” Có tất cả 54 người giơ tay đồng ý, tán thành ý tưởng đạo đức này. Sau đó, trở về nhà xứ, ngài trình bày với cha xứ về sự hưởng ứng nhiệt liệt của giáo dân đối với dự tính của ngài. Cha xứ đã lắng nghe, rồi nhẹ nhàng nói: “Có lẽ cha nên đặt lại câu hỏi”. Sáng Chúa nhật tuần sau, cũng sau thánh lễ, ngài xin giáo dân ý kiến, và đặt lại câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ dự buổi học Thánh Kinh tối nay?” Thật tuyệt vọng, cha phó đã đếm được bốn người giơ tay.

Đối với lời mời gọi đi làm vườn nho của Thiên Chúa, hôm nay chúng ta cũng tự hỏi mình, chúng ta là người con nào? Sự phức tạp trong tâm hồn của con người còn có thể tạo ra nhiều thái độ hơn nữa. Xin nêu lên 4 thái độ điển hình:

  1. Thưa không với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã đi làm: Theo John Pilch, những người thu thuế và đĩ điếm đã có thái độ giống như người con thứ nhất. Lúc ban đầu họ đã nói không với Thiên Chúa, nhưng khi Gioan Tẩy giả rao giảng, họ đã sám hối, trở lại và hành động vui lòng Thiên Chúa.

Thánh Phaolô là một gương sáng. Khi Phaolô mới nghe biết về Chúa Kitô, về Phúc Âm và những môn đệ của Người, ông đã chống lại họ bằng mọi cách. Phaolô hoàn toàn cự tuyệt, bắt bớ và huỷ diệt Phúc Âm cùng Giáo Hội của Người. Tuy nhiên điều này hoàn toàn vô ích. Một ngày nọ, Đức Kitô đã gặp ông trên đường đi Damascus. Phaolô đã sám hối, thay đổi, và trở thành một con người mới, với trái tim và tinh thần mới. Phaolô đã sống suốt cuộc đời còn lại để thưa vâng với Thiên Chúa.

  1. Thưa vâng với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã không đi làm: Theo John Pilch, các thầy thượng tế và các bậc kỳ lão Do Thái đã có thái độ giống như người con thứ hai. Họ thích tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ đã nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan tẩy giả và nhìn thấy những người thu thuế, tội lỗi ăn năn trở lại. Họ làm bộ ưng thuận bằng những lời lẽ tôn vinh và kính trọng Thiên Chúa, nhưng đã không thể hiện điều gì trong cuộc sống.

Trong cuốn tiểu thuyết “The Fall” của Albert Camus, có một cảnh diễn tả một chàng luật sư đáng kính đang bước đi trên đường phố Amsrerdam. Anh nghe rõ một tiếng kêu la giữa đêm tối. Anh nhận ra một người đàn bà đã ngã xuống đất, đang bị đẩy xuống dòng sông, và đang kêu la xin cầu cứu. Rồi những tư tưởng chợt đến trong tâm trí: “Dĩ nhiên tôi phải ra tay giúp đỡ, nhưng… một luật sư nổi tiếng lại can dự vào vụ này? Những người liên can đến vụ này là ai?…, Và sự nguy hiểm cho tính mạng mình là gì? Sau cùng, ai biết được chuyện gì đang xảy ra ở đó. Vào lúc anh đang chần chờ suy tính thì đã quá trễ. Anh tiếp tục bước đi, và tạo ra đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự thất bại, không hành động của mình. Nhưng, Camus, trong một hàng chữ bi đát đã kết luận như sau: “Anh ta đã không đáp trả tiếng kêu xin cầu cứu. Đó là con người của anh?”

  1. Nhất quyết thưa không với Thiên Chúa:

Đây là loại người có thái độ cương quyết nói không với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến cuối đời, trong cả lời nói lẫn hành động. Họ sống cả cuộc đời từ chối và chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa.

  1. “Con Người” luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa:

Con Người luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến phút cuối, trong lời nói cũng như hành động, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người đã dâng hiến tất cả mọi vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Người là khuôn mẫu hoàn hảo của chúng ta.

Người đã được thánh Phaolô diễn tả bằng những đoạn tuyệt vời nhất trong lá thư gửi cho tín hữu Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi làm vườn nho nước trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi chúng ta một sự lựa chọn triệt để: “Để được Nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành động nữa”. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có thái độ giống Chúa Giêsu: một tiếng “thưa vâng” trong lời nói và hành động suốt cuộc đời.

 

  1. Có và không

Một em bé ba tuổi cả ngày nghịch ngợm không ngoan ngoãn nên bà mẹ phạt bé phải đi ngủ sớm. Chú bé bỏ vào phòng không một lời phản đối, nhưng chỉ ít phút sau, chú ta đi ra với một con thú nhồi bông, con heo đất và một ít quần áo… Thằng bé nói: “Con bỏ nhà đi đây”. Ba nó hỏi: “Vậy thì con làm gì khi bị đói?” “Con sẽ về nhà để ăn”. “Ồ, vậy khi hết tiền rồi con làm gì?” “Thì con về nhà xin thêm”. “Vậy quần áo bẩn hết rồi con làm sao?” “Con mang về cho mẹ giặt”. Nhiều người cũng vội nói, vội quyết định hoặc nói mà không làm theo đường lối của mình.

Dụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn rất dễ hiểu. Đó là câu chuyện hai người con làm vườn nho cho cha. Một người trong họ hứa đi, nhưng thay đổi không đi; còn người kia nói không đi, nhưng thay đổi ý định của mình nên đi làm. Chúa Giêsu hỏi: “Các con nghĩ sao? Ai là người làm theo ý người cha?” (Mt 21,28,31). Dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng có thể trả lời được là người con đã thay đổi ý định của mình nói không đi rồi đi làm vườn nho cho người cha.

