Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 43
Tổng truy cập: 1371597
LẠC QUAN
Lạc quan
Cho đến thời Chúa Giêsu, luật lệ Do thái vẫn rất khắt khe đối với những người phong cùi. Những luật lệ này đã có từ thời ông Môsê được ghi lại trong chương 13 sách Lêvi, qui định rất tỉ mỉ và rõ ràng những trường hợp người bị cùi và cách đối xử với những người ấy. Nghĩa là khi có những triệu chứng bệnh ngoài da, người bệnh phải đến gặp tư tế để khám nghiệm. Nếu là phong cùi thì tư tế sẽ tuyên bố người đó không thanh sạch. Từ đó họ không được ở chung với người lành, không được ở trong làng, nhưng phải sống biệt lập trong hoang địa, không được tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Họ không được tới gần người lành, cũng không được để người lành tới gần. Họ phải mặc áo rách, để tóc bù xù, và khi thấy người lành thì phải hô to: “dơ, dơ” để người ta biết mà tránh xa. Nếu họ đụng tới người lành hay người lành đụng tới họ thì người ấy trở thành dơ bẩn và bị khai trừ trong thời gian luật định.
Như vậy, khi đã mắc bệnh cùi là mặc nhiên bị đẩy vào một cái chết dần mòn khủng khiếp. Chẳng những thế, kẻ mắc bệnh cùi còn bị xã hội nguyền rủa và xa lánh. Thân xác tiêu hao, tinh thần băng hoại, đời sống người bệnh không còn gì khác hơn là những tháng ngày rên siết đau thương trong khốn cùng tuyệt vọng.
Hiểu rõ số phận người cùi như vậy, chúng ta sẽ hiểu được trường hợp người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Một người cùi đến gần Chúa Giêsu và Chúa đã chữa cho người ấy được lành sạch. Như thế, người cùi này đã vượt qua các hàng rào mà luật đặt cho người cùi. Và chính Chúa Giêsu cũng đã vượt qua hàng rào luật định khi Ngài chạm tới người cùi. Nghĩa là với lòng tin mạnh mẽ người cùi đón đường và đến gần Chúa. Còn Chúa, thay vì xa lánh như luật cấm, Ngài giơ tay chạm đến người bệnh. Việc Ngài chạm tới người cùi không làm cho Ngài ra dơ bẩn mà lại làm cho người cùi được lành sạch. Ngài không phạm luật nhưng Ngài làm cho luật nên hoàn hảo.
Thái độ của người cùi này đáng cho chúng ta suy nghĩ. Dù với tâm trạng e dè sợ sệt, anh vẫn tin tưởng kêu xin. Lời cầu xin ấy không phải là một hoài nghi, nhưng diễn tả một niềm tin hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa Giêsu giữa cảnh cùng đường tuyệt vọng. Trước thái độ tin tưởng khiêm tốn của anh, Chúa Giêsu rất hài lòng, Ngài đặt nhẹ tay trên vai anh và chữa anh lành bệnh bằng một lời đầy âu yếm: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”.
Đặt tay hay đụng chạm đến người cùi là một cử chỉ mà lề luật không cho phép và cấm ngặt, vì nó sẽ làm cho con người ra dơ bẩn. Và với quyền năng của mình, không cần đụng chạm vào người cùi, Chúa Giêsu vẫn có thể chữa lành anh ta. Thế nhưng, tình yêu dâng hiến sẽ nhận được tình yêu đáp trả. Tâm tình tin yêu của người cùi đã được Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ yêu thương của Ngài.
Câu truyện người cùi trên đây tuy ngắn gọn, nhưng diễn tả được đậm nét nguyên tắc sống của người Kitô hữu: không bi quan về cuộc sống. Không bao giờ mất tin tưởng, dầu cuộc đời xem ra như chẳng còn lối thoát. Và nhất là không bao giờ được quên tình yêu thương săn sóc của Cha trên trời. Bởi vì chẳng có gì ngăn cản con người tìm đến với tình yêu Thiên Chúa. Dù cho cuộc sống có tăm tối u buồn, quanh ta chẳng còn người cảm thông, thì vẫn còn Chúa Giêsu, Ngài luôn chờ đón và sẵn sàng đáp lời chúng ta. Và chúng ta hãy đến với Ngài để học nơi Ngài cách đáp trả.
Chúng ta đừng bao giờ tự làm cho mình thành người mắc bệnh cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình pháo đài ích kỷ, lập dị… Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử… Chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi. Hoặc chúng ta từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ chỉ vì họ không cùng tín ngưỡng hay không đồng tư tưởng với chúng ta. Nếu sống như vậy là chúng ta tự làm cho mình mắc bệnh cùi và làm cho anh em trở thành người cùi.
Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.
Lạc quan vui sống là đặc tính cơ bản của người Kitô hữu. Chúng ta cần phải lạc quan vì nhận thức được phẩm giá làm người và làm con Chúa của mình. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng mình luôn được Thiên Chúa yêu thương săn sóc. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng đàng sau mọi gian nan thử thách của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ. Mỗi ngày có những đau khổ, nhưng cũng lại có niềm vui. Người Kitô chúng ta luôn biết vươn mình trên đau khổ để đón nhận niềm vui được trao ban từ tấm lòng, từ bàn tay, từ nụ cười của Thiên Chúa yêu thương. Một cuộc sống như thế phải là điều bình thường cho những ai biết đặt trọn niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa. Một cuộc sống như thế không những chỉ là nguồn vui cho riêng mình mà còn mang hạnh phúc đến cho gia đình, cho xã hội nữa.
62. "Sạch" và "dơ"
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong cuộc sống chung với mọi người, chúng ta nhận thấy có một số người bị người khác khinh bỉ lánh xa; có khi chính chúng ta cũng bị xa lánh như thế. Tại sao? Lời Chúa hôm nay sẽ dạy rõ cho chúng ta về vấn đề này. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa và xin Chúa giúp chúng ta sống theo lời Ngài dạy.
II. Gợi ý sám hối
- Tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhơ uế, không xứng đáng đến với Chúa. Chúng ta hãy thành tâm sám hối tội lỗi và xin Chúa tẩy sạch tâm hồn chúng ta.
- Nhiều lần chúng ta tự làm nhơ uế đầu óc mình bằng những sách báo, phim ảnh đồi truỵ và những câu chuyện khiếm nhã.
- Chúng ta cũng làm nhơ uế trái tim mình do cách sống ích kỷ và giận hờn ganh ghét.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Lv 13, 1-2. 45-46)
Đoạn này là một phần của sách Lêvi được các chuyên viên gọi là "Luật về sự tinh sạch". Đoạn này đề cập riêng về bệnh cùi. Nhưng quan niệm về "bệnh cùi" không giống với quan niệm ngày nay:
- Tất cả những hiện tượng về da liễu (ung nhọt, da đổi màu hoặc bóng láng) đều bị gọi là "cùi". Người ta còn nghĩ rằng bệnh cùi rất lây, cho nên sách Lêvi buộc những người mắc bệnh ấy phải ở riêng.
- Hơn nữa, người ta còn nghĩ bệnh này có liên hệ đến tôn giáo: trong quan niệm chung rằng bệnh tật là hình phạt của tội lỗi, và bệnh cùi là thứ bệnh nặng nhất, người thời đó cho kẻ mắc bệnh cùi đã phạm tội rất nặng. Do đó người bắt đầu bị cùi phải đến trình diện với tư tế, và sau này "nếu" khỏi bệnh thì cũng phải được tư tế xác nhận. Thực ra, đó chỉ là một chữ "nếu" to tướng, vì người ta đều coi cùi là một chứng nan y không thể nào khỏi, trừ khi chính Thiên Chúa ra tay cứu chữa.
Vì vậy, người nào cứu chữa được bệnh cùi, như Êlisê và Đức Giêsu, thì chứng tỏ người ấy có uy quyền đặc biệt do Thiên Chúa ban.
2. Đáp ca (Tv 31)
Ca tụng sự tha thứ của Thiên Chúa và hạnh phúc của người được tha thứ.
3. Tin Mừng (Mc 1, 40-45)
Như đã nói trong phần giải thích bài đọc I, người Do Thái coi bệnh cùi là a/ chứng nan y chỉ có Thiên Chúa mới chữa khỏi; b/ chứng bệnh rất hay lây; c/ có liên hệ đến tội lỗi.
Người cùi trong bài Tin Mừng này nói với Đức Giêsu "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch". Điều này chứng tỏ anh tin rằng Đức Giêsu là người của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đưa tay đặt trên người ấy: chứng tỏ Ngài không sợ lây bệnh, nhất là Ngài không ghê tởm kẻ mắc bệnh cùi.
Ngài chữa bệnh một cách rất nhanh chóng và dễ dàng: chứng tỏ Ngài có uy quyền đặc biệt của Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (1 Cr 10, 31--11, 1)
Đoạn thư này tuy không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cũng chung một vấn đề, đó là "sạch và dơ". Người Do Thái thời thánh Phaolô cũng còn phân biệt những thức ăn "sạch" và thức ăn "dơ". Thánh Phaolô đả phá sự phân biệt đó. Điều quan trọng không phải là cân nhắc thức ăn nào sạch hay dơ, mà là dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm bất cứ việc gì khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Thứ bệnh "cùi" nguy hiểm hơn
Những kiến thức y khoa ngày nay giúp chúng ta không còn quá sợ bệnh cùi Hansen nữa.
Nhưng chúng ta phải cảnh giác với một thứ bệnh cùi đặc biệt với những nét mà bài Tin Mừng hôm nay mô tả: Đó là một thứ tội thực sự làm cho tâm hồn con người ra nhơ uế, lại có sức truyền nhiễm rất mạnh, và do đó đáng bị mọi người xa lánh.
Tội "cùi" ấy là gì? Là tội có những ý nghĩ xấu và tội loan truyền những ý nghĩ xấu ấy.
