Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 68

Tổng truy cập: 1367174

KIỂM ĐỊNH LÒNG MẾN

Kiểm định lòng mến

Đoạn Tin Mừng Ga 21, 1-19 mà chúng ta được nghe đọc hôm nay là một đoạn Tin Mừng đẹp và hữu tình. Đẹp bởi phong cảnh của hừng đông ở bờ biển, đẹp bởi cách cư xử của Chúa Giêsu đối với các môn đệ nói chung và Phêrô nói riêng, vẻ đẹp còn được tăng lên bởi cách cư xử của các môn đệ đối với Chúa Giêsu cũng như cách cư xử của Phêrô… và đặc biệt đẹp bởi cách chọn người đứng đầu của Chúa Giêsu chỉ chọn trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu Chúa hơn hết mọi người.

Qua đoạn Tin Mừng dài và đẹp này chúng ta thấy được rằng Chúa Giêsu phục sinh vẫn luôn hiện diện với các môn đệ nhưng các ông không nhận ra mà chỉ có mình Gioan nhận ra. Đứng trước một người lạ chỉ cho nơi thả lưới ở bên phải mạn thuyền và đứng trước mẻ cá lạ lùng thì Gioan nhận ra người đó chính là Chúa. Chúa đó. Tại sao không phải là Phêrô người tông đồ trưởng? Tại sao không phải là một tông đồ nào khác? Thưa vì Gioan là người được Chúa yêu và trong tình yêu đó Gioan nhận ra người lạ đó chính là Chúa phục sinh. Chúng ta cũng thấy được điều này nơi Maria Mađalêna. Bà đã yêu mến nhiều nên được tha thứ nhiều và trong tình yêu mến đó Maria đã nhận ra được Chúa Kitô phục sinh. Người ta thường nói trong tình yêu không thể giải thích bằng lời. Chính trong tình yêu Gioan trực giác được Chúa hiện diện trước mặt các ông. Cũng chính trong tình yêu ta thấy được cách cư xử của Chúa Giêsu đối với các môn đệ: không một lời trách móc, không một lời kết án… Chúa đến với các ông đầy thông cảm yêu thương, san sẻ.. Vẫn là Thầy Giêsu đầy yêu thương cầm bánh, cầm cá trao cho các môn đệ.

Kế đó là cách chọn người của Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thêm an ủi và hy vọng. Ta thấy hay lắm, Chúa không hỏi Phêrô con có hiểu biết gì thêm không? Con có tài năng lãnh đạo không? Mà Chúa chỉ hỏi “Con có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?” nhưng với câu này Chúa Giêsu hỏi đến ba lần cho thấy đây là nhân tố quyết định cho việc chọn người đứng đầu của Chúa. Tại sao như thế? Thưa bởi vì một lý do hết sức đơn giản đó là việc dẫn dắt lãnh đạo là của chính Chúa con người chỉ là cộng tác nên người lãnh đạo phải là người gắn bó mật thiết với Chúa, yêu ai là nên giống người đó, yêu Chúa là trở nên giống Chúa ngày một hơn và như thế là để cho chính Chúa hành động qua con người của chúng ta. Theo cái nhìn bình thường của con người thì Phêrô không đáng được chọn tý nào. Thủ lãnh gì mà khi Thầy bị bắt thì chạy mất, thủ lãnh gì mà chối Chúa đến ba lần… nhưng trong đoạn Tin Mừng hôm nay ta thấy cách cư xử của Phêrô cũng rất lạ. Khi nghe Gioan nói “Chúa đó” thì đáng lẽ Phêrô phải chạy trốn mất vì mặc cảm với Thầy, đáng lẽ Phêrô rụt rè đến với Chúa vì lo sợ chịu sự trách mắng nhưng Phêrô không xử sự như thế mà Phêrô vội khoát áo vào rồi ùm xuống biển để vội vàng đến với Chúa Giêsu. Tại sao ông cư xử như thế? Bởi lòng ông yêu mến Chúa, lòng yêu mến Chúa thúc đẩy ông đến với Chúa. Ông như quên đi tất cả, quên không gian, quên lỗi lầm, tình yêu Chúa trong ông thúc đẩy ông chỉ có một việc là đến với Chúa. Với tình yêu mến Chúa như thế, Chúa Giêsu không nhắc lại lỗi lầm, không nhắc lại những lần ông chối Chúa mà Chúa Giêsu ân cần đến với Phêrô và với các môn đệ, đồng bàn san sẻ với các ông cũng như đặt Phêrô làm thủ lãnh Giáo hội bởi Phêrô yêu mến Chúa hơn hết mọi người. Nhưng làm thủ lãnh là làm sao? Ở cuối bài Tin Mừng chúng ta nhận ra cách làm thủ lãnh mà Chúa muốn ở Phêrô đó là “Hãy theo Thầy”. Làm thủ lãnh là bước theo Chúa chứ không phải là dẫn dắt Chúa, là muốn làm sao cũng được. Chúng ta nhớ lại sau khi Phêrô tuyên xưng “Thầy là Con Thiên Chúa là Vua Israel” thì Chúa Giêsu mặc khải là Ngài sẽ phải lên Giêrusalem để chịu chết, vừa mới được Chúa khen Phêrô liền đứng ra can ngăn “Thiên Chúa thương Thầy không để Thầy như thế đâu”. Ngay lúc đó Phêrô bị Thầy khiển trách “Satan lui lại đằng sau Thầy”. Nên lần này Phêrô có kinh nghiệm nơi chính bản thân mình “Theo Thầy” không phải chỉ là theo Thầy biến hình trên núi Tabo, hay hãnh diện vì Thầy làm phép lạ… nhưng theo Thầy là theo suốt cả cuộc đời dù đó là Tabo hay Thập Giá. Và cuộc đời của Phêrô đã sống triệt để lời mời gọi của Chúa Giêsu khi Phêrô chịu chết vì tuyên xưng Chúa Kitô.