Những người lãnh tụ tôn giáo là những người Chúa Giêsu đã hỏi họ và họ cũng biết họ khó mà chấp nhận những giáo lý của Chúa Giêsu, vì họ khó thay đổi cõi lòng để làm theo ý Thiên Chúa. Cho nên Chúa Giêsu đã phải thốt nên: “Thật ta bảo thật cho các ngươi biết những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi.” (Mt 21,31) Tại sao? Bởi vì những người lãnh tụ tôn giáo tự cho mình luôn luôn đúng, không sai lầm bao giờ nên họ không cần thay đổi và tin ai khác. Nói cách khác là họ sẽ không bao giờ để Chúa thay đổi họ. Còn những người thu thuế, cao bồi du đãng và gái ăn chơi, họ nhận ra những gì họ cần phải thay đổi để sống tốt hơn trong mỗi ngày sống của họ.

Đây cũng là một bài học cho mỗi người chúng ta, vì nhiều lúc chúng ta cũng trở nên những người tự mãn. Như tự cho mình là người Kitô hữu ngoan đạo, là người biết những gì Chúa mong đợi. Chúng ta cũng dễ dàng rơi vào tình trạng là Chúa không còn gì để nói với chúng ta nữa. Và rồi chúng ta nhìn thấy mình giống như những người tự cho mình là người công chính, thượng tế và luật sĩ trong bài Phúc Ân hôm nay.

Có người biết tất cả mọi câu trả lời về mọi khía cạnh về thần học. Nhớ hết đoạn nào, câu nào trong Thánh Kinh, và tất cả những bài Thánh Vịnh một cách thuộc lòng và có thể viết lại tất cả những bài nguyện kinh ban sáng, trưa và tối không khó khăn chút nào. Nhưng chưa đủ, họ mới chỉ có nói. Họ cần thi hành Thánh ý Chúa Cha, cần đi làm vườn nho của Ngài. Sự cản trở lớn nhất cho việc Nước Chúa đến là do chính những người chỉ chuyên môn chúc tụng Chúa bằng môi miệng, nhưng không thực hành qua việc làm. Nếu chỉ bằng lời nói có thể cứu được nhân loại thì trần gian này chính là thiên đàng. Rất nhiều Kitô hữu chỉ sống đạo bằng những lời hay, tiếng tốt hơn là thi hành những điều mình nói, hoặc chỉ muốn bàn luận thật hay, nhưng không thấy hành động.

Lời Chúa chỉ có thể ăn sâu trong tâm hồn chúng ta, không phải qua những lời chúng ta nói, nhưng qua những cách thức chúng ta sống hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Những gì không tốt chúng ta thường có thói hay kêu lớn tiếng. Có như thế chúng ta mới cảm thấy những gì chúng ta cần thiết để thay đổi để chúng ta có thể đến gần Chúa hơn và xa tránh những gì làm cho chúng ta xa Chúa. Những người cảm thấy mình không cần thay đổi lại chính là những người cần phải sửa đổi nhiều nhất.

Thời đại mà chúng ta đang sống được gọi bằng nhiều tên gọi. -t năm trước đây, một triết gia cho rằng thời đại chúng ta là thời đại “có và không.” Triết gia đó viết như sau: “Đây là thời đại của sự lưỡng lự, không quyết định. Vì câu trả lời của chúng ta thường nằm trong lãnh vực giữa có và không. Vả lại, chiều hướng câu trả lời của chúng ta cũng nằm giữa sự khả quyết và không khả quyết.

Trong Chúa Giêsu không có vấn đề “vâng và không”. Nhưng trong Ngài luôn luôn là tiếng “xin vâng”. Trong đền thánh, lúc 12 tuổi Ngài đã thưa “Vâng”: Ta phải thi hành công việc của Cha Ta. Sự cám dỗ trong sa mạc: “Ta phải thực hiện ý muốn mà Đấng đã sai Ta.” Giảng dạy tại Nararet: “Ta phải rao giảng sự công chính và tha thứ, cho dù họ muốn giết Ta.” Trong vườn Giêtsemani: “Xin đừng theo ý Con, nhưng theo ý Cha.” Trên đồi Canvê: “Xin tha cho chúng, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha.”

“Vâng” lạy Chúa! Ý Chúa sẽ được thực hiện trên trần gian. Nhưng do ai? Do chúng con chăng? “Vâng,” Lạy Chúa; chúng con phải thi hành thánh ý Chúa! “Vâng” lạy Chúa, chúng con phải “đi và làm vườn nho Chúa ngay hôn nay.” “Vâng,” lạy Chúa, chúng con phải thi hành điều Chúa dạy hơn là chúng con kêu lớn tiếng, để đáp lại điều mà Chúa dạy cho chúng con, nghĩa là chúng con phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con.

 

  1. Suy niệm của Lm Đan Vinh

Sống như người con Thiên Chúa: điều kiện để được vào Nước Trời

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1) Ý CHÍNH: DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON.

Qua dụ ngôn “hai người con”, Đức Giêsu muốn gián tiếp cảnh cáo thái độ giả hình của bọn đầu mục Do thái, và kêu gọi họ hoán cải để được cứu độ. Dụ ngôn trình bày hai thái độ khác nhau của hai người con trước cùng một yêu cầu của người cha như sau:

– Người con thứ nhất (c 28-29): Lúc đầu đã từ chối không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại mà lại đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Đức Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.

– Người con thứ hai (c 30-32): Lúc đầu đã ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này tượng trưng cho các thượng tế và kỳ mục. Tuy giữ luật Mô-sê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối không tin Gio-an Tẩy giả, là người đã đến chỉ đường công chính cho họ, tức là dạy những điều Thiên Chúa muốn (c 32).

Cuối cùng Đức Giêsu kết luận: ” Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông ” (c 31).