Ebba de Pauli trong quyển "Vị ẩn sĩ" đã mô tả một người cùi như thế: Đó là một bà trung lưu và có thể nói là "đạo đức". Bà không phải bận bịu với việc sinh nhai, bà có nhiều giờ để đi nhà thờ đọc kinh dự lễ, và vẫn còn nhiều giờ để tìm nói chuyện với người này người nọ. Nhưng bà không hiểu tại sao người ta cứ muốn xa lánh bà. Một nhóm người đang trò chuyện với nhau vui vẻ nhưng khi vừa thấy bóng dáng bà thì mọi người đều im bặt. Có người vừa thấy bà xa xa thì đã lẫn đi nơi khác. Bà đến hỏi ý kiến với Vị Ẩn Sĩ. Sau khi hỏi bà một số chi tiết, Vị Ẩn Sĩ kết luận:
- Sở dĩ người ta xa lánh bà vì họ coi bà là một con rắn độc!
- Nhưng sao họ coi tôi là rắn độc?
- Vì trong đầu óc bà đầy những ý tưởng độc hại, như nghĩ xấu về người khác, hằn học, đố kỵ, bi quan... Nghe bà nói, người ta cảm thấy tâm hồn mình chùn xuống, cuộc sống mình buồn thảm hơn.
- Vậy xin ngài chỉ cho tôi phải làm sao.
Vị Ẩn Sĩ khuyên bà thay đổi cách suy nghĩ và cách giao tiếp: từ nay hãy nuôi trong đầu mình những ý tưởng tốt lành; khi nói chuyện với người khác, hãy chia xẻ những ý nghĩ tốt lành ấy, rồi mọi sự sẽ khá hơn.
Bà này làm theo. Và kết quả đúng như Vị Ẩn Sĩ tiên báo.
* 2. Những "con hủi"
Hoàn cảnh đáng thương của người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay không phải vì anh mắc một chứng bệnh ô uế và hay lây, vì thực ra nếu xét theo y khoa bây giờ thì bệnh anh không đến nỗi như thế. Anh đáng thương vì người ta nghĩ anh như thế nên ghê tởm và xa lánh anh.
Có nhiều người tuy không "cùi" nhưng vẫn bị coi là "con hủi" do bị mọi người khinh tởm tránh xa.
Nhưng Đức Giêsu thì không. Ngài rất thương và rất gần gũi với những "con hủi" ấy, chẳng hạn những người thu thuế, đĩ điếm, trộm cắp v. v.
* 3. Nỗi khổ bị xua đuổi
Bệnh cùi là một bệnh khủng khiếp. Tuy nhiên nó không khủng khiếp bằng nỗi khổ bị xua đuổi. Có thể nói, đau khổ lớn nhất của con là bị người khác xua đuổi, vì sự xua đuổi khiến người ta cảm thấy cô đơn, thấy mình không còn phẩm giá gì nữa, thậm chí nó còn khiến người ta nổi loạn.
Trẻ con mà bị cha mẹ xua đuổi thì kể như chết. Người lớn thì sợ bị xua đuổi còn hơn phải chịu tất cả mọi đau khổ khác dồn lại. Vết thương làm người tàn tật đau đớn nhất không phải là chứng bệnh thể xác hay tinh thần người đó đang mắc phải, mà là bị người khác xa lánh.
Người cùi đến với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng này là một người bị xua đuổi. Vì cùi, anh không được sống chung với người khác trong xã hội. Anh phải tránh không để cho người khác chạm tới mình. Hơn nữa vì người ta coi người cùi là kẻ tội lỗi bị Chúa phạt, nên anh còn thêm mặc cảm mình bị chính Thiên Chúa xua đuổi nữa.
Điểm hay trong chuyện này không phải là việc Đức Giêsu chữa anh này khỏi bệnh cùi, mà là cách Ngài đối xử với anh. Khi thấy anh đến gần mình, Ngài không xua đuổi, nhưng để anh đến. Chẳng những thế Ngài còn giơ tay đụng vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng vào anh như thế, Đức Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên có thể nói, trước khi chữa bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của anh.
Khi ta xua đuổi ai thì ta cũng coi người đó là cùi mặc dù có lẽ ta không ý thức rõ như thế. Ta có thể xua đuổi người khác bằng nhiều cách tuy nhỏ nhưng tế nhị, như giọng nói thế nào đó, một cách nhìn thế nào đó v. v. Đó là những mũi kim đâm rất nhỏ nhưng gây đau đớn rất lâu. (Viết theo Flor Mc Carthy)
* 4. Bệnh phong cùi
Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở đôi chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng. Người ta nói với mẹ cậu: "Thằng Glenn của chị sắp thành kẻ tàn phế suốt đời đấy".
Thế mà hai năm sau với niềm tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa. Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.
Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khoa của cậu là chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.
Thi đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này.
*
Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch.
Đối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên "ô uế" để mọi người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng quyền năng của Đức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin: "Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch" (Mc. 1, 40).
Thấy lòng tin của anh, Đức Giêsu động lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh" (Mc. 1, 41). Chạm đến người phong cùi, Đức Giêsu đã phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Đức Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.
M. Carré có nói: "Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông". Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy người phong cùi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Người.
Vì thế Đức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là cho anh lành sạch cả thể xác lẫn tâm hồn. G. Bossis viết: "Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ".
Bí quyết trở nên hùng cường của nước Mỹ được in trên đồng tiền của họ, đó là câu: "In God we trust" (Chúng tôi tin vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salêsiô nói: "Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa".
*
Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi Người; tất cả nơi Người.
Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi bệnh tật xác hồn chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Chạm vào
Nhiều người chúng ta sợ chạm vào người khác.
Thà cho người ăn mày một vài xu, nhưng đừng để người ấy chạm tới mình.
Đức Giêsu thì khác. Ngài không đứng xa, không ngại chạm vào.
Ngài chạm vào những người cùi, những người tội lỗi, những người bệnh tật, và cả những người chết.
Những cái chạm thân ái làm cho lòng người đang lạnh giá được ấm lại và những cõi lòng buồn sầu được vui mừng sung sướng.
Lạy Chúa, xin cho con một trái tim ấm áp và một đôi tay dịu dàng. (Flor Mc Carthy)
* 6. Chúa chạm vào
Người phong cùi nói với Đức Giêsu: "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Đức Giêsu chạnh lòng thương đưa tay đụng vào anh và bảo "Tôi muốn, anh hãy được sạch"
Mẫu đối thoại ngắn này gợi cho tôi nhiều ý tưởng:
+ Xét về mặt thiêng liêng thì ai cũng đều "cùi" vì ai cũng có tội.
+ "Nếu Ngài muốn": Đức Giêsu có muốn cho chúng ta hết "cùi" thiêng liêng không? Dĩ nhiên là muốn, rất muốn, vì Đức Giêsu đến trần gian là để rửa sách tội lỗi cho loài người. Bởi vậy Ngài đã trả lời cho người cùi: "Tôi muốn"
+ Người cùi trong bài Tin Mừng được sạch nhờ Đức Giêsu đụng tay vào anh. Chúng ta ngày nay không chỉ được Đức Giêsu đụng tay vào, mà còn được rước Chúa vào trong cơ thể chúng ta mỗi khi chúng ta rước lễ.
7. Ý nghĩa việc làm của Đức Giêsu
Các sách Tin Mừng trình bày Đức Giêsu luôn làm hai việc: chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng. Hai việc này không riêng rẻ nhưng song song nhau và hỗ trợ cho nhau. Nói cách khác, Đức Giêsu không rao giảng suông, mà vừa rao giảng vừa chữa bệnh. Việc chữa bệnh hỗ trợ cho việc rao giảng. Ta cũng có thể nói: chữa bệnh là một cách rao giảng Tin Mừng.
Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay chẳng những được chữa bệnh mà còn được đón nhận Tin Mừng. Chẳng những thế, sau khi khỏi bệnh, chính anh lại trở thành kẻ loan báo Tin Mừng: "Đi khỏi nơi đó, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó... và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người".
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã không ngại đụng chạm đến người cùi để chữa lành và tỏ lòng yêu thương họ. Chúng ta xin Đức Giêsu thương chữa lành cho mọi bệnh tật phần hồn và phần xác cho chúng ta:
1. Trong Hội thánh có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng là sống trong tình trạng tội nặng / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ sớm chạy đến tòa cáo giải để được lành sạch.
2. Trên thế giới có đủ các thứ bệnh tật cả phần xác lẫn phần hồn / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền biết quan tâm để mọi người dân được chữa bệnh cả phần xác lẫn phần hồn.
3. Ngày nay ở khắp nơi có nhiều người mắc những bệnh hiểm nghèo không thể chữa được như ung thư, sida / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ luôn được nhiều người yêu thương và ủi an.
4. Trong xứ đạo chúng ta có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng mà không ý thức và không muốn chữa lành / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ gặp dịp để ăn năn sám hối và chạy đến với Chúa để được chữa lành.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa luôn luôn muốn chữa lành mọi bệnh tật phần hồn phần xác cho chúng con, Xin cho chúng con biết tin tưởng và tìm đến với Chúa, để Chúa chữa lành cho chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Như những đứa con bệnh hoạn tật nguyền vì những chứng bệnh phần hồn, phần xác, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh sau đây: "Lạy Cha chúng con ở trên trời..."
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ làm cho tâm hồn chúng con ra nhơ uế, và sự dữ tách chúng con ra khỏi nếp sống cộng đoàn yêu thương, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an..."
VII. Giải tán
Nhờ linh dược của Thánh Thể, mọi bệnh tật nhơ uế trong tâm hồn chúng ta đã được sạch. Chúng ta hãy ra về và giúp cho anh chị em chúng ta cũng được lành sạch như vậy.