Chúa Kitô phục sinh hằng hiện diện ngay bên chúng ta nhưng để nhận ra được Ngài đòi hỏi chúng ta phải có lòng yêu mến, yêu mến để cảm nhận ra những dấu chỉ trong cuộc sống chính là sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh, yêu mến để gắn bó với Chúa hơn. Chính vì lòng yêu mến mà Phêrô được chọn nên chúng ta hãy yêu mến Chúa để trở nên người của Chúa. Cách Chúa chọn Phêrô cho chúng ta niềm hy vọng vì Chúa chọn không theo một tiêu chuẩn nào khác ngoài lòng yêu mến, ta hãy gắn bó với Chúa và phó thác cho Ngài. Sau cùng câu Chúa gọi Phêrô cũng là câu Chúa gọi mỗi người chúng ta “Hãy theo Thầy”. Theo Chúa là đón nhận mọi sự trong niềm tin tưởng phó thác cho dù dễ dàng hay khó khăn, cho dù là hoạn nạn hay an bình, khi vui cũng như lúc buồn… vì ta biết tất cả mọi sự nếu ta biết gắn bó với Chúa thì Chúa sẽ hành động trong ta, qua ta Chúa thể hiện tình yêu của Ngài. Theo Chúa là bước theo sau Chúa chứ không phải ép Chúa theo mình như Giuđa mà thất vọng.

Hãy tin tưởng phó thác trọn vẹn cho Chúa và hãy để Chúa hành động.

 

42. Có Chúa nâng đỡ

Phần lớn các tông đồ đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Hôm được nhiều, hôm được ít và có hôm chẳng được gì. Đó cũng là kinh nghiệm sống vốn thường xảy ra cho chúng ta.

Thực vậy, nhiều khi chúng ta đã suy nghĩ, đã cân nhắc, đã cố gắng hết sức, thế mà vẫn cứ thất bại. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là thái độ của chúng ta trước những thất bại.

Thực vậy, trước những thất bại gặp phải, có những kẻ nản lòng và thối chí, nhưng cũng có những người vẫn kiên trì theo đuổi, vì họ nghĩ rằng:

– Thua keo nay, ta bày keo khác.

– Thất bại là mẹ thành công…

Và sự kiên trì nhiều khi đã xoay ngược tình thế, mà đem lại những thành quả tốt đẹp.

Ông Schmitt, thuở còn là thanh niên, đã bán tất cả gia tài, sang Mỹ tìm vàng. Tìm mãi tìm hoài mà vẫn chẳng thấy. Tiền bạc thì mỗi lúc một cạn, còn đói khổ và cực nhọc thì cứ mỗi ngày một gia tăng. Chịu không nổi, nhiều người đã bỏ cuộc.

Trong khi đó, ông ta vẫn miệt mài tìm kiếm và sau cùng ông đã thấy được những dấu vết của vàng trong lòng một ngọn núi. Ông kêu gọi mỏi người góp vốn, nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Không thất vọng, ông ta tiếp tục làm việc. Sau ba mươi hai năm vất vả, ông đã trở thành một nhà tỷ phú.

Thất bại trong cuộc sống là một sự kiện bình thường, như ca dao Việt Nam đã nói:

– Cơm sôi cả lửa thì khê,

Việc làm hay hỏng, là lề thế gian.

Sự thành công có được một phần do kiên trì chịu đựng và cố gắng:

– Ai ơi giữ chí cho bền,

Dù ai xoay hướng, đổi nghề mặc ai.

Thế nhưng, kinh nghiệm còn cho chúng ta thấy được một sự thật khác nữa, đó là với sức riêng, khi thì chúng ta thất bại, khi thì chúng ta thành công, Chẳng ai thất bại hoài và cũng chẳng ai thành công mãi. Tuy nhiên, với ơn Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ thành công dù bên ngoài xem ra như không có thể.

Thực vậy, các tông đồ đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, vâng lời Chúa, các ông đã ra khơi thả lưới, và lập tức đã có được một một mẻ cá lạ lùng. Thất bại đã trở nên thành công, khó hoá thành dễ và không có thể đã biến thành có thể.

Tìm tưởng vào mình đã đành, mà hơn thế nữa, chúng ta còn phải tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, bởi vì như lời Chúa đã phán:

– Không có Thầy, các con không thể làm gì được.

Thánh Phaolô đã xác quyết:

– Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho đâm bông kết trái.

Và người Việt Nam chúng ta cũng thường nói:

– Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.

Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể.

Chẳng hạn khi làm ruộng, chúng ta phải dùng mọi phương thế tự nhiên như cày bừa, gieo xạ, xịt thuốc và bón phân…Tuy nhiên, lúa tốt và trúng còn lệ thuộc vào thời tiết, mưa thuận gió hoà. Việc này thì dường như ngoài tầm tay của chúng ta.

Chẳng hạn khi buôn bán, chúng ta phải điều nghiên thị trường, hàng tốt, giá cả phải chăng…Tuy nhiên, nếu gặp phải thời buổi loạn lạc, thì chắc hẳn số người đến mua cũng chẳng bao nhiêu.