2) CHÚ THÍCH:

– (c 28) Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ong ta đến nói với người thứ nhất: “Này con hôm nay con hãy đi làm vườn nho”.:

+ Các ông nghĩ sao?: Các ông ở đây là các thượng tế và kỳ mục dân Do thái tại Giê-ru-sa-lem (x Mt 21,23-27). Họ đòi Đức Giêsu phải chứng minh về quyền giảng dạy của Người bắt nguồn từ Thiên Chúa (c 23). Để trả lời cho đòi hỏi ấy, Đức Giêsu đã lái vấn đề là đòi họ phải xác định nguồn gốc sứ mệnh của Gio-an Tẩy giả: “Phép rửa của Gio-an do đâu mà có? Do trời hay do người ta?”. Nếu họ bảo là do trời, thì tại sao lại không tin Đức Giêsu là Người mà Gio-an đã xác nhận là Đấng Thiên Sai?

+ Một người kia có hai con trai: Người kia là cách nói trống ngôi, ám chỉ Thiên Chúa. Cả hai con trai ở đây đều được cha đối xử công bằng và khách quan. Họ tượng trưng cho hai thành phần dân Do thái là các người tội lỗi và các người tự nhận là công chính.

+ Người con thứ nhất: ám chỉ các người thu thuế và các cô gái điếm tội lỗi. Lúc đầu những người này đã từ chối không chịu làm theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Nhưng về sau, họ đã tin theo Đức Giêsu mà ăn năn sám hối và trở thành con ngoan của Thiên Chúa.

+ Hôm nay: Hôm nay là thời điểm hiện tại, ý nói về sự cấp bách cần phải làm ngay. Chẳng hạn Đức Giêsu đã tuyên bố về thời điểm cứu độ tại hội đường Na-da-rét như sau:” Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).

+ Con hãy đi làm vườn nho: Đi làm vườn nho tức là làm theo ý Thiên Chúa.

– (c 29) Nó đáp: “Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi “:

+ Con không muốn đâu: Câu trả lời cho thấy thái độ từ chối không tuân lệnh của cha. Điều này ám chỉ những kẻ tội lỗi đã sống ngược với thánh ý Thiên Chúa thể hiện qua thái độ không tuân giữ các giới răn Thiên Chúa và lề luật Hội Thánh.

+ Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi: Ở đây không cho biết lý do tại sao người con thứ nhất hối hận. Chỉ biết rằng nó đã nhận ra lỗi mình và hoán cải để vâng ý cha mà đi làm.

– (c 30) Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi:

+ Ông đến gặp người thứ hai: Người thứ hai là những người có vẻ công chính, ám chỉ các đầu mục của dân Do thái là các thượng tế và kỳ mục.

+ Thưa Ngài, con đây!: Đây là câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo.

+ nhưng rồi lại không đi: Đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng, nhưng lòng anh ta lại ở xa cha, nên sau đó đã không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta đã có thái độ “ngôn hành bất nhất”, “nói mà không làm”, chứng tỏ anh có một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Đây là thái độ đạo đức giả của các đầu mục Do Thái là các thượng tế và kỳ lão. Họ giữ luật Mô-sê trong từng chi tiết nhưng lại không tin vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến là Đức Giêsu.

– (c 31) “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”:

+ Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?: Đặt ra câu hỏi này, Đức Giêsu muốn gián tiếp cho thấy thái độ mâu thuẫn của các đầu mục dân Do Thái

+ Tôi bảo thật các ông: Đức Giêsu muốn nhấn mạnh sự thật mà Người sắp bày tỏ

+ Những người thu thuế và những cô gái điếm: Đây là hai hạng người bị xã hội Do Thái khinh dể, vì họ không giữ luật Mô-sê và có đời sống tội lỗi, gây gương xấu cho kẻ khác.

+ Vào nước Thiên Chúa trước các ông: Ở đây không nhằm nói đến thời gian trước sau, nhưng là sự thay thế. Những người thu thuế và gái điếm vì biết hối cải mà tin theo Đức Giêsu nên họ sẽ chiếm chỗ trong nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập, để thay chỗ của các đầu mục là các thượng tế và kỳ mục Do Thái.

– (c 32) “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”.

* Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông: Gio-an Tẩy giả bằng một lối sống khổ hạnh và bằng việc rao giảng phép rửa thống hối, đã dạy dân chúng biết những điều cần phải làm để chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai. Nhờ đó mà họ sẽ được nên công chính

*Mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin: Các thượng tế và kỳ mục Do Thái đã không tin lời Gio-an Tẩy Giả. Ngược lại, các người thu thuế và các cô gái điếm đã nghe Gio-an giảng và giới thiệu Đức Giêsu cho họ nên đã tin theo Người.

*Còn các ông: Các đầu mục Do Thái dù đã nhìn thấy lối sống khổ hạnh và đã được nghe lời Gio-an Tẩy Giả rao giảng thánh ý Thiên Chúa muốn cho họ “ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, nhưng họ vẫn cứng lòng không tin Gio-an, do đó cũng không tin Đức Giêsu, nên họ sẽ không được gia nhập và nước Thiên Chúa.

  1. HỌC SỐNG LỜI CHÚA

1) LỜI CHÚA: Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).

2) CÂU CHUYỆN:

– NGUYÊN NHÂN SỨC MẠNH SIÊU PHÀM CỦA MỘT CÔ GÁI ĐIẾM

Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm, vua A-đúc (Ashoka) đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô thi thố tài năng để có dịp tận mắt chứng kiến và biết rõ thực hư ra sao. Trước mặt nhà vua cùng các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng tụ tập bên bờ sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng: cô có thể ra lệnh cho dòng sông đang cuồn cuộn chảy phải thay đổi chảy ngược lại, gây ra những tiếng động ầm ầm giống như long trời lở đất. Đang khi đo, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hằng năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân dân dọc theo hai bên dòng sông ngày một lầm than đói khổ! Nhà vua không thể tin đươc một cô gái điếm, thuộc hạng tiện dân và tội lỗi lại có sức mạnh siêu phàm như thế. Bấy giờ vua hỏi cô gái rằng: “Do đâu mà một kẻ tội lỗi ti tiện như ngươi lại có thể làm được việc lớn lao phi thường như thế?” Cô gái đáp:”Tâu Đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ!”. Đức vua lại cười khẫy và văn hỏi:”Thế đức hạnh của ngươi ra sao?”. Cô đáp: “Tâu đức vua, đức hạnh của tiên nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người. Khi tiếp chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám thường dân, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử vẹn tình trọn nghĩa. Tuyệt đối không dám khinh thường hoặc gian dối với bất cứ người nào cả!”.