63. Lòng từ ái
Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, người ta tin rằng căn bệnh phong hủi rất hay lây nhiễm. Vì lý do đó, những người phong hủi bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Người ta biết đến họ như là những người không thể đụng chạm vào được. Sự hiện hữu của họ quả thật là lạnh lùng, cô độc. Họ phải sống xa cách với mái nhà, gia đình và bạn bè của họ. Họ là những con người đã từng hòa mình trong cuộc sống, thế mà hiện nay, họ không là gì cả. Cuộc đời của họ là một cái chết sống động. Người ta tin rằng họ bị Thiên Chúa nguyền rủa. Người ta cho rằng họ không chỉ là những kẻ bệnh hoạn, mà còn không tinh sạch nữa. Người đàn ông đang tiến lại gần Đức Giêsu chính là loại người đó. Anh ta không được xuất hiện trước công chúng, mà không rung chuông, hoặc không la to lên báo hiệu, để cho mọi người cảnh giác. Anh ta có nguy cơ bị xua đuổi bằng những cục đá. Nhưng anh ta quyết định đi gặp một người, mà anh ta tin rằng sẽ không xua đuổi anh.
Đức Giêsu nhìn thấy người phong hủi đang lại gần, và cho phép anh ta tiến thẳng đến với Người. Liệu Người có đụng chạm vào người phong hủi này không? Nếu Người sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nếu Người không sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nhận thấy tình trạng bi đát của anh ta, Đức Giêsu đã động lòng thương, Người tiến lại gần và sờ vào anh. Đây là một hành động biểu tượng, chắc chắn sẽ gây sốc cho những người xem. (Người ta nhận thấy ở bắc Ailen, thậm chí ngay cả một cái bắt tay đơn giản, cũng có thể gây rắc rối). Khi đụng chạm vào người phong hủi, thì Đức Giêsu đã tự biến mình thành một người không tinh sạch. Hầu hết mọi người trong chúng ta đều e ngại người đau yếu và người nghèo khổ. Chúng ta có thể cho người ăn xin một vài đồng lẻ, nhưng chắc chắn chúng ta không hề có tương quan gì đối với họ. tuy nhiên, chúng ta lại thích được đụng chạm vào. Chúng ta cảm thấy vinh dự, khi được một nhân vật quan trọng nào đó bắt tay, hoặc vỗ vào lưng chúng ta.
Chắc hẳn là sự tiếp xúc về mặt thể lý tạo cho mọi người, đặc biệt là những người đau yếu và bị thương tật, một cảm giác nồng ấm và vui tươi. Chính khi đụng chạm vào người khác, chúng ta cảm nhận được một cách chính xác về người đó. Đức Giêsu đã đụng chạm vào những người phong hủi, tội lỗi, đau yếu và kẻ chết.
Bạn hãy thử tưởng tượng xem người phong hủi cảm thấy sung sướng đến thế nào, khi Đức Giêsu đụng chạm vào người anh ta. Trước hết, anh ta cảm thấy mình là một con người. Thân xác của anh ta đã bị tổn thương sâu xa hơn – do cảm giác rằng mình bị tất cả mọi người, kể ac Thiên Chúa, xua đuổi và bỏ rơi. Bằng cách đụng chạm vào anh ta, Đức Giêsu đã chữa lành tinh thần bị tổn thương của anh ta. Thế rồi người phong hủi nói “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Đức Giêsu đáp: “Tất nhiên là tôi muốn”. Và Người đã chữa lành cho anh. Bây giờ, anh được chữa lành cả về thân xác nữa, hoàn toàn được lành lặn.
Nơi người y bác sĩ, lòng từ ái hầu như là một điều quan trọng nhất đối với một bệnh nhân. Khi người ta xuất viện sau một cuộc phẫu thuật hoặc một cơn bệnh, một trong những điều mà người ta luôn phê bình, đó là về cách cư xử của các bác sỹ và y tá.
Đức Giêsu yêu cầu người phong hủi im lặng về việc chữa bệnh của Người. Nhưng người này lại loan báo đi khắp mọi nơi về điều mà Đức Giêsu đã làm cho anh ta. Và anh ta không chỉ nói về sự kiện Đức Giêsu chữa lành cho anh, nhưng anh ta còn nói về tấm lòng từ ái và sự tôn trọng thật đáng kinh ngạc, mà Người đã cư xử với anh.
Đức Giêsu đưa bàn tay đầy yêu thương và chữa lành về phía một người hạ đẳng. Người thách đố chúng ta – những kẻ đi theo Người – trong việc tiếp cận với những con người mà ngày nay xã hội ruồng bỏ: các tù nhân, những người nghiện ma túy, những lữ khách, các nạn nhân Aids…
Những điều mà người ta có thể làm cho người khác thật đáng kinh ngạc. Người ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang đến niềm vui sống, thông truyền cảm hứng cho những kế hoạch tương lai, phục hồi lòng tự trọng và tự hào. Thậm chí người ta còn có thể phản ánh một cách lờ mờ về lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa nữa.
64. Phong cùi
Như chúng ta đã biết, bệnh phong cùi là một chứng bệnh hiểm nghèo, rất khó chữa trị. Nó làm cho người mắc phải, bị đau đớn nhức nhối, và trở nên hôi thối. Nó gậm nhấm các chi thể, làm cho các chi thể bị băng hoại, chết dần chết mòn và sau cùng bị rơi rụng.
Hơn thế nữa, nó còn là một chứng bệnh rất hay lây, vì thế người ta thường cô lập những kẻ mắc phải chứng bệnh này ở một nơi riêng rẽ, không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Hình ảnh của bệnh phong cùi cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho tội lỗi. Bởi vì tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên xấu xa và hôi thối dưới mắt Thiên Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn chúng ta bị băng hoại và sau cùng giết chết sự sống của Thiên Chúa, sự sống của ơn sủng trong chúng ta. Đồng thời, tội lỗi còn là như một chứng bệnh truyền nhiễm, do gương mù gương xấu của chúng ta mà nó sẽ lây lan sang những người chung quanh.
Thế nhưng có một điều bi đát, đó là đối với những kẻ mắc phải chứng bệnh phong cùi, thì như tôi vừa nói, người ta thường để họ sống biệt lập tại một nơi hoang vắng, hay trong những trại riêng biệt, hầu giới hạn sự lây lan của nó.
Còn tội lỗi thì khác, nó đang ở giữa chúng ta, trà trộn vào trong chúng ta, thế lực và ảnh hưởng của nó mỗi ngày một bành trướng, nó tràn ngập khắp nơi, từ thôn quê cho tới tỉnh thành, không chỗ nào mà không có dấu vết của nó, để rồi con người thời nay đã đánh mất ý thức về nó. Họ coi phạm tội là một chuyện bình thường, như ăn một chén cơm, uống một ly nước.
Riêng với chúng ta thì sao? Sau khi đã nhận biết sự nặng nề và xấu xa của tội lỗi là như thế, chúng ta hãy có lấy một điều dốc quyết và kiên trì thực hiện điều dốc quyết ấy, đó là thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về vua thánh Louis, ngày kia ngài cùng với một số quan chức đi thăm một trại cùi. Ngài hỏi một viên đại thần. Nếu ngươi được phép chọn lựa: Một là phạm tội trọng hai là mắc chứng bệnh phong cùi thì ngươi sẽ chọn đường nào.
Viên đại thần trả lời: kẻ hạ thần thà phạm một trăm tội trọng chứ chẳng thà mắc phải chứng bệnh ghê tởm ấy.
Thế nhưng nhà vua đã nói với ông ta: Còn trẫm, thà rằng trẫm mắc phải chứng bệnh ghê tởm gấp trăm lần chứ chẳng thà phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cố gắng xa tránh tội đã đành, còn khi trót phạm tội, chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa, hãy giục lòng thống hối ăn năn, như vua thánh Đavid ngày xưa: Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã vấp phạm đến Chúa, rồi sau đó thi hành ngay phương thế mà Chúa Giêsu đã chỉ cho người phong cùi.
Phương thế ấy như thế nào: Con hãy đi trình diện cùng tư tế. Phải chăng mỗi khi chúng ta phạm tội, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta rằng: Con hãy đi gặp linh mục nơi tòa giải tội.
Bởi vì như chúng ta đã biết, bí tích Giải tội chính là bí tích của lòng thương xót, nhờ đó mà chúng ta sẽ được Chúa tha thứ. Và tòa giải tội chính là nơi để chúng ta gặp gỡ và làm hòa cùng Thiên Chúa.
Có một người khô khan nguội lạnh, tới gặp một vị linh mục và nói: Thưa cha con tội lỗi nặng nề lắm, chỉ có một cách là thắt cổ chết quách đi cho rồi. Vị linh mục dẫn người đó tới chân tượng thánh giá và hỏi:
Ai chịu chết trên đó?
- Thưa, Chúa Giêsu.
Tại sao Ngài lại chịu chết?
- Thưa, để cứu chuộc nhân loại.
Vậy trong nhân loại có con hay không?
- Thưa, có.
Thế là người đó thêm niềm cậy trông, giục lòng ăn năn, xưng thú tội lỗi và tìm lại được sự bình an cho tâm hồn.
Hãy xa tránh tội lỗi để tâm hồn được bình an, đồng thời hãy ăn năn sám hối để lấy lại được tình nghĩa của Chúa.
65. Phong cùi
Bệnh phong cùi ngày nay không còn là một chứng bệnh nan y, nếu được chữa trị theo đúng phương pháp. Số người mắc bệnh cùi ở Việt Nam vẫn còn nhiều, khoảng 20.000 người. Họ thường phải sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh. Đa số bệnh nhân bị tật nguyền, không thể mưu sinh. Nói chung, họ luôn thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà ở cũng như thiếu tình thương chăm sóc.
Phần lớn trong họ chưa biết Chúa, nên trước những đau khổ thân xác và tinh thần, họ dễ rơi vào cảnh tuyệt vọng. Đã có những tấm lòng nhân hậu, noi gương Chúa Giêsu, cúi xuống trên nỗi bất hạnh của họ. Chẳng hạn các tu sĩ nam nữ, các giáo dân thiện chí tại những trại phong cùi, rải rắc trên toàn đất nước.