Chẳng hạn khi lập gia đình, chúng ta phải tìm hiểu và bàn hỏi… Tuy nhiên, chẳng may sau khi cưới và chung sống với nhau, chúng ta mới thấy người mình yêu không giống với người mình mơ ước vì có quá nhiều khuyết điểm. Lúc đó phải làm sao đây? Hôn nhân không giống như một chiếc áo, vừa thì mặc, không vừa thì bỏ. Nhờ người này người nọ nhắc nhở bảo ban mà vẫn không chuyển biến. Nếu kéo lê cuộc tình như vậy suốt dọc cuộc đời thì qua là một gánh nặng.

Trong trường hợp như thế, vẫn còn có một phương thế đó là tin tưởng và phó thác cho Chúa, vì Ngài có thể làm được mọi sự, như lời thánh vịnh đã xác quyết:

– Ví như Chúa chẳng xây nhà,

Thợ nềvất vả chỉ là uổng công.

Thành trì Chúa chẳng giữ trông,

Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.

Hay như lời thánh Félix de Nole đã nói:

– Với Chúa, thì màng nhện cũng trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

Và chính Chúa cũng đã phán:

– Đối với Thiên Chúa, không việc gì là không có thể.

Tóm lại, trong mọi việc, chúng ta hãy sử dụng sử dụng hai phương tiện trợ giúp cho nhau, đó là tự nhiên và siêu nhiên, đó là sức mình và ơn Chúa, nhờ đó mới bảo đảm được những thành quả tốt đẹp.

 

43. Mầu nhiệm Giáo Hội

  1. Giáo hội thoạt nhìn như bao tổ chức trần thế khác, nhưng Giáo Hội bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, nên Giáo Hội còn là một mầu nhiệm. Đoạn Tin Mừng kể lại việc Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, tại biển hồ Tibêria, giúp chúng ta có vài suy nghĩ về Giáo Hội của Chúa.

Chiếc thuyền tượng trưng cho Giáo Hội, mà các thuỷ thủ là các tông đồ trong đó có anh thuyền trưởng Phêrô do chính Đức Giêsu chỉ định. Các loại cá được bắt nhắc ta nhớ mọi dân tộc đều được mời gọi vào Giáo Hội… Giáo Hội là một mầu nhiệm, bởi được chính Chúa yêu thương tuyển chọn, Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng tình yêu, Giáo Hội được mời gọi loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc và Giáo Hội chỉ có sức sống thực sự khi hoạt động dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa.

  1. Giáo Hội là một mầu nhiệm bởi được chính Chúa yêu thương tuyển chọn. Phêrô và các tông đồ khác đa số làm nghề chài lưới, ít học. Thậm chí có người, như Matthêu, làm nghề thu thuế, một nghề đáng nguyền rủa thời đó, vậy mà Đức Giêsu lại chọn các ngài. Tại sao? Thưa, chỉ vì yêu thương mà Chúa chọn các ngài. Cũng vậy, bên cạnh chúng ta còn rất nhiều người chưa được biết Chúa, còn chúng ta được mời gọi vào Giáo Hội của Chúa, con đường dẫn ta đến hạnh phúc đích thực, có phải vì công trạng của chúng ta hay không? Chắc là không, nhưng vì Chúa thương chúng ta thế thôi!
  2. Giáo Hội là một mầu nhiệm bởi được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Vì yêu thương Đức Giêsu xuống thế gian để cứu chuộc con người, vì yêu thương Chúa đã lập Giáo Hội để tiếp tục phân phát ơn cứu độ của Chúa. Trước khi trao quyền lãnh đạo Giáo Hội cho Phêrô, Đức Giêsu ba lần hỏi Phêrô con có yêu mến Thầy không? Phải chăng Chúa muốn nhắc lại quá khứ, ba lần Phêrô chối Chúa? Nhưng, có lẽ điều quan trọng hơn đó là vì Chúa sắp giao cho Phêrô một trọng trách, và Chúa muốn Phêrô tỏ rõ lòng yêu mến của ông đối với Chúa, có thực lòng yêu mến Người thì mới có thể yêu mến đàn chiên của Người được.

Đoạn Tin Mừng nầy còn cho thấy những người có trách nhiệm trong Giáo Hội không những yêu mến Chúa, yêu mến đàn chiên của Chúa mà còn phải đồng tâm nhất trí với nhau nữa. Simon Phêrô nói với các tông đồ khác “tôi đi đánh cá đây”, câu nói nầy như trình bày với anh em một việc làm thường nhật của mình, cũng có thể hiểu đây là lời mời gọi nhẹ nhàng của anh trưởng để anh em cùng làm việc chung. Các tông đồ khác hưởng ứng ngay đề xuất và việc làm của Phêrô, nên đáp lại:”chúng tôi cùng đi với anh”, thay vì có thể nói những câu như:”anh đi mặc kệ anh, còn chúng tôi đi ngủ”, hay “nhiệm vụ ai nấy làm…!”. Phải chăng Đức Kitô Phục Sinh đã biến đổi lòng họ, muốn họ yêu thương hiệp nhất, bỏ qua việc tranh chức quyền, ngồi bên hữu bên tả Chúa…! Họ đã thấu hiểu được lời dạy của Chúa: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13,35).