Như vậy, theo lời cô gái trong câu chuyện trên: Muốn có sức mạnh làm được những việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã nêu tên Gio-an Tẩy giả và đòi những ai muốn được ơn cứu độ phải tin ông Gio-an và đi theo đường công chính của ông như sau: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (c 32).

– ĐIỀU KIỆN ĐỂ LỜI CẦU XIN ĐƯỢC CHÚA NHẬM LỜI?

Một chàng thanh niên kia cứ thắc mắc tại sao Chúa không ban những ơn cần thiết cho những kẻ tin vào Người. Một hôm Chúa đã cho anh ta nằm mơ thấy mình được đi theo Chúa Giêsu khắp đó đây. Anh đã thuật lại câu chuyện xảy ra trong chuyến đi ấy như sau:

Hôm ấy khi được Đức Giêsu cho đi theo một đoạn đường đất đỏ dẫn đến một làng nghèo nàn kia, thì anh nhìn thấy một người đàn ông đang hì hục đẩy chiếc xe thồ chất đầy hàng đang bị ngã đổ nằm nghiêng một bên đường, vì bánh xe chẳng may bị sụt ổ voi trên đường. Bấy giờ người chủ xe liền quỳ xuống giơ hai tay lên trời và lớn tiếng cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa hay thương giúp những kẻ gặp gian nan khốn khó. Xin thương cứu giúp con:Chiếc xe của con đang bị lật ở giữa nơi thanh vắng này. Con tin vào quyền năng mạnh mẽ của Chúa. Chúa chỉ cần phán một lời là chiếc xe của con sẽ lật lại được, để con có thể tiếp tục đến chợ bán hàng. Lạy chúa, xin hãy mau đến giúp con!”. Cầu nguyện rồi, ông ta cứ quỳ mãi để chờ Chúa làm phép lạ theo ý ông xin. Bấy giờ anh chàng đi theo Chúa Giêsu cảm thấy bức xúc khi nghe lời cầu nguyện của người chủ xe. Nhưng anh rất ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu làm như không nghe thấy gì và cứ tiếp tục đi qua chỗ anh ta đang quỳ cầu nguyện.

Một lát sau, hai người đến gần một cái chợ, anh chàng đi theo Đức Giêsu lại nhìn thấy một cảnh đổ xe tương tự. Anh ta nghe thấy người chủ xe chỉ cầu nguyện vắn tắt như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con đang gặp tai nạn vượt quá sức con. Xin Chúa hãy soi sáng giúp cho con biết con phải làm gì để có thể vượt qua hoàn cảnh khó khăn này”. Cầu nguyện rồi, ông ta tìm cách dựng chiếc xe đổ lên như cũ. Sau một lúc làm không được, ông ta chạy đến nhờ người đi đường đến giúp. Bấy giờ anh chàng theo Đức Giêsu thấy Người tỏ vẻ quan tâm tới người chủ xe này. Người bảo anh ta: “Con hãy mau đến hợp sức giúp anh ta một tay!”. Khi chiếc xe đã được lật lên như cũ thì người chủ xe lại cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã thương sai người đến giúp con”. Sau đó, hai người lại tiếp tục lên đường. Bấy giờ anh ta mới hỏi Đức Giêsu rằng: “Lạy Chúa, tại sao người chủ xe trước tha thiết cầu xin lâu giờ mà Chúa lại dửng dưng và không làm gì để giúp đỡ ông ta? Đang khi người chủ xe sau chỉ xin Chúa một câu thôi, thì Chúa lại tận tình thúc giục nhiều người đến giúp ông ta như vậy?”. Bấy giờ Đức Giêsu mới ôn tồn giải thích cho anh ta hiểu như sau: “Con không thấy lời cầu nguyện của hai người khác nhau hay sao? Người chủ xe trước đã cầu xin Ta làm phép lạ giúp cho xe ông ta được lật lên, còn chính ông ta chỉ biết chờ đợi phép lạ. Nhưng Ta không muốn người ta làm biếng làm việc và chỉ biết ỷ lại vào Ta, nên Ta đã để mặc ông ta tự xoay sở lấy. Còn người chủ xe sau chỉ dám cầu xin ơn soi sáng, rồi cố gắng làm hết sức mình để khắc phục khó khăn. Chính vì thế mà Ta đã ra tay trợ giúp bằng cách thúc giục nhiều người khác, trong đó có con, đến giúp đỡ cho ông ta”.

Như vậy, qua câu chuyện trên, tác giả muốn nói rằng: Mỗi khi gặp một điều gì khó khăn, vượt quá sức lực tự nhiên, chúng ta hãy vừa cầu xin Chúa ban ơn soi sáng trợ giúp cho ta, nhưng đồng thời cũng phải cố gắng xử dụng những phương tiện tự nhiên Chúa ban để tự mình vượt qua sự gian nan ấy. Tục ngữ có câu: “Hãy tự cứu mình, rồi Trời sẽ trợ giúp”. Hoặc câu khác: “Hãy thắp lên một ngọn đèn, chứ đừng cứ ngồi yên mà nguyền rủa bóng tối”. Còn bạn, bạn thường có thái độ thế nào khi gặp hoàn cảnh khó khăn hoạn nạn?