Thế nhưng, trong bối cảnh của xã hội Do Thái cách đây hơn 2000 năm, thì phong cùi quả là một chứng bệnh khủng khiếp. Họ bị đồng hóa với những kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt. Kiếp sống của họ thật đáng thương. Họ phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai phải bù xù, râu mép phải che lại. Họ bị xua đuổi khỏi cộng đoàn, sống tách biệt trong những nơi hoang vắng và nếu có đi tới đâu, thì phải kêu lớn tiếng: Tôi nhơ bẩn, để người khác nghe thấy mà tránh cho xa. Người mắc bệnh phong cùi như thế bị coi như là một người đã chết ngay khi còn đang sống. Họ chỉ là như một thây ma biết di động mà thôi.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại câu chuyện một người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu. Anh ta đã làm một điều táo bạo vượt ra ngoài luật lệ cho phép. Điều duy nhất khiến anh ta có can đảm để làm như vậy, đó là lòng tin vào Chúa Giêsu, một người mà anh đã được nghe nói đến. Anh ta không sợ mình làm cho Ngài bị nhơ bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính Ngài sẽ làm cho anh được sạch. Lòng tin này khiến anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài và kêu van:
- Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi nên sạch.
Tất cả ước mơ của anh là được khỏi bệnh, trở nên lành sạch, được làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Anh tin là Ngài có thể làm được chuyện lớn lao đó, miễn là Ngài muốn.
Trước tình cảnh bi đát này Chúa Giêsu đã động lòng thương, Ngài đã đưa tay ra đúng vào con người anh ta. Và Ngài trả lại cho anh ta toàn bộ những gì đã mất. Chúa Giêsu không ngại nhơ bẩn, bởi vì Ngài đã để cho lòng thương xót trào dâng.
Đoạn Tin Mừng trên đòi chúng ta phải thay đổi thái độ đối với những kẻ bất hạnh. Nếu hiểu phong cùi là chứng bệnh hiểm nghèo làm cho nên ghê tởm, thì trong xã hội còn biết bao nhiêu thứ phong cùi khác nữa. Chẳng hạn những người nghiện ma túy, những người trộm cắp từng vào tù ra khám, những người mắc bệnh Siđa… Chúng ta dễ có thái độ coi thường và xa tránh. Nhiều khi họ muốn trở nên lành sạch, muốn mọi người quên đi cái dĩ vãng lầm lỡ của họ và làm lại cuộc đời, nhưng chúng ta lại không tin là họ có thể thực hiện được điều ấy. Chúng ta phê phán cái bề dầy của dĩ vãng, chúng ta khinh bỉ và chê trách họ.
Chúa Giêsu đã đưa tay động tới người phong cùi và chữa lành cho anh ta. Ước mong phép lạ Chúa Giêsu ngày xưa được kéo dài bằng thái độ yêu thương và chăm sóc của chúng ta.
66. Tông đồ người phong
Có một hòn đảo nằm chơi vơi giữa biển Thái Bình Dương mênh mông, trên đảo chỉ toàn là những người phong: cụt tay, đứt chân, mắt đui, mày lở, răng rụng... Một hôm, Đức giám mục phụ trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các linh mục ở Âu Châu hãy tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một linh mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh đã hăng hái đáp lời, đó là cha Đa-Miêng, sau này được tặng thêm biệt danh "Tông đồ người phong".
Khi đặt chân đến hòn đảo này, cha Đa-Miêng đã được tiếp đón và giới thiệu như sau: chiều hôm đó, trong ngôi nhà thờ rất đông người phong, đức giám mục đứng trên bàn thờ quay xuống giới thiệu với mọi người: "Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng các con, yêu thương săn sóc các con, thì đây cha Đa-Miêng, một linh mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết, các con có sung sướng không?" Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng cạnh đức giám mục chẳng hiểu họ nói gì. Rồi họ từ từ bước lên cung thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Đa-Miêng thấy họ đến gần mình thì sởn tóc gáy và nổi da gà, trông họ như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây? Họ tiến đến bên cha, người thì sờ vào mặt, người thì sờ vào tay, người thì sờ vào áo cha.. Cha hỏi đức giám mục: "Thưa đưc cha, họ làm gì vậy?" Đức cha trả lời: "Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, trẻ trung, đẹp trai, không bệnh tật như họ, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này, họ không tin mắt mình nên họ đến sờ mó vào người cha, xem cha có bị phong như họ không, và họ nói với nhau: "Không, cha đẹp quá, cha không bệnh tật gì cả, cha thương chúng ta quá".
Sống với những người phong ở đây được một thời gian, dần dần Cha Đa-Miêng hòa đồng được với họ, nói tiếng của họ, cha không còn cảm thấy tởm gớm họ như những ngày đầu mới đến, nói đúng hơn, cha đã quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ, nên chẳng còn thấy ghê sợ gớm tởm nữa. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh phong, thân mình lở loét, nhức nhối, mặt mày sần sùi, đen đủi, trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha và kể lại sự hy sinh vĩ đại của cha. Thân mẫu của cha, mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình bà cũng chẳng nhận ra nổi đứa con yêu, bà hỏi đứa cháu: "Hình ai đây mà trông ghê sợ vậy?" cô cháu trả lời: "Một người phong bên đảo Môlôkai của cha Đa-Miêng đấy". Qua mắt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với người phong trên hòn đảo này cho đến chết, tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.
Phong, hủi hay cùi cũng là một thứ bệnh. Đã có lần nào anh chị em gặp một người phong cỡ nặng chưa? Mời anh chị em vào trại phong Di Linh, Quy Hòa, Bến Sắn... anh chị em sẽ thấy một người phong nặng, không còn hình tượng gì là con người nữa, tứ chi rụng hết, mặt mũi sần sùi, thân mình lở loét. Có người đến đây không chịu nổi sự dơ bẩn đã té xỉu vì hôi thối nặng mùi. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng sợ mắc phải chứng bệnh như thế, chúng ta sẽ tránh xa và gìn giữ vệ sinh cẩn thận kẻo mắc thứ bệnh này.
Cũng vậy, bệnh phong đối với xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị kể là dơ bẩn, một loại không thánh nữa, bị cô lập riêng ra một nơi, không được ở chung với dân làng, ngay cả cha mẹ thân nhân cũng không được chứa người đó trong nhà. Một người phong thời Chúa Giêsu là một nạn nhân thật sự bị ruồng bỏ, đi đâu người đó cũng phải lắc chuông loặc kêu lên "dơ, dơ" để mọi người biết mà tránh xa... Đau khổ nhất là bị cộng đồng Do Thái giáo gạt ra ngoài như một loại dứt phép thông công, cho nên, người mắc bệnh phong hết sức đau khổ về tinh thần cũng như thể xác, về của ăn họ chỉ sống nhờ của bố thí.
Nhưng trong câu chuyện Tin Mừng kể lại, chúng ta thấy người phong này đã đi vào xóm làng, chạy theo Chúa Giêsu và xin Ngài cứu chữa. Làm như thế là người này đã vi phạm luật lệ thời đó và có thể bị ném đá chết. Nhưng niềm tin vào Chúa đã khiến anh không sợ hãi để liều mình như thế. Thực vậy, anh đến với Chúa với một niềm tin tuyệt đối, anh khiêm nhường quỳ xuống van xin: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Chúng ta hãy để ý câu anh nói "Nếu Ngài muốn", anh nói như thế không phải là anh hồ nghi gì quyền năng của Chúa, mà ngược lại, anh hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Nói rõ hơn, anh biết rằng Chúa có thể và Chúa có quyền làm cho anh khỏi bệnh, nhưng điều đó còn tùy ý Chúa, tùy lòng thương xót của Chúa. Đây cũng là gương mẫu nhắc nhở chúng ta mỗi khi cầu xin Chúa điều gì: xin vâng, xin tùy ý Chúa, xin tùy lòng thương xót của Chúa.
Đàng khác, người Do Thái hết sức khinh bỉ những người phong, đến nỗi bất cứ ai giao tiếp cách nào với họ, như nói chuyện với họ thôi, cũng bị kể là dơ bẩn và không nên thánh được. Thế mà Chúa Giêsu đã nói chuyện và đụng chạm đến người phong này để chữa lành anh ta thì đủ nói lên lòng thương xót của Chúa như thế nào. Có những phép lạ Chúa chỉ phán một lời hay chỉ làm một cử chỉ nào đó, ở đây Chúa dùng cả hai: Chúa vừa nói "Tôi muốn, anh sạch đi" vừa cầm tay bệnh nhân để nói lên tình thương của Ngài đối với anh ta.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: những người phong là những người đáng thương, chúng ta đừng bao giờ sợ hãi mà xa tránh, nhưng hãy thật lòng thăm hỏi và cố gắng chia sẻ, giúp đỡ tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của chúng ta.
67. Hãy được lành! - Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Dù tình trạng bi đát đến mức nào, Chúa Giêsu vẫn có thể hoán chuyển thành tốt hơn, miễn là ta biết tin vào Ngài"
Năm 1981, nhạc sĩ vĩ cầm người anh, Peter Cropper được mời đến Phần Lan trình diễn một buổi hoà nhạc đặc biệt. Vì lòng ngưỡng mộ biệt tài của Peter, Viện Hàn Lâm âm nhạc hoàng gia đã biếu ông chiếc vĩ cầm vô giá tên là Stradivarius được chế tạo cách đó 285 năm, để ông sử dụng trong các buổi hoà nhạc. Chiếc nhạc cụ quí hiếm này mang tên nhà chế tạo vĩ cầm người Ý Antonio Stradivari. Nó được cấu tạo bằng 80 phiến gỗ đặc biệt với 30 lớp sơn bóng cũng đặc biệt. Âm thanh phát ra hết sức rõ ràng, du dương. Nhưng khi Peter Cropper đến Phần Lan, một cơn ác mộng khinh khiếp không thể tin được đã xảy ra. Vì khi bước lên sân khấu trình diễn, Peter bỗng trợt chân ngã xuống, làm chiếc vĩ cầm bị vỡ tan thành từng mảnh! thế là Peter trở về Luân Đôn tâm trí khủng hoảng cực độ. Một người chuyên sửa đàn dày dạn Kinh nghiệm tên là Charler Beare tình nguyện cố gắng hết sức phục hồi chiếc đàn cho Peter. Charler miệt mài làm việc ngày đêm với chiếc đàn vỡ. Thế rồi cuối cùng ông đã lắp ráp được toàn bộ các mảnh vỡ lại để làm thành chiếc đàn nguyên vẹn như trước. Và giây phút thử nghiệm hồi hộp đã đến, mọi người đều nín thở chờ xem âm thanh tiếng đàn phát ra. Beare trao chiếc vĩ cầm cho Peter Người nhạc sĩ vĩ cầm vô cùng hồi hộp cầm chiếc đàn lên bắt đầu chơi nhạc… Tất cả mọi người có mặt ở đấy không dám tin vào tai mình, bởi vì chẳng những âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như xưa mà xem ra hiện giờ còn xuất sắc hơn trước khi nó bị vỡ nữa!