  1. Giáo Hội là một mầu nhiệm, Chúa muốn mầu nhiệm nầy được muôn dân biết đến qua việc truyền giáo. Đức Giêsu đã có lần nói với các tông đồ của mình: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19; Mc 1,17). Mẻ cá lạ mà các tông đồ vừa đánh được, có đến 153 con cá lớn mà lưới không hề rách, làm cho chúng ta liên tưởng đến việc Giáo Hội phải có trách nhiệm cưu mang, giới thiệu cho mọi dân tộc, mọi quốc gia nhận biết Chúa. Với số lượng cá trên mang tính biểu tượng cho toàn thể, tất cả, vì thời đó người ta chỉ biết được có 153 loài cá. Chính Đức Giêsu Phục Sinh trước khi về trời đã có chỉ thị rõ ràng cho các tông đồ, môn đệ của Người về việc truyền giáo cho muôn dân (x. Mt 28,19). Những ngư phủ trước đây đánh bắt cá, giờ hoàn toàn đổi nghề sang “đánh bắt người” cho Chúa. Công Đồng Vatican II khẳng định lại bản chất Giáo Hội là truyền giáo. Vì vậy, từ xưa đến nay Giáo Hội không ngừng thực hiện lệnh truyền nầy của Chúa.
  2. Giáo Hội là một mầu nhiệm vì sức sống của Giáo Hội chỉ có được khi nghe và thực thi lời Chúa. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp, vậy mà đã vất vả suốt đêm nhưng không bắt được con cá nào! Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và bảo cho các ông hãy thả lưới bên phải mạn thuyền, các ông đã làm theo, và mang lại kết quả khả quan. Quả đúng như lời Đức Giêsu đã nói “không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Giáo Hội có sức sống, có những hoạt động tốt đẹp, tích cực… không phải do sự cố gắng của con người mà do ơn Chúa ban. Mẹ Têrêsa Calcutta với những cống hiến lớn lao của mẹ cho xã hội, nhưng mẹ nhận rằng, mình chỉ là cây bút chì nhỏ bé của Thiên Chúa, Thiên Chúa muốn dùng như thế nào tuỳ Ngài. Mỗi người chúng ta chỉ là công cụ của Thiên Chúa, việc tông đồ chỉ mang lại hiệu quả đích thực, lâu bền khi chúng ta biết lắng nghe và thực thi lời Chúa dạy.
  3. Trong tâm tình mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta có quyền tự hào là phần tử trong Giáo Hội của Chúa, không những bởi cách tổ chức, uy tín… của Giáo Hội, mà nhất là Giáo Hội còn có một sức sống huyền diệu. Nhưng mỗi Kitô hữu hãy nhìn lại đời sống của mình:

– Chúng ta có đáp lại tình thương của Chúa bằng đời sống tốt đẹp của mình hay không?

– Chúng ta làm mọi việc, nhất là việc tông đồ với tất cả lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân hay không?

– Chúng ta đã sống và đem Tin Mừng Phục Sinh đến cho tha nhân như thế nào?

– Chúng ta có lắng nghe và đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống hay không?

Xin Đức Kitô Phục Sinh đem lại sức sống mới cho chúng con, để chúng con góp phần xây dựng Giáo Hội ngày càng theo ý Chúa hơn. Amen.

 

44. Con có yêu mến Thầy không? – Lm. John Nguyễn

Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Một câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản nhưng không phải ai cũng có đủ can đảm để trả lời một cách dễ dàng như Thánh Phêrô đã thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Một buổi sáng Chủ Nhật, người mẹ bảo người con trai rằng, hôm nay mẹ muốn con chở mẹ đi tham dự Thánh lễ, vì lâu nay anh ta không đến nhà thờ. Trong lúc đang buồn ngủ và mệt mỏi, vì đêm qua anh ta đi chơi về rất khuya. Vả lại, anh ta cũng chẳng tha thiết gì với đạo nghĩa. Trong lúc bực tức vì mất giấc ngủ, anh ta trả lời với người mẹ rằng: “Mẹ đi theo Chúa của mẹ đi. Nếu mẹ có thấy Chúa thì hãy chỉ cho con. Con có thấy Chúa đâu.” Người mẹ đau buồn và lặng lẽ đi. Phải chăng câu nói của chàng thanh niên ấy cũng là câu nói của nhiều người trong chúng ta hôm nay? Chúng ta cũng đang hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa trong thế giới này? Để trả lời cho câu hỏi đó, chúng ta hãy trở lại với trang Tin Mừng hôm nay qua biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ tại bờ biển Tibêria.

Sau một đêm dài vất vả mệt nhọc, các Tông đồ đã thất vọng vì không bắt được con cá nào, thì lúc trời rạng sáng, Chúa Giêsu hiện đến với các ông trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết đó là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và được đầy cá. Sau khi các ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ sau khi từ cõi chết sống lại.

Cái Chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu là nền tảng cho đời sống của đức tin chúng ta, vì Ngài chiến thắng sự chết và đã mở ra cho chúng ta con đường hướng đến cuộc sống mới. Chúng ta được tái sinh bởi nước và máu của Ngài. Ngài là Cha yêu thương và tha thứ cho chúng ta ngay cả khi chúng ta là tội nhân. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói trong bài giáo lý về Kinh Tin Kính trong Năm Đức Tin: “Giờ đây, chúng ta xem xét lại ý nghĩa sự phục sinh của Chúa Kitô đối với chúng ta và đối với ơn cứu độ dành cho chúng ta…” Thật vậy, chúng ta đang sống trong niềm vui mừng Chúa phục sinh. Nếu trong lòng của chúng ta không có niềm tin thì cũng trở nên vô ích. Hơn nữa, lòng yêu mến của chúng ta không chỉ dừng lại ở việc giữ các giới răn, mà là sự sống mới với niềm vui Chúa phục sinh. Chúng ta cần thay đổi cách nhìn Thiên Chúa. Niềm tin và hy vọng của chúng ta đặt trên nền tảng chứng thực của các Tông đồ, và niềm tin đó được nuôi dưỡng hằng ngày bằng cách nghe Lời Chúa, cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và thực hành các công việc bác ái. Để nhận biết và gặp gỡ Thiên Chúa, chúng ta cần có thái độ cộng tác và cảm nghiệm đức tin qua biến cố trong cuộc đời của chúng ta.