3) SUY NIỆM:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu khiến những người đầu mục dân Do Thái đương thời phải sững sờ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Một số nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích từ “vào trước” không chỉ có nghĩa là “trước” so với “sau”, nhưng là “thay thế”. Vì các đầu mục Do Thái “đã không tin” (c 32), nên họ sẽ không được vào nước Thiên Chúa, chứ không phải sẽ “vào sau”. Như vậy câu này có thể được dịch lại như sau: “Những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa thay thế cho các ông”. Nếu những người thu thuế và gái điếm đã vào Nước Thiên Chúa thế chỗ của các đầu mục Do Thái rồi, thì chắc họ sẽ bị loại ra ngoài Nước ấy.

– TẠI SAO CÁC ĐẦU MỤC DO THÁI LẠI BỊ MẤT CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã nêu ra lý do thứ nhất: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết ” (Ed 18,26). Thực vậy, người ta thường nghĩ mình vẫn đang tốt khi đã từng sống tốt và được người khác đánh giá tốt, nên không ngờ có thể một ngày nào đó mình lại trở nên xấu. Để rồi đến giờ chết, khi định vào Nước Thiên Chúa, thì mới hay mình không có chỗ trong đó! Bài Tin Mừng cho biết lý do thứ hai: Người cha đến nói với đứa con thứ hai: “Con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Nó đáp: “Thưa vâng, con đi”. Nhưng rồi nó lại không đi (Mt 21,30). Thực vậy, người ta thường hay tự lừa dối khi nghĩ rằng mình chỉ cần nói: “thưa vâng” với Chúa là đủ. Các đầu mục Do Thái đã “thưa vâng” nhiều lần khi họ tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết. Chính chúng ta ngày nay cũng thường “thưa vâng” như thế khi giữ một số điều luật như đi lễ, đọc kinh. Nhưng những lời “thưa vâng” như thế cũng không phải là điều kiện để ta có chỗ trong Nước Thiên Chúa sau này.

– TẠI SAO NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM CHIẾM CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã cho biết lý do thứ nhất như sau: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh,thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27). Lý do thứ hai là thái độ đứa con thứ nhất lúc đầu từ chối, nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi (Mt 21,29). Thực ra cả hai câu trên đều cho thấy một lý do là: Biết hối hận về sai lầm trong quá khứ của mình và hồi tâm hoán cải. Thực vậy rất nhiều câu chuyện được diễn tả trong phim ảnh cũng như đời thường về những người có quá khứ tội lỗi như trọm cướp, trùm ma-phi-a nhưng họ không những đã được biến đổi nên người tốt, mà còn có lòng vị tha bác ái đặc biệt. Có những tú bà hay những cô gái điếm sau khi hoàn lương, đã bỏ được nếp sống nhơ nhớp trước kia, để sống một đời sống mới dạt dào tình thương yêu người khác. Họ thật xứng đáng vào trong Nước Thiên Chúa để thay thế những kẻ đã từng sống tốt, nhưng đã biến chất trở thành những kẻ giả đạo đức như bọn đầu mục Do Thái thời Đức Giêsu.

– VẬY CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?

Ki-tô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17). Lòng tin không phải chỉ là tuyên xưng ngoài miệng, nhưng phải được tuyên xưng bằng chính cuộc sống như Đức Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Dòng đời luôn thay đổi, và con người cũng dễ dàng đổi thay: Hôm nay có thể ta đang là một con người tốt, nhưng ngày mai lại hoá ra xấu và ngược lại. Do đó chúng ta đừng vội hãnh diện với quá khứ đạo đức của mình, đến nỗi không thấy được là mình đã thay đổi trở thành kẻ xấu. Cần năng tự kiểm vào mỗi cuối ngày để biết rõ con người thực của mình, mình có giữ lời hứa hay không. Vì dù ta có nói giỏi nói hay và hấp dẫn bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu ta không giữ được lời đã hứa, hoặc “ngôn hành bất nhất” thì ta tự làm mất uy tín của mình và làm cho những lời ta nói không còn được mấy ai nghe. Mỗi ngày chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta thay đổi những sai lỗi hay thiếu sót để ta ngày càng sống tốt hơn và xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này.

4) THẢO LUẬN:

Học Lời Chúa, nghe giảng Kinh Thánh có cần hay không? Học Lời Chúa cho thông suốt để đi tranh cãi hay để đi rao giảng Tin Mừng cho người khác đã đủ chưa? Việc sống Lời Chúa giữ đời thường có giá trị thế nào trong đời sống đức tin của bạn? Người ta thường nói: “Lời nói tốt xấu ra sao, thì con người tốt xấu như vậy”. Vậy hiện tại lời nói của bạn đang là lời xây dựng hoà bình và tình yêu thương hay đang gây chia rẽ, hiểu lầm và phân tán?

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU

1) LẠY CHÚA GIÊSU. Con thấy việc sám hối không phải là điều dễ, vì chúng con hiện chưa đủ khiêm tốn để lắng nghe người khác phê bình chỉ trích thói hư khuyết điểm của mình. Chúng con chưa dám tự nhận lỗi về phía mình như lời kinh thú nhận: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!”. Nhưng chúng con cũng ngỡ ngàng khi thấy Chúa dù là Đấng vô tội, nhưng đã đứng xếp hàng chung với các tội nhân để chờ đến lượt được Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho. Qua hành động ấy, Chúa muốn mang thân phận tội nhân giống chúng con để nêu gương khiêm nhường cho chúng con.

LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết năng tự kiểm về tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu xót của mình mỗi ngày. Xin cho chúng con thường xuyên điều chỉnh lối suy nghĩ nói năng và hành động của mình để tránh ảo tưởng về mình, và khỏi trở thành những Pha-ri-sêu giả đạo đức trong thời đại hôm nay. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn hoán cải, dám cắt tỉa đi những thói hư tật xấu nơi bản thân con. Hy vọng sau khi đã được Chúa ban ơn tha thứ như ông Gia-kêu, chúng con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn, sẽ quảng đại để hiến dâng cho Chúa tất cả những gì chúng con có, để Chúa sẽ ban tất cả những gì Chúa có cho chúng con.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

2) LẠY MẸ MA-RI-A. Xin cho chúng con tránh được thái độ của người con thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay: Thưa vâng rồi để đó không làm. Nhiều lần chúng con đã đi xưng tội, đã tham dự các buổi tĩnh tâm sám hối, đã thưa vâng với Chúa. Nhưng rồi sau đó đâu lại hoàn đó. Chúng con vẫn sống như cũ, chẵng có gì thay đổi, chẵng thêm gì mới cả!

LẠY MẸ. Xin cho chúng con biết hoán cải giống như người con thứ nhất. Tuy lúc đầu có lỗi phạm, nhưng đã hồi tâm sửa mình, thay đổi đời sống nên tốt hơn, bằng một thái độ quyết tâm đổi mới, để sẽ sẵng sàng lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu thánh ý Chúa muốn và quyết tâm thực hành lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Xin cho chúng con luôn giữ lời đã hứa, nói ít làm nhiều và nhiệt thành cải thiện môi trường sống của chúng con.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

  1. Kinh nghiệm trong căn phòng khách sạn

(Suy niệm của Mark Link)

Chủ đề:

“Hối cải là một tiến trình, là một cuộc du hành liên tục chỉ kết thúc vào lúc chết.”

Thomas Merton mồ côi cha mẹ năm 16 tuổi. Cậu gia nhập Đảng Cộng sản năm 20 tuổi và gặp được Đức Kitô năm 23 tuổi. Đến năm 24 tuổi chàng trở thành phóng viên tờ Nữu Ước thời báo (New York Times). Năm 26 tuổi, chàng thu gom toàn bộ tài sản vào một chiếc túi vải rồi đến sống ở Kentucky và trở thành một thầy dòng chiêm niệm Trappist (Anh em hèn mọn). Trong quyển sách tự thuật về cuộc sống tâm linh rất ăn khách nhan đề “The seven storey Mountain” (Ngọn núi bảy tầng), Thomas Merton mô tả lại bước đầu tiên trong tiến trình hối cải của chàng. Ngay khi vừa tốt nghiệp Trung học, Thomas đã đi du lịch một mình qua Âu Châu và sống một cuộc sống hơi buông thả. Một đêm nọ, chính trong căn phòng chàng. Thomas bỗng nhiên ý thức được tội lỗi của mình. chàng viết: “Toàn bộ sự việc xảy ra nhanh như chớp. Bỗng dưng một nhận thức sâu xa về nỗi bất hạnh và sự hư hỏng của linh hồn mình xâm chiếm hoàn toàn thân tôi. Tôi vô cùng ghê tởm những gì tôi trông thấy… và linh hồn tôi ao ước trốn thoát khỏi tất cả điều ấy một cách mãnh liệt và cấp bách mà trước đó tôi chưa hề bao giờ cảm thấy như thế”.

Merton nói rằng đó là lần đầu tiên chàng đã cầu nguyện, cầu nguyện thực sự. Chàng cầu xin Chúa, Đấng mà trước đó chàng chưa hề biết, xin Ngài tự trời ngự xuống giải thoát chàng khỏi quyền lực xấu xa đã cầm giữ tâm hồn chàng trong vòng nô lệ.

Câu chuyện về Thomas Merton minh hoạ về sự hối cải của người con thứ trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay. Đồng thời nó cũng minh họa cho sự hối cải mà tiên tri Êdekien nhắc đến trong bài đọc thứ nhất hôm nay.

Điều gì đã khiến cho người ta hối cải giống như trường hợp của đứa con thứ trong Phúc Âm hôm nay, hay giống như Thomas Merton trong câu chuyện trên?

Cách đây nhiều năm, các lý thuyết gia chính trị thường phác thảo những bước cần thiết cho một cuộc cách mạng trong một nước.

Bước thứ nhất là tạo ra tâm lý bất mãn tận căn nơi dân. Bởi vì thiên hạ chỉ nghĩ đến việc đổi thay nếu họ cực kỳ bất mãn với tình cảnh hiện tại của họ. Điều này cũng đúng xét về bình diện từng cá nhân. Người ta chỉ lưu tâm thay đổi cuộc sống riêng khi nào họ bất mãn với hiện trạng cuốc sống ấy. Chúng ta thấy rõ điều này trông trường hợp của Thomas Merton. Chàng đã bất mãn sâu xa với cuộc sống mình. nói cách khác, bước đầu tiên trong tiến trình cải tà là bất mãn với cuộc sống của chính mình. “Bước nảy lửa” trong đời Thomas Merton chính là điều chàng kinh nghiệm được trong căn phòng khách sạn của chàng. Nói theo ngôn ngữ thần học, đó là lúc ân sủng Chúa tuôn xuống.

Bước thứ ba là thực hiện một điều cụ thể đầu tiên hướng về một cuộc sống mới. Chúng ta cũng thấy điều này nơi cuộc đời Thomas Merton. Ngay sáng hôm sau, sau khi có được cái kinh nghiệm đã xảy ra trong căn phòng khách sạn, Thomas Merton đã đi bộ ra ngoài ánh nắng ban mai. Tâm hồn ngài tan nát vì đau đớn và ăn năn. Nhưng đây là một cảm giác tốt đẹp, giống như cái nhọt được bác sĩ dùng dao giải phẫu.

Dù chưa phải là người Công giáo, Merton vẫn đi đến một nhà thờ quì gối xuống và chậm rãi đọc kinh Lạy Cha với tất cả niềm tin của mình. Sau khi cầu nguyện xong, Merton trở lại dưới ánh nắng mặt trời. Chàng cảm thấy như được tái sinh. Trông thấy một bức tường thấp bằng đá, Merton liền ngồi xuống trên đó lòng hân hoan trong niềm an bình tâm hồn mới tìm gặp được. Trước đây chưa bao giờ Merton có được sự an bình như thế.