Những tháng sau đó, Cropper đã mang chiếc vĩ cầm đi trình diễn vòng quanh thế giới. Và hằng đêm, chiếc vĩ cầm mà mọi người nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn bị hư phế đó đã mang lại cho Crroper biết bao lời hoan hô nồng nhiệt từ đám thính giả.
Câu chuyện về chiếc vĩ cầm trên là một hỉnh ảnh tuyệt hảo diễn ý những gì đã xảy ra cho người bị phong cùi trong bài Phúc Âm hôm nay. Thời xưa, không hình ảnh nào ghê tởm bằng hình ảnh người bệnh cùi. Ai ai cũng sợ bị anh ta lây bệnh. Đời sống của người bệnh cùi chẳng khác gì cuộc sống địa ngục. Người khác lấy làm gớm ghiếc anh ta đã dành, mà chính anh ta cũng kinh tởm chính mình nữa. Thánh vịnh 31 đã mô tả tình trạng thê thảm của anh như sau; "Những kẻ tôi quen biết đều sợ hãi tôi, trông thấy tôi ngoài đường là họ lánh xa… Tôi chả khác nào đồ vật phế thải" (Tv 31: 11-12). Thế mà đối với người phung cùi bị đát như vậy, Chúa Giêsu vẫn giơ đôi tay trìu mến của Ngài chạm vào và chữa cho anh ta lành bệnh.
Câu chuyện người phung cùi và câu chuyện chiếc vĩ cầm chứa đựng một sứ điệp quan trọng đối với tất cả chúng ta. Chúng cho ta thấy những điều vẫn thường xuyên xảy đến trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hạn một biến cố cực kỳ bi đát nào đó như; một người thân mình qua đời, bạn bè phản bội mình, tại nạn xẩy tới làm con mình tàn tật, cha mình mất sở làm, mẹ mình nghiện rượu… khi sự bất hạnh ấy chụp lên đầu chúng ta, lòng chúng ta đầy đớn đau, lo lắng, giống như người bệnh cùi lúc bị vướng bệnh, chúng ta cảm thấy cõi lòng tan nát, và giống như Peter khi đánh vỡ chiếc vĩ cầm, chúng ta cũng bị rơi vào tâm trạng hết sức khủng hoảng.
Vậy hai câu chuyện trên dạy chúng ta điều gì khi lâm phải những hoàn cảnh bi đát tương tự như thế? Chúng cho ta thấy không có hoàn cảnh bi đát nào khủng khiếp đến mức ta không thể vượt qua được. Không một tai hoạ nào tàn khốc đến mức không thể phục hồi được. Dầu cho rủi ro tàn phá đến mức nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nhặt lên những mãnh vụn và bắt đầu khiến tạo lại thành một hình dạng mới. Bất cứ khi nào chúng ta nghĩ rằng đời mình kể như vĩnh viễn tàn lụi, hư hỏng, chúng ta chỉ cần quay nhìn về Chúa Giêsu, Ngài có thể chữa lành cuộc đời tan vỡ chúng ta, giống như người sửa đàn tài hoa đã sửa chữa chiếc vĩ cầm bể nát nọ. Và Chúa Giêsu còn làm được hơn thế. Ngài có thể biến một cuộc đời tan nát thành tốt hơn, đẹp hơn trước đó nữa.
Cách đây nhiều năm một vụ nổ đã làm một chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở chân đến nỗi các bác sĩ nghĩ rằng cần phải cưa chân đi. Một người bạn nói với mẹ cậu bé: "Chị nên chuẩn bị đón nhận điều này, thằng Glenn của chị sắp sửa thành kẻ tàn phế suốt đời đấy!" thế mà hai năm sau, cậu bé đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những Glenn đi bộ được, cậu ta còn chạy được nữa, dù chạy không nhanh lắm, những dầu sao cậu ta vẫn chạy được, cuối cùng, Glenn vào được đại học. Hoạt động ngoại khóa của cậu là môn chạy đua, giờ đây cậu chạy không phải để chứng tỏ cho thấy thiên hạ đã lầm, mà chẳng là vì cậu có năng khiếu về môn này. Các kỷ lục liên đại học chẳng bao lâu bị đôi chân thoăn thoắt của cậu phá vỡ. Thế rồi kỳ Đại hội Ôlympic Berlin đã đến. Glenn chẳng những được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này. Năm sau, Glenn Cunningham lại phá vỡ kỷ lục môn chạy dưới vòm có mái che.
Cậu bé mà người ta từng cho là sẽ trở thành một phế nhân, nay đã trở thành vận động viên chạy chay nhanh nhất thế giới. Cậu bé mà cuộc đời tan vỡ vì vụ nổ kinh khiếp đã trở nên mạnh mẽ hơn cả khi biến cố bi đát ấy chưa xảy ra.
Thánh Phaolô tóm tắt sứ điệp chứa đựng trong các bài đọc hôm nay qua những lời thơ gởi tín hữu Corintô như sau: "Chúng tôi, thường bị âu sầu nhưng không bị đè bẹp, thỉnh thoảng bị rơi vào ngờ vực nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Và dầu nhiều lần bị ngược đãi, nhưng chúng tôi vẫn không bị tiêu diệt… vì lý do này, chúng tôi chẳng bao giờ ngã lòng. " (2 Cr 4: 8-9, 16)
Và trong thư gởi tín hữu Roma thánh Phaolô có nói; "Chúng tôi biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên tốt đẹp cho những kẻ yêu mến Ngài" (Rm 8:28)
Đây chính là "Tin Mừng" ẩn chứa trong các bài đọc Thánh Kinh hôm nay. Những bài đọc này dạy ta biết rằng dù ta có gặp tai nạn thảm khốc đến mức nào, chúng ta cũng vẫn có thể được chữa lành- giống như trường hợp chiếc vĩ cầm quí giá nọ. Những bài đọc dạy ta rằng bất cứ bệnh tật nào dù thê lương đến đâu xảy đến cho chúng ta như bệnh cùi chẳng hạn, chúng ta vẫn có thể được chữa lành dù sự kiện bi đát nào ụp xuống trên ta giống trường hợp xảy đến cho Glenn, chúng ta cũng vẫn có thể hoàn toàn phục hồi như cậu ta. Những bài đọc còn dạy chúng ta thêm điều này. Dù Chúa Giêsu có thể không chọn phương cách phục hồi toàn vẹn đời sống cho chúng ta, Ngài vẫn có thể dùng nghịch cảnh để biến đổi chúng ta trở nên tốt đẹp và có giá trị hơn trước.
Chúng ta hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện được tìm thấy trong túi một chiến binh tử trận.
"Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm nên những vịêc vĩ đại, thế mà Ngài lại bắt tôi yếu đuối để tôi có thể làm những điều tốt đẹp hơn. Tôi cầu xin được giàu có để sống hạnh phúc, thế mà ngài lại để tôi nghèo khổ hầu tôi được khôn ngoan hơn… Tôi cầu xin nắm được quyền cao chức trọng để được mọi người tán dương, thế mà tôi vẫn phải chịu cảnh thấp hèn để tôi cảm thấy cần đến Chúa…
Tôi chẳng nhận được điều gì tôi cầu xin, nhưng tôi lại nhận được mọi điều tôi hy vọng. Mọi lời cầu xin không thốt ra lời lại được đáp trả hầu như ngoài dự tính của tôi. Và như thế tôi được liệt vào số những người được Chúa chúc phúc nhiều nhất"…
68. Hàn Mặc Tử
Qua bài viết: “Nhớ Hàn Mặc Tử”, của ông Nguyễn văn Xê, người bạn đồng bệnh sống với anh Nguyễn Trọng Trí, tức nhà thơ Hàn Mặc Tử ở Quy Hòa vào những giây phút cuối cùng, đăng trên cuốn “Hằn Mặc Tử, Thơ và Đời”, do nhà xuất bản Văn Học, tôi mới giải quyết được nỗi thắc mắc. Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi hành hạ, thân xác vô cùng đau đớn, bị người đời xa tránh, ghê tởm, vậy mà sao thơ của anh lại thanh tao, siêu thoát “bay cho đến cõi thiên đàng”? Cả ý, lẫn lời, cùng với tâm hồn của nhà thơ đã thoát ra khỏi cơn bệnh khổ đau bay lên thật cao.
Câu trả lời đã nằm trong câu thơ: “Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh”, trong bài “Thánh Nữ Đồng Trinh Maria”. “Trí” là Nguyễn Trọng Trí, tên anh. “Miêu duệ” nghĩa là con cháu. Ý nói Hàn Mặc Tử tự nhận mình là con cháu của các thánh. Đúng như vậy! Vì trái tim của anh tràn ngập tình yêu thương. Nguồn suối yêu thương tuôn đổ xuống từ người mẹ, người chị, và Mẹ Juetta. Tất cả thu về một nguồn mạch chính, tình yêu Thiên Chúa qua Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Từ đó, anh tự hào mình là con cháu của các thánh, của tình yêu!