Nếu bạn hỏi: Có thấy Thiên Chúa không? Bạn từ đâu đến? Bạn sẽ đi về đâu? Nếu bạn trả lời thắc mắc này, thì tôi sẽ chỉ cho bạn thấy Thiên Chúa ở đâu. Trong lớp giáo lý, cô giáo hỏi một bé gái: “Con tin có Thiên Chúa không?” – Cô bé mở tròn đôi mắt và trả lời: “Thưa cô, có chứ! Con luôn tin có Thiên Chúa.” – Sao con biết có Thiên Chúa mà tin? – Cô bé vô tư trả lời: “Hãy nhìn bầu trời, cảnh vật núi rừng, biển khơi, thì chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên những thứ đó. Qua đó, con tin có Thiên Chúa.” – “Con chỉ cho cô biết Thiên Chúa của con ở đâu?” – Cô bé tiếp tục trả lời: “Thưa cô, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, không có chỗ nào mà không có Thiên Chúa, và Chúa ở trong tâm hồn của con nữa.”

Với thân phận yếu đuối và giới hạn của con người, chúng ta tìm kiếm Chúa trong đức tin và lòng yêu mến của chúng ta qua Bí tích Thánh Thể được tái diễn trên bàn thờ. Ngài đang hiện diện và chờ đợi chúng ta đến với Ngài. Ngài là người Cha yêu thương đang mong chờ chúng ta trở về với Ngài. Vì nơi Ngài, chúng ta được sống trong nguồn yêu thương, niềm vui và được đổi mới trong Chúa Phục Sinh.

Lạy Chúa, chúng con luôn yêu mến Ngài vì Ngài là nguồn ơn cứu độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng con. Amen.

 

45. Làm theo Lời Chúa

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ và với các người phụ nữ để củng cố niềm tin của họ. Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện ra với bà Maria Mađalena (Ga 20, 14); Chúa cũng hiện ra với các môn đệ đang họp nhau trong căn phòng mà các cửa đều đóng kín. (Ga 20, 19-29); Chúa Phục Sinh còn hiện ra với các môn đệ trên đường Emmau nữa (Lc 24, 13-35).

Hôm nay, một lần nữa Chúa Giêsu Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ của Người, nhưng lần này Chúa hiện ra ở Biển Hồ Tibêria, nơi các môn đệ đang thả lưới. Các ông đã vất vả suốt đêm mà không bắt được một con cá nào. Một nhóm thuyền chài lành nghề, vậy mà quần quật suốt đêm, rất vất vả, lại chẳng được gì hết. Phải chăng do tâm trạng của các môn đệ không ổn định, nổi buồn mất Thầy mấy ngày qua vẫn còn, niềm tin về việc Thầy sống lại cũng chưa chắc chắn. Tâm trạng không thoải mái và ổn định, thì làm việc sao có kết quả tốt được!

Chúa hiện ra và chỉ cho các ông chỗ để thả lưới: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạng thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá’. Kết quả thật lạ lùng, vượt quá sự mong đợi của các Tông đồ.

Chúng ta có thường xuyên làm theo lời Chúa dạy chúng ta không? Do chúng ta chưa nghe lời dạy của Chúa nên cuộc đời của mỗi người chúng ta có nhiều hư hỏng, thất bại. Muốn thành công trong mọi công việc chúng ta phải dựa vào Chúa: năng tham dự Thánh lễ và năng lãnh nhận các Bí tích. Lấy Lời Chúa dạy làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành động của chúng ta. Cầu nguyện nhiều hơn không chỉ ở nhà thờ, ở gia đình mà còn ở mọi nơi mọi lúc nữa.

Nhà bác học thời danh của nước Pháp là ông Louis Pasteur. Ông được nổi tiếng chẳng những trong lãnh vực y khoa mà còn ở niềm tin sâu sắc của ông. Người ta thuật lại một lần ông đi xe lửa, có một sinh viên ngồi bên cạnh ông, thấy ông cầm tràng chuỗi đọc kinh cầu nguyện thì ngạc nhiên hỏi:

Thưa ông, thế là ông còn tin ở chuyện nhảm nhí à?

Ông điềm tỉnh trả lời:

Đúng thế. Tôi vẫn còn tin và tin đến chết. Còn cậu, cậu không tin sao?

Người thanh niên cười ngạo nghễ và nói:

Lúc nhỏ tôi tin. Nhưng bây giờ tôi không còn tin nhảm nhí thế nữa, vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông hãy quăng bỏ tràng chuỗi đó đi và học những khám phá của khoa học, ông sẽ thấy tất cả những gì ông tin từ trước đến giờ toàn là mê tín dị đoan.

Ông thản nhiên hỏi lại:

Cậu vừa nói đến những khám phá của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi biết những điều đó không?

Cậu sinh viên vui mừng đề nghị:

Vậy ông cho tôi địa chỉ của ông. Hôm nào tôi gởi cho ông quyển sách, để ông học biết những điều nhiệm lạ của khoa học.

Ông từ từ lấy tấm danh thiếp trao cho cậu. Đọc xong tấm danh thiếp, cậu sinh viên tái mặt, xin lỗi và cúi đầu quay đi vì xấu hổ, vì danh thiếp đề như sau: ‘Louis Pasteur, viện trưởng nghiên cứu khoa học Paris ‘.

Nhà bác học Louis Pasteur đã trả lời với chàng sinh viên: “Tôi vẫn còn tin và tin cho đến chết”; ông đã thể hiện đức tin đó bằng việc cầu nguyện, lần chuổi ngay cả lúc đi trên xe lửa. Niềm tin vào Thiên Chúa đã giúp nhà bác học Louis Pasteur thành công trong nghiên cứu khoa học.

Các Tông đồ đã nghe lời Chúa dạy mà thả lưới bên phải mạn thuyền và đã bắt được rất nhiều cá. Nhà bác học Louis Pasteur đã làm theo lời Chúa dạy: “hãy cầu nguyện luôn đừng nản chí “(Lc 18,1), nhờ đó ông đã thành công lẫy lừng trong nghiên cứu khoa học.

Còn chúng ta thì sao? Những suy nghĩ, những việc làm của chúng ta có dựa vào lời Chúa dạy không? Đời sống của chúng ta còn những hư hỏng, thất bại là do chúng ta không làm theo lời Chúa dạy, chúng chưa cầu nguyện nhiều, chưa gặp gỡ Chúa nhiều.

Xin Chúa cho mọi Kitô hữu chúng ta biết cậy dựa vào Chúa trong mọi việc, biết cầu nguyện thường xuyên và gắn bó với Chúa hơn qua việc lãnh nhận các Bí tích, để Chúa hướng dẫn chúng ta trong mọi việc làm, hầu đạt được kết quả tốt nhất ở đời này và cả đời sau nữa.

 

46. Suy niệm của Lm. GB. Hiếu

NHẬP LỄ

Yêu thương là một hoạt động sâu thẳm trong tâm hồn, nhưng cũng là một động lực thúc đẩy sức sống. Thiên Chúa là Tình Yêu và Người dựng nên con người để con người được chia sẻ tình yêu với Thiên Chúa. Tương quan cuộc sống con người với Thiên Chúa hay con người với nhau, chính là tương quan tình yêu.

– Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con vượt qua được mọi gian khó, để trung thành với Chúa. Xin Chúa thương xót …

– Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con nhận biết Chúa đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Xin Chúa Kitô…

– Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con được vào cộng đoàn “chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và bái phục Chúa đến muôn thuở muôn đời”. Xin Chúa thương xót…

GIẢNG

Người ta nói: Sống với nhau “vì tình vì nghĩa, chẳng ai vì đĩa xôi đầy”, cho nên những ai vì tiền vì của mà bán nghĩa bạn bè, sẽ bị người đời khinh chê sỉ nhục. Vợ chồng sống với nhau được, là nhờ vì tình vì nghĩa. Cha mẹ hy sinh cho con cái, cũng chỉ nhờ vì nghĩa vì tình. Tình càng nồng, nghĩa càng hậu, cách cư xử càng nhân ái, càng trung thực. Điều này đòi buộc chính bản thân con người phải cảm nghiệm.

Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng chỉ vì không có thiện cảm với Chúa, luôn ganh tỵ và sợ hãi Chúa, nên các lính canh đã nhận tiền để xuyên tạc; các thượng tế, kinh sư thì tìm cách che giấu sự thật, bịt mắt bưng tai. Còn các Tông Đồ và môn đệ của Chúa thì bởi vì gặp được Chúa, nên càng xác tín hơn. Họ yêu Thầy, sống chết với Thầy, bởi vì chính bản thân họ đã được cảm nghiệm ở bên cạnh Thầy. Sự thật đã được liên kết trong tình yêu, nên họ không thể xuyên tạc hay làm ngược lại điều chính họ đã sống. Tình yêu đối với Thầy, thúc đẩy họ phải rao giảng về Thầy -cho dù có gặp phải người đời hoặc những kẻ có thế lực chống đối, ngược đãi, đe doạ mạng sống. Ông Phêrô -một con người bộc trực và cũng dễ chao đảo- nhưng sau khi đã cảm nghiệm được Tình Thương Yêu của Chúa, đứng trước hội đồng Dothái giáo đã mạnh dạn phản bác lời cấm đoán của vị thượng tế: “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người phàm” (Cv 5,29). Tình yêu đối với Thầy đã thúc đẩy ông can đảm nói lên cả những điều mà những kẻ có thế lực đang cấm cản ông, điều mà trước đây vì nhát sợ, vì chưa đủ mức độ yêu thương, ông đã 3 lần chối bỏ: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi, nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người chỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm Thủ Lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israen ơn sám hối và ơn tha tội” (5,30-31). Chỉ có Tình Yêu của Chúa và có tình yêu đối với Chúa / mới có thể giúp cho các Tông Đồ can đảm và kiên cường như thế. Cũng chỉ có Tình Yêu của Chúa và có tình yêu đối với Chúa như thế, mới có thể giúp cho Giáo Hội từ thuở sơ khai cho đến ngày hôm nay, vẫn phát triển không ngừng giữa biết bao gian nan thử thách. Thánh Gioan -được mệnh danh là “người môn đệ được Đức Giêsu thương mến” (Ga 21,7)- nhờ tấm lòng yêu quý dành cho Thầy sâu đậm hơn những anh em khác, nên sớm nhận ra Chúa trên bãi biển hơn những Tông Đồ khác.

Như thế, tình yêu đóng vai trò rất quan trọng trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, cho nên sau ngày sống lại, Chúa Giêsu đã muốn đặt tiêu chuẩn để trao trách nhiệm cho Thánh Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (21,15). Chúa Giêsu hỏi tới 3 lần, để Thánh Phêrô xác định tình yêu tuyệt đối của mình nơi Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (21,17).

Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống chúng ta, nhưng chỉ có tình yêu mới giúp chúng ta nhận ra được Chúa. Nhờ Tình Yêu của Chúa và nhờ tình yêu của chúng ta đối với Chúa, chúng ta mới có đủ can đảm, sáng suốt để trung thành với Chúa vượt qua những gian truân, đau khổ, thử thách của cuộc đời cho đến cùng. Xin Chúa Thánh Thần đã cho Đức Giêsu Kitô phục sinh, giúp chúng con phục sinh tình yêu của chúng con đối với Chúa.