Merton vẫn còn quãng đường dài phải bước trước khi hoàn tất cuộc hối cải của chàng. Tuy nhiên chàng đã bắt tay làm một việc đầu tiên cực kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới. Cần phải ghi nhớ rằng tất cả chúng ta vẫn còn lữ hành trên đường hướng về sự hối cải trọn vẹn. Chẳng hạn, trong chúng ta có một số người cần phải chiến đấu để từ những Kitô hữu bình thường trở thành Kitô hữu tốt, một số khác cần phải cố gắng từ những Kitô hữu tốt trở thành những Kitô hữu xuất sắc. Và số khác nữa thì cố gắng từ những Kitô hữu xuất sắc trở thành kitô hữu gương mẫu.

Khi bình luận về cuộc du hành bất tận của người kitô hữu hướng về sự hối cải trọn vẹn, một thần học gia thế kỷ 19 người Đan Mạch tên là Soren Kierkegaard đã nói: “Không hề có tình trạng đã thành một kitô hữu mà chỉ có tình trạng đang trở thành một kitô hữu”

Như thế, sự hối cải là một tiến trình, là một cuộc du hành đang tiếp diễn và chỉ chấm dứt khi nào chúng ta chết.

Bước thứ nhất trong cuộc du hành này là sự bất mãn tận căn với nếp sống hiện tại của chúng ta. Hãy nhớ lại Merton đã bất mãn với cuộc sống mình như thế nào.

Bước thứ hai là bước tia lửa làm thành ngọn lửa thúc giục chúng ta phải làm một điều gì đó cho cuộc đời mình. hãy nhớ lại cảm nghiệm trong căn phòng khách sạn của Merton.

Bước cuối cùng là thực hiện việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới. Hãy nhớ lại Merton đã tới nhà thờ để cầu nguyện ngay sáng hôm sau khi xảy ra cảm nghiệm trong căn phòng khách sạn.

Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá ra cuộc sống của mình. Chúng ta có cảm thấy bất mãn về mối tương giao hiện tại giữa mình và Chúa Giêsu không? Chúng ta có ao ước thân tình sâu sắc hơn với Chúa không? Chúng ta có muốn yêu thương gia đình láng giềng chúng ta nhiều hơn giống như Chúa Giêsu yêu thương họ không?

Nếu có thì các bài đọc hôm nay có thể ví như tia lửa bật ra để biến thành ngọn lửa mà chúng ta cần thiết phải có để làm nên một điều gì cụ thể cho các mối tương giao nêu trên.

Có lẽ việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng hướng về cuộc sống mới là ra trình diện để được chữa lành trong Bí tích Cáo giải; là bắt đầu bỏ giờ ra nhiều hơn cho việc cầu nguyện, là lưu tâm đến một số vấn đề gia đình, chẳng hạn như tính hay nóng nảy với con cái, đồng thời cầu xin Chúa Giêsu giúp chúng ta làm một điều gì đó cụ thể ngay tức khắc để lướt thắng khó khăn ấy.

Đây là lời mời gọi hướng đến đức tin mà chúa ngỏ với mỗi người chúng ta đang hiện dịên nơi đây qua các bài đọc hôm nay.

Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:

Ôi giọng nói của Chúa Giêsu,

Xin hãy kêu gọi chúng tôi,

Khi chúng tôi lạc bước quá xa Ngài.

Ôi đôi mắt Chúa Giêsu,

Xin hãy mỉm cười nhìn chúng tôi

Khi chúng tôi cần Ngài khích lệ

Ôi đôi tay Chúa Giêsu,

Xin hãy xức dầu cho chúng tôi

Khi chúng tôi yếu đuối mệt mỏi.

Ôi cánh tay Chúa Giêsu,

Xin hãy nâng đỡ chúng tôi

Khi chúng tôi vấp ngã.

Ôi trái tim Chúa Giêsu,

Xin hãy giúp đỡ chúng tôi yêu thương nhau

Như chính Ngài đã yêu thương chúng tôi.

 

  1. Thức tỉnh trở về – Lm. Nguyễn Bình An

Trên đường tu đức, ai cũng ham đọc sách của Thomas Merton. Cha đã khai sáng một lối suy tư mới để cân bằng, cảnh tỉnh và thăng tiến đời nội tâm. Trong tác phẩm “Ngọn núi bẩy tầng” (The Seven Story Mountian) Thomas Merton đã diễn tả ơn trở về đặc biệt của chính bản thân.

Lúc 20 tuổi, Merton gia nhập đảng cộng sản và du lịch Âu châu. “Bỗng một đêm ở Paris, tôi nhận ra cái tình trạng tồi tệ, khốn quẫn và man dại của mình trong cơn ác mộng. Tôi bị quỉ dữ săn đuổi và cố chạy trốn! Càng chạy càng mắc và càng lâm nguy. Thức giấc trong kinh hoàng và ướt đẵm, tôi quì xuống khẩn cầu. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi tha thiết nguyện xin. Những mong Thiên Chúa giải cứu khỏi sự dữ đang kìm kẹp và đe doạ tôi. Thiên Chúa đã ra tay thị uy và tạo cơ hội cho tôi trở về”. Khi 23 tuổi, Merton đã tin nhân và suy phục Chúa. Anh làm phóng viên cho tờ Nữu Ước Thời Báo. Và lúc tròn 26, anh giã từ nghề nghiệp, bố thí gia sản, rồi dồn những đồ tùy thân vào một túi vải, gõ cửa xin gia nhập dòng Trapist tại Kentuckty. Chúa đã chuyển hóa một thanh niên hoang đàng thành một thầy dòng khổ tu. Thật lạ lùng!