Trần thị Huyền Trang trong bài “Những Người Thân Yêu, Những Vòng Tay Nối Kết” đã viết như sau về người mẹ của Hàn Mặc Tử, bà góa phụ Nguyễn thị Duy: “Căn bệnh nan y của nhà thơ là gánh nặng trên đôi vai già nua của bà. Nhưng người mẹ, trước sau như một, tận tụy thương con, nghe bất cứ nơi nào có thầy thuốc giỏi là không nề xa xôi khổ cực; lẽo đẽo theo con đến tận nơi chữa trị. Bà cố dành cho Hàn mọi nguồn an ủi tinh thần, chăm chút từng sở thích của đứa con bạc phận. Bà tự tay làm cho Hàn món cá bống kho tiêu rim mặn… Khi Hàn quyết định vào bệnh viện phong Quy Hòa… bà khóc lóc sợ xa đứa con yêu quý”.
Theo tâm lý, trong những lúc lâm nguy người ta thường gọi đến mẹ như một trẻ thơ xin cầu cứu. Trường hợp của Hàn Mặc Tử cũng như vậy: “Mẹ ơi, con sắp chết nay mai. Con không sợ chết mẹ ạ. Nhưng nghĩ rằng con sẽ phải rời bỏ mẹ, con đau lòng quá”.
Về chị Nguyễn thị Như Lễ, chị của Hàn Mặc Tử “là người gần gũi Hàn Mặc Tử nhất về tính tình và sở thích. Nếu như mẹ được Tử nhìn qua hình ảnh Đức Bà Maria ở năng lực che chở và đức hy sinh thì chị Lễ… là hiện thân của Đức Bà ở vẻ đẹp sáng trong uyển chuyển…” “Với tình thương rộng lớn và niềm thông cảm sâu sắc, chị đã cố gắng cho Hàn cảm giác dễ chịu và tự do tuyệt đối”. “Chị đã có mặt trong những trang thơ… lặng lẽ và dịu dàng như một vầng trăng, tỏa đầy những luồng sáng thanh khiết và ấm áp”.
Và Mẹ Juetta người Pháp, phụ trách nhà thương Nam bệnh phong cùi ở Quy Hòa, đã săn sóc Hàn Mặc Tử ngay từ khi mới nhập bệnh viện, được ông Xê diễn tả như sau:
“… người bệnh nhân đó như bị tê hai chân nên gắng gượng lắm mới đứng lên được, đầu gối run run bước từng bước một, tay bám vào xe cho khỏi ngã. Mẹ Juetta: “Mau đưa tay cho mẹ đỡ xuống con”. Mẹ nói và bước tới xốc đỡ người bệnh xuống đất một cách nhẹ nhàng. Theo bàn tay dìu đỡ của mẹ Juetta, người bệnh cố đi như lết, đầu cúi xuống… đến giường số 3, mẹ dừng lại: “Trí, đây là chỗ của con”. … Mẹ Juetta bưng đến một tách lớn đầy sữa nóng, và múc từng muỗng cho Trí uống. Trí e ngại nói: “Xin mẹ để con tự bưng uống được”; mẹ lắc đầu nói: “Không được, để mẹ đút cho con uống vì sữa nóng sẽ làm con phỏng tay”. Rồi mẹ sung sướng mỉm cười thấy Trí cố gắng uống cạn ly sữa. Mẹ nói: “Con nằm nghỉ, chút nữa ăn cơm” và Trí lễ phép: “Con cám ơn mẹ”.
Những nguồn mạch yêu thương này đã tạo nên nghị lực mạnh mẽ cho Hàn Mặc Tử tự phấn đấu trong đau khổ và đã chắp đôi cánh cho thơ của anh bay lên trời cao, như chính Hàn Mặc Tử đã tâm sự với anh Xê:
“Trí và tôi thường nói chuyện với nhau và có lần Trí thổ lộ tâm tư đôi chút: Tôi đến Quy Hòa này là nơi có bãi biển, rừng dừa xanh, núi non hùng vĩ, cù lao xanh huyền ảo, đặc biệt là tình người, nên tôi được hưởng cái bình an của nội tâm, cái thanh tao của nguồn vui tưởng như đã chết trong khi ở thôn Tấn đầy đau khổ, nghèo túng, cô đơn, không một ai đến an ủi, săn sóc, dù là người thân quyến”.
Tình yêu cứu chuộc con người. Sự săn sóc đặc biệt của mẹ Juetta đã giải thoát Hàn Mặc Tử, đã giúp cho Hàn Mặc Tử sống giữa sự hôi thối của bệnh phong cùi lại cảm thấy “Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng”. Sống giữa khổ đau lại cảm nghiệm “Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”. Chỉ có tình yêu mới giúp Hàn Mặc Tử chắp cánh đại bàng bay lên khung trời cao rộng từ vực thẳm tăm tối của đau khổ và tuyệt vọng. Qua tình yêu đích thực phản ảnh tấm lòng của Đức Mẹ Maria đối với nhân loại, mẹ Juetta đã chữa lành tâm hồn của Hàn Mặc Tử:
“Lạy bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,
Giàu nhân đức, giàu muôn lộc từ bi,
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm nguy vừa trải qua dưới thế”.
Mặc dù đau đớn đến run rẩy nhưng lòng vẫn tràn ngập mến thương:
“Run như run hơi thở chạm tơ vàng…
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”.
Và sau cùng đã giúp anh “bay cho đến cõi thiên đàng” như ông Xê đã chứng kiến tận mắt: “Còn nói đến cử chỉ hành động bộc lộ ra ngoài mà tôi và mọi người thấy rõ ràng nhất là Trí trong những ngày giờ biết mình sắp chết thì rất sốt sắng lo về phần hồn của tôn giáo, nên Trí rất thích nói về Đức Mẹ Maria đầy ơn phước”.
Hôm nay, có hai bài đọc nói về bệnh cùi. Bài đọc thứ nhất trích từ sách Lêvi nói rõ người bị bệnh cùi phải “ở riêng một mình ngoài trại”. Còn bài Phúc âm diễn tả việc Chúa Giêsu giơ tay đặt lên người cùi, tiếp xúc với anh và anh được khỏi bệnh. Trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, bệnh cùi là biểu tượng của tội lỗi. Người Do Thái coi người bị bệnh cùi đã bị phạt bởi Thiên Chúa do tội lỗi của họ. Và sự lây lan của nó giống như sự lan truyền của tội lỗi. Do đó tất cả mọi người bị cấm đụng chạm đến họ. Họ bị tách biệt, cô lập ra khỏi gia đình, cộng đoàn và xã hội. Nhưng Chúa Giêsu, với tình yêu vô biên của Ngài: “Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy”. Ngài phá tan cái hàng rào ngăn cách, cái thành kiến sai lệch của cả ngàn năm. Nhờ đó tâm hồn anh ta đã được chữa lành trước khi bệnh phong cùi thể xác thực sự biến mất.
Quả thực, việc đặt tay hay đụng chạm đến người bệnh cùi phải là một việc khởi sự từ trong tâm hồn, từ con tim phát xuất yêu thương. Ngoài tình yêu ra không có một động lực nào có thể thúc đẩy chúng ta đến gần hay đụng chạm, chưa nói đến việc săn sóc. Một tình yêu lớn lao như Chúa Giêsu đã làm trước tiên, rồi mẹ Juetta ở trại phong Quy Hòa, và các sơ săn sóc các bệnh nhân bị cùi, bệnh AIDS… đã làm theo: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu:. (Jn 15, 13).
Chỉ nhờ tình yêu và ân sủng Thiên Chúa ban, con người mới có thể hành động được những việc phi thường như vậy thôi!
Truyện kể về việc Mẹ Têrêsa Calcutta đang săn sóc một người bệnh đầy thương tích nằm bên vệ đường. Anh hôi thối dơ dáy và bẩn thỉu. Khi mẹ đang lau rửa các vết thương cho anh, có một người khách qua đường trông thấy, cúi xuống nói với Mẹ Têrêsa như sau: “Trả cho tôi một triệu đôla tôi cũng không thể làm được việc này”. Mẹ Têrêsa bèn ngẩng đầu lên trả lời: “Tôi cũng vậy!”
Tiền bạc, của cải, vật chất hay bất cứ sự gì trên thế gian này cũng không thể làm cho người ta có thể hy sinh quên mình mà săn sóc cho các bệnh nhân bị phong cùi lở loét hôi thối được. Nhưng với tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa thì tất cả đều có thể làm được. Quyền năng của Thiên Chúa làm được mọi sự.
Đức Giám mục Fulton Sheen, nhà giảng thuyết trứ danh trên các show TV mỗi đêm thứ tư trong những năm 1955 – 1960. Một đêm ngài kể cho khán giả nghe về chuyến viếng thăm một trại cùi bên Phi Châu. Để làm quà ngài mang theo rất nhiều thánh giá bằng bạc có thể phát cho khoảng 500 bệnh nhân cùi trong trại. Bệnh nhân đầu tiên ngài gặp chỉ còn lại một cánh tay trái. Tay phải và bàn tay được băng bó với những vết thương nhầy nhụa. Đức cha mới cầm một tượng thánh giá, giữ nó cách bàn tay của người cùi chừng 10 cm và thả nó xuống lòng bàn tay của bệnh nhân. Trong một chớp nhoáng, ngài bị đánh động bởi chính việc ngài làm. Ngài nói:
“Thình lình, tôi nhận ra có 501 người cùi trong trại. Và người cùi ghẻ lở nhất là tôi. Tôi đã tặng họ cây thánh giá là biểu tượng tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa cho tất cả chúng ta. Nhưng rồi, tôi đã lấy đi mất cái tình yêu tuyệt đối đó và nhắm mắt lại trước cái ý nghĩa của nó đối với tôi. Tôi không dám nhìn thẳng vào cây thánh giá bé nhỏ. Và sau cùng tôi đã biết tôi phải làm gì. Tôi ấn bàn tay tôi vào bàn tay của những người cùi với một biểu tượng của tình yêu giữa chúng ta. Và rồi tôi đã làm y như thế cho 499 người bệnh cùi còn lại”.