 

47. Suy niệm của Lm. Vinh sơn Nguyễn Thành Trung

Chúa Giêsu Phục Sinh hiện diện như một người bạn

Mặc dầu trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu phục sinh là Đấng đầy tràn vinh quang, tuy nhiên đối với Giáo hội trên trần gian, Người lại muốn hiện diện một cách khác: Người muốn tỏ ra là một người bạn rất gần gũi với tất cả mọi người.

Với ý hướng này, chúng ta hãy dừng lại những chi tiết thật đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay, để nhận ra sự hiện diện rất gần gũi thân thương của Đấng Phục Sinh.

Các Tông đồ đã đánh cá suốt đêm trên biển hồ Tibêria mà không bắt được con cá nào cả. Khi Đức Giêsu hiện đến, Ngài thăm hỏi như một người bạn có sự quan tâm và khi thấy họ gặp khó khăn, Ngài đã giúp họ vượt qua. Ngài rất gần gũi: “ Này các chú, không có gì ăn ư?” (Ga 21, 5b). Hay có thể diễn giải: Thầy đói rồi, có cái gì cho Thầy ăn không?

Sau khi sống lại, qua các lần hiện ra dọc theo Tin Mừng ta cũng đã bắt gặp thái độ này của Chúa Giêsu khi Ngài hiện ra với bà Maria Mađalêna. Ngài hiện diện như một người làm vườn và thăm hỏi khi thấy nỗi khổ của người khác: “Này bà sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Còn đối với hai môn đệ trên đường Em-mau thì sao? Vẫn thần thái đó, vẫn cách thức đó, Ngài hiện diện như một khách hành hương và đồng cảm với những suy nghĩ lo lắng hoang mang của họ: “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17).

Chúng ta lại thấy một chi tiết rất thân tình và đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay. Ngài hiện đến như một người đồng nghiệp, quan tâm đến sự thành công hay thất bại của bạn hữu mình. Khi các tông đồ gặp thất bại: “suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” (Ga 21, 3b), thì Người gợi ý: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”(Ga 21, 6a)

Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của chúng ta, khi chúng ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp chúng ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính chúng ta không tài nào thoát ra được.

Noi gương các tông đồ, chúng ta phải biết lắng nghe để nhận ra ý Chúa và thực thi mau mắn. Các ngài đã làm theo gợi ý của Chúa, nên các Ngài đã thành công: “các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6b).

Xin Chúa Kitô Phục Sinh luôn ban Thánh Thần cho chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện rất thân tình của Ngài. Ngài luôn mang đến sự bình an và hạnh phúc thật. Bên cạnh đó, xin cho chúng ta có lòng nhiệt thành, hăng say đem tình thương của Chúa chia sẻ cho người khác, để họ cũng nhận ra được sự hiện diện của Chúa qua những cử chỉ thật dễ thương của chúng ta.

Chúng ta hãy để Chúa Phục Sinh luôn là người bạn thân của chúng ta và chúng ta cũng hãy là người bạn thân của tất cả những ai mà chúng ta đang gặp gỡ và sẽ gặp gỡ trong cuộc đời của mình.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến và đang ở thật gần bên chúng con. Lạy Đấng Phục Sinh, xin ở mãi với chúng con, xin đừng rời xa chúng con vì chúng con luôn cần Ngài. Al-lê-lu-ia.

 

48. Vâng lời – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Vâng lời là một trong ba lời khấn trong nghi thức khấn dòng: Khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Vâng lời là bỏ ý riêng mình, vâng theo ý Chúa qua sự vâng phục ý của bề trên. Vâng lời đòi hỏi sự khiêm nhu đích thực. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã diễn tả về Chúa Giêsu:Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục (Dt 5, 8). Chúa đã nêu gương vâng phục thánh ý Chúa Cha. Sau khi các tông đồ đã được diện kiến và chia sẻ ăn uống với Chúa Kitô phục sinh, các Ngài đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng. Các tông đồ là những nhân chứng sống động và can đảm nhất. Các Ngài đã đối diện với nhiều quyền lực cả thần quyền lẫn thế quyền. Người ta hăm dọa và cấm cản các tông đồ. Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Tđcv 5, 29). Một chọn lựa tuyệt đối. Các tông đồ đã chọn Chúa, vâng lời Thiên Chúa. Sự chọn lựa này có thể đưa đến sự giam tù, đầy ải khổ đau và chết chóc.

Những sự kiện mới xảy ra hôm nào: Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy (Tđcv 5, 30). Tin tức còn nóng hổi. Các nhân chứng còn đang hiện diện đầy phấn khởi. Tân hồn của các Tông đồ sôi xục niềm tin. Các ông ra đi rao giảng tin vui cho mọi người. Chẳng chút sợ hãi từ nan. Lòng nhiệt thành của các Tông đồ làm cho các nhà chức trách lo ngại. Nhưng dù có cấm cản và đe dọa, các Tông đồ vẫn một lòng trung kiên: Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.”(Tđcv 5, 32). Các nhân chứng vâng theo ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Niềm tin và lòng trung tín của các Tông đồ là những hạt giống gieo mầm đức tin cho các thế hệ và cho mỗi người chúng ta. Đức tin của chúng ta cậy dựa vào những lời chứng của các tông đồ xưa.