Không hài lòng với bản thân, nổi loạn với cha mẹ, chống cưỡng quyền bính, và tranh đấu cho công bằng xã hội, chúng ta thường có hai phản ứng tương khắc. Một là dấn thân xây dựng cơ cấu và thế hệ mới, cải tiến gia đình, học đường và xã hội. Đây là con đường đoan chính và thánh thiện mà lịch sử Giáo Hội còn ghi đậm những nết son đặc thù của một Phaolô, Augustinô, Inhaxiô, Phanxicô. Hai là bất mãn, chống đối, làm loạn, thủ tiêu và trả thù theo thuyết “thần học giải phóng”. Thuyết này đã được phái vô thần áp dụng tuyệt mức. Họ cấy thù hận vào tâm não; dùng tra tấn, đàn áp và tù tội làm chính sách; lấy thủ tiêu, bỏ đói và tra tấn làm phương tiện. Kết quả là có nhiều tâm hồn thất vọng, chán chường.

Sống bất an và bất hạnh, Merton quyết tung cánh chim tìm về tổ ấm và ra khỏi ngõ cụt của văn hoá sự chết. Merton được cải tử hoàn sinh qua ba giai đoạn. Một là ý thức quá khứ lỗi lầm và hướng thiện. Hai là cương quyết thăng tiến và thay đổi. Ba là dấn thân sống lý tưởng và hành hiệp trượng nghĩa. Đây là ba chặng chuyển hướng quan trọng, phải theo đúng nếu muốn cải tử hoàn sinh. Merton, Phaolô, Mai Đệ Liên, Augustinô… đã thành công và trở thành những “tín hữu thật” theo quan niệm của Soren Kierkegaard “Chưa có một tín hữu thật sự trên đời, mà chỉ có tiến trình trở thành một tín hữu”. Quả vậy tâm tình “ngại núi e sông” đang trói chặt chúng ta. Vì thế chúng ta còn tiếc xót đời tiện nghi, ấm cúng, hạnh phúc, chưa đeo nổi túi vải lên vai và vui bước lên đường.

Phúc Âm hôm nay tra vấn, thức tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi giấc mơ tầm thường của thế tục. Bạn nghĩ sao? Cải tử hoàn sinh để nhập vương quốc nước trời hay lết lê kiếp sống tai bay vạ gió và miệt mài với cảnh nay còn mai mất!!

 

  1. Nó hối hận và đi làm – Lm. Nguyễn Tiến Huân

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lấy ví dụ người cha có hai con. Ông đến nhờ đứa thứ nhất đi làm vườn cho ông. Nó trả lời rằng nó không đi, nhưng rồi sau đó nghĩ lại hối hận, nó lại đi. Ông nhờ đứa thứ hai, nó trả lời nó sẽ đi làm nhưng rồi lại không đi. Sau đó, Chúa Giêsu hỏi các Thượng tế và Kỳ lão Do thái: “Ai trong hai người con đó đã làm theo ý cha mình” và họ đáp “người con thứ nhất” (Mt 21,31).

Chúa Giêsu dùng chính câu trả lời của họ mà kết luận về chính họ: “Tôi bảo thật các ông, người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Tại sao vậy? Tại vì họ cũng giống như người thứ hai, biết ý cha mình muốn và ngoài miệng thì trả lời là làm theo, nhưng thực sự thì không. Họ là “những kẻ chỉ mến Chúa bằng môi, bằng miệng, còn lòng thì ở xa Người” (Mt 15,8). Mà những kẻ chỉ mến Người bằng môi bằng miệng mà không thực hiện ý Người thì không thể vào Nước Trời: “Không phải chỉ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Cha” (Mt 7,21)

Họ như cây vả xum xuê cành lá bên ngoài, nhưng không có trái là việc làm tốt, nên bị nguyền rủa (Mt 21, 18-19). Họ là những kẻ mà Chúa Giêsu đã ca thán: “Tại sao các ngươi kêu với Ta “Lạy Chúa, Lạy Chúa” mà điều Ta nói, các ngươi lại không làm?” (Lc 6,46).

Gioan đến với họ trong đường công chính và bề ngoài thì họ kính nể Gioan bởi nếu không, thì sẽ bị dân chúng ném đá (Lc 20,5-6), nhưng trong lòng thì không tin ngài (Mt 21,32). Trái lại những người thu thuế và gái điếm vẫn bị coi là kẻ tội lỗi, thì như người con thứ nhất, biêt “hối hận và đi làm” (Mt 21,29)

Thực vậy, khi Gioan rao giảng thì những người thu thuế đã thống hối xin chịu thanh tẩy và còn hỏi cho biết việc phải làm: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3,12) “Họ đã chấp nhận Thiên Chúa công minh, còn Biệt phái và Luật sĩ đã khinh màng ý Chúa” (Lc 7,29). Khi cầu nguyện với Chúa, thì ngược hẳn với thái độ kiêu ngạo khoe khoang của Biệt phái, họ “Đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội”. (Lc 18,9-14). Họ biết thực hiện lời Chúa phán mà “bố thí nửa phần gia tài cho kẻ khó và nếu có gian lận ai thì đền gấp bốn”.

Còn những nguời gái điếm như người phụ nữ trong Luca 7,37-49 hay Maria Madalena trong Luca 8,2, và bọn Biệt phái khinh khi kẻ tội lỗi (Lc7,39), đã biết thống hối cải thiện đời sống theo ý Chúa muốn: “Họ đã tin Người. Còn các ông (Biệt phái), sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin Người”. (Mt 21,32).

“Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác thì nó phải chết: chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi và thực thi công chính thì nó sẽ được sống” (Ezekiel 18,26-27- Bài đọc I) Đó là điều chúng ta cần phải suy nghĩ và đem ra thực hành trong đời sống Công Giáo của chúng ta.

Lạy Chúa, tuần này con quyết vừa vâng nghe vừa làm theo thánh ý Chúa để đáng là đức con hiếu thảo tận tình của Chúa.

home Mục lục Lưu trữ