Bao lâu chúng ta còn cảm thấy ghê tởm, sợ sệt và e dè là còn có ngăn cách. Còn ngăn cách là chưa có ân sủng và tình yêu đích thực. Mà không có tình yêu đích thực thì không thể nào làm cho một bệnh nhân phong cùi cảm thấy: “Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng” được! Huống chi là giúp cho họ cảm nghiệm: “Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng”!
69. Sự chấp nhận
Chắc hẳn rằng bệnh phong hủi là một căn bệnh khủng khiếp, nhưng không khủng khiếp bằng cảm giác không được yêu thương, không ai mong muốn mình bị ruồng bỏ. Một trong những điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho một con người, đó là bị xua đuổi. Sự xua đuổi gây tổn thương cho bất cứ cảm xúc hoặc tâm trạng nào khác. Điều này làm tổn hại đến giá trị bản thân, khiến cho người ta cảm thấy mình vô giá trị. Sự xua đuổi còn làm cho người ta muốn co rút lại hoặc công khai nổi loạn. Trong một bộ lạc ở Châu Phi, có một hình phạt chủ yếu là tẩy chay.
Sự xua đuổi gây tác hại đối với trẻ con, người lớn tuổi, người tật nguyền… Đối với một đứa trẻ, tình trạng bị cha mẹ bỏ rơi tương đương với cái chết. Người lớn tuổi sợ hãi bị bỏ rơi, còn hơn là tất cả những bệnh tật của họ. Những vết thương nặng nề nhất gây ra cho người bị tật nguyền, không phải là do những hạn chế của họ về mặt thể lý hoặc tâm lý, nhưng là do tình trạng bị bỏ rơi mà họ đã từng trải qua. Những người làm công việc sáng tạo (các nhà văn, nghệ sĩ v.v…) đều là những người nhạy cảm, dễ cảm thấy đau khổ, bất chấp những thành công mà họ đã đạt được. về một phương diện nào đó, mỗi người chúng ta đều đã từng cảm thấy nỗi đau bị khước từ.
Có những cách để tự cô lập mình khỏi tình trạng bị khước từ – phiêu lưu đôi chút, không muốn (không cần) gì cả, tránh né các mối quan hệ. Dường như tốt hơn là nên xây dựng những bức tường, và tránh né các mối quan hệ, hơn là liều mình chịu đau khổ vì bị khước từ. Nhưng điều này cũng giống như việc cưa chân đi, để khỏi cần phải mang giày.
Người đàn ông tiến lại gần Đức Giêsu là một người đã bị ruồng bỏ. Vì là một người phong hủi, nên anh ta bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Thậm chí người ta còn không được đụng chạm vào anh ta. Vào thời kỳ đó, bệnh tật bị coi như một sự trừng phạt vì tội lỗi. Do đó, người ta coi người phong hủi cũng bị cả Thiên Chúa ruồng bỏ. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người phong hủi không phải là căn bệnh phong hủi, nhưng chính là nỗi đau bị tất cả mọi người ruồng bỏ.
Khi chúng ta khước từ người nào, là chúng ta đang thực sự cư xử với họ giống như những “người phong hủi”, mặc dù chúng ta không ý thức về điều đó. Chúng ta có thể khước từ một người, theo những cách thế nhỏ bé nhưng tinh tế – bằng một giọng nói hoặc thậ chí chỉ bằng một cái nhìn của chúng ta. Nhưng những chuyện khó chịu nhỏ nhặt do bị khước từ, lại có thể tích lũy thành những hậu quả trầm trọng lâu dài.
Điều thú vị không phải là việc Đức Kitô chữa lành người phong hủi, nhưng là cách Người chữa lành cho anh ta. Vì bị tất cả mọi người loại trừ và ruồng bỏ, nên những kẻ phong hủi bắt buộc phải rung chuông báo hiệu mọi người, mỗi khi người đó ra đường; không một ai muốn đến gần họ, vì sợ bị lây nhiễm, và bị qui cho là không tinh sạch.
Nhưng Đức Giêsu lại bỏ qua tất cả điều này. Người đã động lòng thương, khi nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của người phong hủi. Đức Giêsu cho phép người đó đến gần Người. Thật ra Người đã làm một điều mà không ai ngờ: Người tiến lại gần và đụng chạm vào anh ta. Bằng cách đó, Người đem đến cho anh một dấu hiệu đón tiếp, và chấn chỉnh nơi anh ta ý tưởng rằng mình là người dơ bẩn, không xứng đáng, và không là gì cả, mà chỉ là một hạng người thừa. Trước khi chữa lành cho thân xác tan nát của anh, Người đã chữa lành sự nhận thức đầy mặc cảm nơi anh.
Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi đúng theo con người của anh. Sự chấp nhận là một câu trả lời cho sự khước từ. Đây là một trong những điều thân ái nhất có thể xảy ra cho chúng ta. Khi chấp nhận, chúng ta có cảm giác rằng con người mình có giá trị.
Mỗi người chúng ta đều khát khao được chấp nhận con người của mình. Chính sự quí mến và chấp nhận của người khác, làm cho chúng ta được là con người duy nhất theo đúng bản chất của mình. Khi chúng ta cho rằng mình làm việc chỉ vì công việc, rằng người khác cũng có thể làm cùng một công việc đó, thậm chí còn tốt đẹp hơn chúng ta, thì chúng ta không phải là con người duy nhất. Nhưng khi chúng ta chấp nhận con người của mình, thì chúng ta có khả năng nhận ra được đầy đủ tiềm năng nơi bản thân mình.
Đây là cách Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi, và chấp nhận chúng ta. Và đến lượt mình, đây cũng là cách thế mà chúng ta phải học hỏi, để biết chấp nhận người khác, và tiếp cận với những người đang phải chịu đựng nỗi đau khổ tình trạng bị khước từ. Đến lượt mình, chúng ta phải có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
70. Chúa Nhật 6 Thường Niên.
Anh chị em thân mến.
Chúng ta biết câu chuyện nàng công chúa lọ lem.
Một cô gái hiền từ xinh đẹp, siêng năng cần mẫn trong công việc, nhưng lại phải sống trong một hoàn cảnh thật éo le. Những người chung quanh không thông cảm cũng không nhìn thấy những cực khổ mà nàng phải chịu, lại còn tìm cách làm cho nàng phải vất vả thêm.
Có dịp lễ hội nàng ước mong đi tham dự, nhưng khó quá. Nàng không biết làm sao cho công việc được kết thúc sớm, cũng không biết làm sao có bộ áo đẹp để dự lễ hội như những thiếu nữ cùng trang lứa khác. Điều nàng muốn đã được thực hiện; công việc được kết thúc và áo đẹp cũng được mang đến cho nàng. Nhưng dự lễ hội nàng phải lo về sớm trước giờ quy định. Trong lúc vội vàng trở về, nàng đánh rơi chiếc giầy của mình.
Ở hiền gặp lành, điều nàng mong muốn thoát khỏi cảnh cơ cực đã được thực hiện. Vị hoàng tử đã cho nàng thoát cảnh lọ lem, cho nàng một địa vị mới. Nàng đã hoàn toàn thay da đỗi thịt. Từ nay nàng không còn phải cực khổ, không còn phải lam lủ, nàng đã được hoà nhập với mọi người, được mọi người biết đến và yêu thương. Nàng đã cố gắng và được giúp đở để nàng đạt được những gì mình mong muốn.
Nếu Ngài muốn, Ngài cho tôi nên sạch.
Lời van xin thống thiết nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng mà anh ta van xin. Người cùi thốt lên được lời van xin nầy vì anh ta nhận ra được tình trạng hiện tại của mình, anh ta cảm nhận được tất cả nỗi thống khổ mà mình đang mang. Anh ta mong muốn thoát khỏi nó: anh muốn thoát khỏi những đau đớn của thể xác lẫn tinh thần, anh muốn thoát khỏi nỗi cô đơn để có thể hoà nhập được với cộng đoàn. Anh càng mong muốn hơn cho mình được trở nên tinh sạch như mọi người, bản thân anh cũng không chấp nhận được tình trạng hiện tại của chính mình. Ước muốn và hành động để thực hiện ước muốn. Anh vượt qua mọi trở ngại và đến với Chúa Giêsu, anh vượt trở ngại của đám đông, trở ngại của căn bệnh, trở ngại của sự e dè trước những luật lệ của xã hội.
Chúa Giêsu nhìn thấy anh cùng với nỗi niềm ước mơ chân thành. Ngài ban cho anh những gì cần thiết để anh được tinh sạch, trở về cuộc sống đời thường. "Ta muốn, anh hãy trở nên sạch".
Thiên Chúa cũng muốn cho hết mọi người như thế. Ngài cũng nói với mỗi người chúng ta như thế: "Ta muốn, con hãy trở nên sạch".
Nhưng những gì Thiên Chúa muốn, có phải là những gì mà mỗi người đang muốn? Hay những gì Ngài muốn, mà đành phải chờ đợi vì không thấy con người đến với Ngài để Ngài thực hiện ý muốn.
Mỗi người trong chúng ta, để một chút thinh lặng, nhìn vào tình trạng hiện tại của chính mình. Mỗi người đang mang một căn bệnh của thời đại, căn bệnh truyền nhiễm mà không ai có thể đến gần được, căn bệnh làm cho con người của mình chết dần chết mòn theo năm tháng, căn bệnh làm cho chúng ta không thể hoà nhập được với mọi người. Cũng chính căn bệnh đó làm cho con người trở nên cô đơn tuyệt vọng. Nhưng chúng ta có nhìn thấy, có nhận ra tình trạng hiện tại của mình không? Chúng ta có muốn thoát khỏi nó để tìm mọi phương cách, cố gắng như nàng công chúa lọ lem. Nếu chúng ta biết cố gắng, muốn thoát khỏi những đau khổ của hiện tại mà biết tìm đến với Chúa, cầu xin và vâng thheo thánh ý Chúa. Nếu mỗi người biết thực hiện ý muốn ngay lành của mình, mà đến trước mặt Chúa với lòng chân thành, thì tình trạng hiện tại của chúng ta có lẽ khá hơn bây giờ nhiều lắm.