Tâm hồn của các tông đồ hân hoan và vui mừng cho dù khổ đau trăm bề. Chứng nhân cho sự thật đồng nghĩa với sự khổ nhục vì danh Chúa Kitô. Chỉ có sự thật mới có thể giải thoát. Người đời không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của các nhân chứng sự thật. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu (Tđcv 5, 41). Chịu tù đầy, đánh đòn và giam giữ trở nên nguồn sinh lực hân hoan cho các tông đồ. Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều chứng nhân dám xả thân mang tin mừng cứu độ đến mọi người khắp mọi nơi. Đã có những vị tử đạo bỏ mình nơi vùng hoang sơ của những bộ lạc sống sơ khai man rợ. Tinh thần lạc quan và nhiệt tình của các nhà truyền giáo đã giúp họ xông pha trên mọi nẻo đường dù gian khó. Qua các Ngài, hôm nay chúng ta được thừa hưởng kho tàng mầm sống đức tin.

Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người tín hữu đã được gieo mầm đức tin và được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô. Cả cuộc đời của chúng ta đã bỏ vốn đầu tư trong một niềm tin. Chúng ta đã cống hiến nhiều thời gian, sức lực, khả năng, của cải và cả đời sống nơi Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta đã đặt trọn niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu vào Đấng trung gian của vũ trụ. Chúng ta đã chọn Chúa Giêsu Kitô là trung tâm điểm của đời sống tâm linh. Chúng ta đã hy sinh, hãm mình, thi hành bác ái và tuân giữ giới răn của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta đang trông chờ điều gì? Đó chính là sự sống lại và sự sống hạnh phúc ngày sau. Chúng ta biết rằng con đường lên thiên đàng là thiên đàng. Vâng theo thánh ý Chúa trong cuộc lữ hành trần thế là chúng ta đang dõi theo con đường hướng thượng.

Hằng ngày chúng ta vác thánh giá đi theo Chúa. Theo Chúa là theo con đường đi lên, con đường an vui hạnh phúc, con đường ngược dòng và cả con đường khổ giá. Chúng ta đã đầu tư biết bao nhiêu công sức để học hỏi, tìm hiểu và sống niềm tin của mình qua năm tháng. Đừng để niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng, mê tín, hình thức và trình diễn bên ngoài. Chúng ta hãy chìm sâu vào cốt lõi của niềm tin. Tinh thần vâng phục sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp. Biết tìm từ bỏ ý riêng và chấp nhận ý Chúa. Vâng phục không phải là đánh mất mình nhưng là chia sẻ một cuộc sống hài hòa trong yêu thương bác ái. Vâng lời trọng hơn của lễ là thế. Chúng ta biết trăm người trăm ý, nên cần có những quyết định và ý kiến chung để thi hành. Tuy rằng không có ý nào là tuyệt đối nhưng có đa số quyết định. Giáo hội là Nước Trời tại thế nhưng giáo hội cũng là tổ chức xã hội, cần có sự nhất trí để dẫn dắt mọi tín hữu đi trong đường lối Chúa. Chúng ta cũng biết sự vâng phục sẽ nhẹ nhàng hơn đôi chút khi có sự đối thoại và thông cảm. Hãy sống niềm tin đích thực trong mọi trạng huống ở đời.

Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần và nhiều cách với nhiều người. Đôi khi các tông đồ cũng chẳng nhận ra Chúa. Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu (Ga 21, 4). Chúa đến với các tông đồ khi Chúa muốn.Chúa cho ai ân sủng, người đó lãnh nhận. Chúng ta không nên phân bì, so sánh hay ganh tị. Ân sủng là qùa tặng nhưng không. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu lại yêu cầu các tông đồ làm một việc có vẻ như thách thức tinh thần vâng phục. Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá (Ga 21, 6). Vâng lời Thầy, con thả lưới. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp đã cật lực thâu đêm mà chẳng bắt được gì. Vâng lời Thầy, các ông đã kéo được mẻ cá to. Sự vâng phục đã mang lại niềm vui và thành qủa to lớn.

Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy. Chúa vẫn dùng những cử chỉ thân thương gần gũi để chia sẻ cuộc sống với các tông đồ:Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy (Ga 21, 13). Bánh và cá đã trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Trên sườn núi Chúa cũng đã biến hóa bánh và cá hai lần để nuôi dân con số trên cả mấy ngàn người. Chúa quan tâm sự vất vả, mệt nhọc và đói khổ của dân chúng. Sự hiện diện của Chúa mang lại niềm an vui, no thỏa và ủi an. Chúng ta tín thác vào lòng thương xót của Chúa moi nơi mọi lúc. Nếu chúng ta có Chúa hiện diện là có sự bình an, có niềm vui hoan lạc và hy vọng. Hãy kết hợp thường xuyên với Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta sẽ được an nghỉ: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28).

Sách Khải Huyền của thánh Gioan mở ra cho chúng ta một viễn tượng tuyệt vời nơi đất mới trời mới: Tôi thấy và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu (Kh 5, 11). Đây làthực tại của niềm tin. Tất cả niềm hy vọng của chúng ta đặt vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta hy vọng sẽ cùng chung hưởng một cõi sống vĩnh hằng. Những đau khổ của chúng ta hôm nay, chẳng là gì so với vinh quang bất diệt mà chúng ta sẽ được dự phần. Thánh Gioan diễn tả: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời! “(Kh 5, 13).

Lạy Chúa, chúng con cứ mải mê tìm kiếm những của cải và thú vui thế sự để thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Xin cho chúng con biết nhìn lên, hướng thượng và chiêm ngắm vinh quang mà Chúa đang dành sẵn cho chúng con. Xin cho chúng con cùng được thông phần hạnh phúc với các thánh trong Nước Trời. Amen.

home Mục lục Lưu trữ