Mỗi người đang bằng lòng với những gì của hiện tại và không muốn bỏ đi những gì mình đang có. Chúng ta không muốn cho mình sạch hơn, mới hơn, cũng không muốn đến với Chúa. Còn việc hoà nhập với mọi người, không cần thiết, vì bản thân của mình tự rời xa mọi người, để không còn phải nghe những lời nói mà mình không thích. Chúng ta cũng không muốn nghe lời nói của Chúa Giêsu: "Ta muốn con hãy trở nên sạch". Nếu như thế thì làm sao Thiên Chúa có thể làm gì được cho chúng ta.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết nhận ra tình trạng hiện tại của chính mình, biết năng đến với Chúa để Ngài làm cho chúng ta được trở nên sạch.
71. Mùa tình yêu – Lm Giuse Đỗ Vân Lực
Mùa tình yêu đã đến. Những bó hoa thơm ngát đưa hương tình yêu vượt qua mọi biên giới. Tình yêu đem con người lại gần nhau. Tình yêu đan chéo cuộc đời. Tình yêu là một sức mạnh sáng tạo và mạc khải những khung trời huyền nhiệm trong thế giới con người. Chính sức mạnh tình yêu đã kéo Con Thiên Chúa đến trần gian, khiến Đức Giêsu có thể đến với những người đau khổ nhất. Hôm nay Chúa đến với người phong cùi để mạc khải tất cả sức mạnh tình yêu Thiên Chúa vượt qua mọi trở ngại và phục hồi giá trị đích thực cho con người.
Số phận con người
Mặc dù khoa học và xã hội đã đi đến những bước nhảy vọt trong việc phục hồi giá trị cho những người phong cùi, nhưng ngày nay những người phong cùi vẫn phải sống trong một thế giới riêng. Bình thường việc đó chỉ có tính cách xã hội, vì sợ lây bệnh. Nhưng ngày xưa luật Do thái còn muốn đi xa hơn. Những người phong cùi bị mất hẳn tư cách tôn giáo, bị loại ra khỏi cộng đoàn phượng tự. Đó là một nỗi sỉ nhục lớn lao cho những người mắc bệnh nan y. Tất cả đều xa lánh. Kể cả thần thánh cũng không chấp nhận những con người khiếm khuyết và không còn xứng đáng làm phần tử xã hội Giavê, một xã hội chuyên lo phụng tự. Thiếu lành mạnh thân xác tố cáo một linh hồn tội lỗi. Khi đã bị các tư tế chứng nhận mắc bệnh, người phong cùi phải biệt lánh ra một nơi, phải để tóc râu phủ kín người và phải la lên cho mọi người tránh xa. Họ phải xa lánh mọi người kể cả gia đình và bạn bè. Nói tóm, họ bị tước hết quyền làm người. Chính vì thế, Đức Giêsu đã đến phá vỡ hàng rào ngăn cản người phong cùi với cộng đồng. Phép lạ Người làm không chỉ nhằm chữa tật bệnh thể xác, nhưng còn trả lại quyền làm người và đưa họ về với làng xóm, về cuộc sống cộng đồng. Bởi vậy, khác với mọi người tránh xa vì sợ lây bệnh, Đức Giêsu “giơ tay đụng vào” người phong hủi (Mc 1:41). Hơn nữa “Người chạnh lòng thương” (c.41) trước lời van xin tha thiết của người bệnh: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c.40). Quyền lực của Người không thể kìm nổi trước một đức tin mạnh mẽ như thế. Người nói: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (c.41). Điều mơ ước của người phong hủi đã thành sự thật: “Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (c.42). Còn niềm vui nào lớn hơn?! Anh đã chứng kiến một ân phúc lớn nhất trong đời anh. Thân thể anh từ nay sạch hết mọi vết thương mưng mủ. Chân tay lành lặn. Da dẻ mịn màng như tất cả mọi người.
Điểm quan trọng không phải là thân xác lành mạnh, nhưng là toàn thể cuộc sống của anh. Để được hội nhập vào cộng đoàn, anh phải tuân theo lời căn dặn của Đức Giêsu: “Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” (c.44). Đó là thủ tục tối thiểu để người phong cùi trở lại cuộc sống bình thường như mọi người. Từ nay anh sẽ lấy lại tất cả những tương quan đã mất. Bạn bè, gia đình, thân nhân anh sẽ vui mừng biết chừng nào khi nhìn thấy anh trở lại với làng xóm! Anh sẽ chia sẻ quyền lợi và nghĩa vụ với mọi người. Từ nay không ai có quyền khinh bỉ anh nữa. Anh đã thực sự làm người và có thể hãnh diện về những đóng góp của mình vào cuộc sống xã hội. Niềm vui lớn lao như thế làm sao giữ kín mãi trong lòng? Bởi vậy, mặc dù Đức Giêsu cấm anh “đừng nói với ai cả” (c.44), “nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được” (c.45).
Tin mừng ấy đã đến với mọi người. Chính vì biết quên mình và chỉ sống “để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31), Đức Giêsu đã lăn xả vào mọi hoàn cảnh để “cho nhiều người được cứu độ” (1 Cr 10:33). Thánh Phaolô đã theo sát gót Thày chí thánh, đến nỗi ông đã hãnh diện khuyên nhủ tín hữu Côrintô: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1). Theo Đức Kitô không phải để làm phép lạ, tạo sự kinh ngạc cho nhiều người. Nhưng theo Đức Kitô để phục hồi quyền con người và trả lại cho con người những tương quan tốt đẹp nhất trong cộng đồng nhân loại.
Giá trị con người trong cộng đồng nhân loại
Tình yêu đã thúc đẩy Đức Giêsu đến với con người trong hoàn cảnh cùng cực nhất. Người đã phục hồi thể xác, nhân phẩm cá nhân và giá trị đích thực của cộng đoàn. Nếu mọi người đều có một thái độ đến với đồng loại như Người, chắc chắn mọi biên giới giữa người với người đã sụp đổ từ lâu. Nhưng cho tới nay, giữa con người vẫn còn quá nhiều xa cách về chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, chính trị, tôn giáo v.v. Chính vì vậy cần có một cuộc canh tân mãnh liệt theo tinh thần Đức Giêsu để xóa tan những ngăn cách tưởng tượng dựa trên giàu nghèo, địa vị. Tất cả đều phải vì con người. Khi không giúp con người làm người nữa, mọi tương quan đều vô nghĩa.
“Con người được kêu gọi để sống hiệp thông và sống thành cộng đoàn, cùng hiện hữu với và vì người khác. Dĩ nhiên, con người không sinh ra cho cộng đoàn hay tập thể đến nỗi phải hi sinh quyền lợi con người cho cộng đoàn hay tập thể. Trái lại, cộng đoàn hiện hữu vì con người là những thành phần của cộng đoàn, và mục đích của cộng đoàn hay tập thể là bảo vệ và cổ xúy quyền làm người.” (Dwyer 1994:733) Khi chỉ còn biết có tập thể, người ta quên mất nguồn gốc và mục đích của tập thể đó. Xét về mọi phương diện, cộng đoàn hay tập thể không thể có trước con người. Cộng đoàn hay tập thể cuối cùng cũng chỉ là một phương tiện giúp con người đạt tới cứu cánh cuộc đời mà thôi. Chính vì thế Đức Giêsu đã không ngần ngại đến với những người nghèo khổ, bệnh tật, bị đàn áp và gạt ra ngoài lề xã hội, để trả lại địa vị đích thực của con người.
Không làm người, không thể xây dựng giá trị đích thực nhân bản và siêu việt. Khi đã làm người, con người mới xây dựng những cơ cấu để giúp nhau đạt tới mục đích cuộc sống cách nhanh nhất và hoàn hảo nhất. Nói khác, “con người được kêu gọi để tham dự vào việc tạo thành xã hội hầu thăng tiến hạnh phúc các thành phần xã hội.” (Dwyer 1994:734) Chính vì thế, những luật lệ không còn phù hợp với con người thời đại đều cần phải xét lại. Mỗi thời đại đều có những nhu cầu và khuynh hướng riêng. Bởi thế con người được mời gọi không ngừng tham gia vào việc thành hình và cải tổ cơ chế xã hội để đáp ứng những đòi hỏi thời đại. Không ai có thể phủ nhận quyền lợi và bổn phận đó của con người.
Tất cả giá trị con người đều tuỳ thuộc tình yêu. Chính trong tình yêu, các bạn trẻ mới nhận ra giá trị người yêu. Thiên Chúa cũng mở ra một mùa tình yêu khi sai Con Một đến với những người nghèo khổ nhất, những người đã bị chính anh em mình chối bỏ. Với sức mạnh tình yêu, người môn đệ đích thực có thể vượt qua mọi trở ngại để Đức Kitô mạc khải cho mọi người biết “Thiên Chúa là tình yêu.”(1 Ga 4:16) Chỉ khi nào “Đức Kitô là tất cả và ở trong tất cả,” (Cl 3:11) giá trị đích thực con người mới được thành toàn. Tất cả mọi nỗ lực đều hướng tới niềm hi vọng đó, vì tình yêu Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả sức mạnh nơi cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nhưng làm sao nhận ra sức mạnh vô song của tình yêu, nếu không cầu nguyện? Quả thực, “sức mạnh lời cầu hệ tại việc chiêm nghiệm hai chân lý nền tảng: tình yêu và lòng trung tín của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện sẽ chiếu toả trong thế giới, biến thành chứng từ cho những ai không cùng chia sẻ niềm tin với chúng ta. Bởi đó, ca ngợi tình yêu và lòng trung tín của Thiên Chúa trở thành một chứng từ có thể biến đổi thế giới, một thế giới bị đe doạ vì kỹ thuật đang che mờ cõi thiêng, lòng tự mãn đang tràn ngập xã hội.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 5/2/03)
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam