Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1371162

LÀM CHỨNG VỀ THẦY

Làm chứng về Thầy - ViKiNi

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)

Muốn làm chứng đầy đủ về ai, người ta thường kể tiểu sử nhân vật đó từ khi sinh đến khi chết. Về các anh hùng, danh nhân, sử sách thường ghi những chiến công, những thành tích siêu quần bạt chúng: Hưng Đạo với chiến thắng oai hùng Bạch Đằng, Quang Trung với chiến thắng thần tốc Đống Đa.

Đức Giêsu làm chứng mình đã sống lại thật, bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các tông đồ tin, Người đã làm hết mọi cách, từ tâm lý đến vật lý, từ lịch sử đến thực hiện đúng lời đã hứa.

Về tâm lý: Người chúc lành cho các ông: “Chúc anh em được bình an”. Bình an là trạng thái hòa hợp lành mạnh trong tâm trí, trong cơ thể và trong tương giao với người khác. Các tông đồ đang trong hoàn cảnh xao xuyến, lo âu, bối rối, hoảng sợ. Cần thiết Chúa phải ổn định tinh thần các ông, làm cho tâm trí các ông bình tĩnh, lành mạnh, yên hàn, các ông mới sáng suốt nhận định rõ ràng. Khi các ông được bình an, Chúa mới chỉ cho các ông thấy về thể lý bên ngoài.

Về thể lý: Người bảo các ông phải phân biệt rõ ràng Thầy khác với bóng ma hiện về: Người chết hiện về, chỉ là bóng ma không rờ xem xương thịt được. Còn Thầy: Thầy đưa chân tay, xương thịt cho các ông rờ xem. Các ông đã nhìn tận mắt, xỏ tận lỗ đinh chân tay Thầy. Ma không ăn uống như người sống, còn Thầy, Thầy cầm lấy khúc cá nướng do chính các ông đưa và Thầy ăn trước mặt các ông.

Về lịch sử: Khi các ông đã trở về tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi Thầy mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch sử: “Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Môisê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy, đều phải được ứng nghiệm”.

Đó là những sách người Do thái đọc mỗi ngày Sabbat trong các hội đường. Họ thấy rõ toàn bộ Kinh thánh diễn tả toàn bộ lịch sử dân tộc hướng về Đấng Cứu Thế. Mỗi một vĩ nhân trong lịch sử dân tộc đều là một điển hình chỉ về Đấng Cứu Thế, như: Noe, Abraham, Giacóp, Giuse, Môisê, Giosuê, David, Salômon … Nhưng không một vĩ nhân nào hội đủ mọi tư cách của Đấng Cứu Thế. Đời sống mỗi vị đó chỉ diễn tả được vài tư cách đặc sắc của Đấng Cứu Thế. Chỉ có Đức Giêsu, Đấng độc nhất, hội đủ moi nhân cách và hoàn thành mọi ưu điểm của Đấng Cứu Thế, vì chính Người là Đấng Cứu Thế. Mỗi một tiên tri cũng chỉ loan báo một vài mầu nhiệm về Đấng Cứu Thế, dù vĩ đại như Êlia, Êlisê, Isaia, Giêrêmia hay Êzêkiel cũng không thực hiện được đầy đủ lời Thiên Chúa mặc khải cho họ. Các vị ấy đều thấy mình bất xứng như tiên tri Isaia đã thốt lên: “Khốn cho tôi, tôi là người môi miệng nhơ bẩn, ô uế” (Is. 6, 5).

Chỉ mình Đức Giêsu là Đấng thực hiện mọi mầu nhiệm làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” (Mc. 1, 11).

Đức Giêsu nói cho các tông đồ biết toàn bộ Kinh thánh đã ứng nghiệm về Người. Nếu Kinh thánh không ứng nghiệm về Người, thì toàn bộ Thánh kinh là giả dối vì Kinh thánh loan báo về Đấng Cứu Độ và ngoài Đức Giêsu ra không ai đem lại ơn cứu độ (Cv. 4, 12). Để thấy rõ như thế Người đã “dẫn giải cho các ông những điều viết ve Ngài trong toàn bộ Kinh thánh” (Lc. 24, 27 theo Nguyễn thế Thuấn dịch). Để có thời gian giải thích, chắc Người phải ở với các ông lâu dài, như thánh Luca đã xác định là bốn mươi ngày được ghi rõ trong sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về nước Thiên Chúa” (Cv. 1, 3).

Thời gian bốn mươi ngày đã quá đủ để các tông đồ thấy chắc chắn: Thầy đã sống lại thật.

Đến lượt các tông đồ được Người trao cho sứ mạng: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em làm chứng về những điều này”.

Trong bài đọc một, Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Chúa Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Người, và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử phải tha. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân, và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi họ phạm, họ đã ăn năn sám hối: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv. 2, 41).

Bài đọc hai, Gioan đã làm chứng về “Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời Đức Kitô là kẻ nói láo.

Đức Kitô đã làm chứng về Người đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các tông đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức làm chứng về Người.

Chúng ta không làm chứng về Đức Kitô, chúng ta là người không có lòng mến Thiên Chúa và biết được mình không ở trong Đức Kitô, thì chúng ta không thể được sống lại vinh quang với Người.

Lạy Chúa Cha toàn năng, xin cho chúng con biết làm chứng về Đức Giêsu Kitô bằng đưa bình an đến cho mọi người, bằng hy sinh chịu thương khó phục vụ mọi người, bằng học hỏi và loan truyền lời Chúa và nhất là thực hiện sống đúng với lời mình nói. Như Chúa Giêsu đã thực hiện đúng với lời Thánh Kinh và lời Người loan báo: “Con Người phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, sẽ từ cõi chết sống lại”.

 

42. Sự thử thách cho trọng tâm đức tin.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Để tránh sự mập mờ khó hiểu của một từ, mà theo ngôn ngữ thông thường ý nghĩa của nó đi từ sự khảo sát dĩ vãng theo con mắt khoa học, đến khái niệm về một truyện tích thần kỳ –ở đây chúng ta không muốn nói đến những “câu chuyện” thuật những lần Chúa hiện ra, mà chỉ bàn đến những đoạn tường thuật trong Phúc Âm. Ký sự của thánh Luca về lần Chúa hiện ra trong phòng Tiệc ly, nhấn mạnh sự việc các môn đệ nhận ra một người đang sống mà các ông tưởng là mãi mãi khuất bóng. Các ông tưởng nghĩ Chúa nằm yên trong mộ. Vậy mà Chúa cho các ông thấy Người đang sống. Chúa khẳng định: Chính là Ta đây. Sự kiện này quá vĩ đại, nên các ông chưa thể trong phút chốc chấp nhận thực tai trước mắt. Vì thế, Chúa đưa ra những bằng chứng về nhân dạng Người: Chúa muốn cho các ông chạm tay vào người Chúa, cho các ông nhìn những vết sẹo ở tay chân Người. Chúa lại dùng bữa trước mặt các ông.

Đoạn Phúc Âm có sức kích thích mạnh, cho thấy các Tông đồ đã sống sự kiện Phục Sinh, coi đó là một biến cố thật sự xảy đến cho Chúa, chứ không như một kinh nghiệm tôn giáo đơn giản. Nếu sự sống lại vì có tính cách phi thường cho nên phần nào ở ngoài vòng kiểm soát của khoa sử học với khả năng hạn hẹp của loài người- thì ở đây ta thấy sự Phục Sinh như là một sự kiện gây nền một niềm xác tín vững mạnh trong tập thể một nhóm người. Các ông xem sư Chúa sống lại như một biến cố cũng có tính cách cụ thể như những biến cố cũng có tính cách cụ thể như những biến cố Thương Khó. Mặc dù vượt quá những khuôn khổ nhân loại của những sự kiện dĩ vãng được khoa sử học, khoa học khảo sát, sự Phục Sinh hiện diện như là một sự kiện được kiểm soát, dựa trên lời chứng của các Tông đồ. Người ta có thể trích dẫn ra đây một câu trong sách Công Vụ. Sau cuộc Thương Khó, Người cho họ thấy mình van sống, với nhiều bằng chứng rành rành (1,3).

Để suy niệm, chúng ta giữ lại 2 điểm

1) Vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được, và chỉ kinh ngạc. Chúng ta thích thú mà nhận thấy rằng ngay cả đối với các môn đệ, tin vào sự sống lại không phải là việc dễ. Tâm trí con người hiện đại rất khó chấp nhận sự sống lại của một kẻ chết. Chỉ cần thêm một chút tưởng tượng thôi, thì sự Phục Sinh chỉ là một huyền thoại đối với những người biết suy xét. Điều khó khăn ấy gây trở ngại cho niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta đứng trước sự thử thách về đức tin, vì chính đời sống Kitô hữu xây móng trên niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa. ta hay gạt hết những gì là tưởng tượng khỏi tâm trí ta. Một cách rất đơn sơ, cùng với các Tông đồ, chúng ta đặt niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu từng bị đóng đinh, giờ đây đang sống. Nếp sống của Chúa đã thay đổi, nhưng đích thật Người –một Đấng vừa có thể xác, vừa có thiên tính- đã bằng sự Phục Sinh của Người, đóng dấu ấn lên công cuộc cứu rỗi của Người.

2) Nhân danh Người, phải được rao giảng việc hối cải để được tha thứ tội lỗi. Trong bối cảnh tổng quát của nền tư tưởng Kitô giáo, câu đó rất phong phú.

Sau đây là một quan điểm có một giá trị của nó. Tội lỗi làm cho con người mất quân bình, sinh ra lầm đường lạc lối, cho nên tội lỗi xô đấy con người đến chỗ hoặc làm Thiên thần hoặc làm giống thú. Tại sao? Vì lẽ con người là cơ thể và tâm trí hợp nhất, lẽ thứ hai là tội lỗi đem hỗn loạn vào cơ thể và tâm trí. Thế quân bình hoàn chỉnh giữa cơ thể và tâm trí đươc thực hiện trong Đức Kitô Phục Sinh. Chúa vừa có tính chất siêu nhân loại thần kỳ, vừa mặc một xác phàm cụ thể. Trong Chúa không có tội lỗi mà chỉ có nhân vị thành toàn và bản thể chính trực. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh trở nên một thứ men phi thường cho sự thành toàn con người cả hồn lẫn xác. Đó là một sức mạnh thiêng liêng, nó loại bỏ tội lỗi và dẫn đưa con người tới sự thành toàn một số mệnh chung cho xác hồn.

 

43. Làm chưng

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng,OP.)

Chúa Giêsu chết vào chiều thứ sáu, rồi cả ngày thứ bảy cuối tuần qua đi yên tĩnh, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đến sáng sớm ngày đầu tuần kế tiếp, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong mộ. Ai cũng tưởng thi hài Ngài bị đáng cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế. Nhưng liền sau đó và cả ngày hôm ấy, Ngài hiện ra với người này người kia và cả với các môn đệ. Tất cả đều được kinh nghiệm tay sờ, mắt thấy, tai nghe. Tất cả đều xác nhận: Chúa Giêsu đang sống.

Cụ thể như câu chuyện kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Diễn tiến cảnh Chúa hiện ra này gồm có hai phần: Phần thứ nhất, Chúa dùng những hành động cụ thể để minh chứng Ngài đã sống lại thật sự. Phần thứ hai, Chúa trao cho các môn đệ một sứ mệnh mới: hãy làm chứng về việc Chúa Phục Sinh cho mọi người. Về việc Chúa sống lại, chúng ta đã tìm hiểu nhiều lần rồi, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu phần thứ hai: các tông đồ đã thi hành sứ mệnh làm chứng cho Chúa Phục Sinh thế nào?

Làm chứng là gì? Làm chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xảy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.

Hiểu như vậy, các tông đồ là những chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về cuộc đời của Chúa Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa. Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Chúa Giêsu đều bắt đầu và kết thúc ơ mầu nhiệm Phục Sinh. Phục Sinh của Chúa Ki-tô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những đieu đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.

Sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu Thế...các tông đồ đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và đã sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.

Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố: "Chúng tôi xin làm chứng". Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa: "Xin quý vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe".

Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 tông đồ, lại có biết bao lớp tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.

Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phao-lô VI đã nói: "Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân". Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, nhất là phép thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Ki-tô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa. Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Anh chị em nghĩ sao về câu nói: "Tôi đã đọc Tin Mừng, cuốn sách hay quá. Đức Giêsu là một vị đáng khâm phục. Nhưng tôi sẽ không bao giờ trở nên người tín hữu của ông ta, vì nhiều người Công giáo gặp tôi, họ không thực hiện bác ái Đức Ki-tô, họ không tuân giữ những điều Ngài dạy, và họ chỉ mang danh là Công giáo chứ không phải là người Công giáo thực sự". Chúng ta có vào số những người Công giáo đó không? Chúng ta có phải là một tông đồ, một chứng nhân Chúa không?

 

44. Niềm tin thắng vượt sợ hãi

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống như một người yếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.

Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngưạ. Cậu con thường với ve do dự:

- Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình. Nghe con nói như thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:

- Với đèn sáng này, thấy rõ đến đâu?

Cậu trả lời: con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.

Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: từ đó con nhìn tới đâu nữa?

- Con nhìn tới cổng, cậu đáp.

Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:

- Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.

Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.

Thưa anh chị em,

Chính các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng là bóng ma. Tin Mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối Phục Sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trươc đó, đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một “bóng ma” đi trên mặt nước. Các ông kêu rú lên “ma kìa!”, nhưng đã được trấn an ngay: “Thầy đây, đừng sợ!” (Mc 6,47-50)

Chúng ta có thể đặt hai câu truyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự Phục Sinh và thiên tính của Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác Phục Sinh, Ngài muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.

Chúa đã quở trách các tông đồ: “Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ?” lời quở trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạn thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy, vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: “Tại sao lại hoảng hốt và nghi ngờ” (Có Thầy đây mà còn sợ gì?). rồi Ngài ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã “thức dậy”rồi: Ngài đã sống lại rồi. Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã Phục Sinh và đang sống với anh em.

Tuy nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới an tang trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn và thân xác mang thương tích của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: “Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy Thầy đây?”. Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.

Chúa Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập gía, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thư thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu Phục Sinh luôn được bình an và phấn khởi vui mừng.

Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, khong gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, cho dù chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày xưa, có khi còn gần gũi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Co hai điều Chúa Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. “Đừng sợ, hãy tin!” “Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin?” “Thầy đây, đừng sợ!” “Maria, tại sao bà khóc, bà tìm ai?” “Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin?”… Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!

Người Kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thật xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Đức Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt được sợ hãi trước bóng tối của cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết: “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.

 

45. Chúa Giêsu là trung tâm lịch sử – Noel Quesson.

“Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”

Trong các bức hoạ cổ, người ta thường nói bức vẽ của Misen Angelo (Michel Angelo) ở nguyện đường Sixtin Rôma. Hoạ sĩ Michel Angelo đã mất bảy năm để thực hiện bức vẽ trên trần nhà nguyện. Bức vẽ diễn tả những chương đầu của sách Khởi nguyên: Thiên Chúa tạo dựng vạn vật. Thay vì ký tên vào bức vẽ, hoạ sĩ đề hai chữ Alpha và Omêga, đó là chữ đầu tiên và cuối cùng của mẫu tự Hilạp. Hoạ sĩ có ý nói: Thiên Chúa là đầu hết và cuối hết của vạn vật.

Toàn bộ lịch sử nhân loại được diễn ta trong Kinh Thánh đều quy tụ về một điểm là con người trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm người. Từ nhiều nghìn năm, Kinh Thánh đã tiên báo về Ngài, chuẩn bị tâm hồn người đọc để có đủ tư cách tiếp nhận Chúa Cứu Thế. Cựu ước nói về Chúa và cái chết với những lời lẽ rõ ràng. Trong đó cũng nói về những đau khổ Người phải chịu. Người Do Thái đã đọc những lời tiên báo đó trong sách Luật, sách các Ngôn sứ và Thánh vịnh, nhưng họ và ngay cả các Tông đồ cũng không hiểu rõ. Vì thế mọi người đã coi cái chết của Chúa Giêsu như một thất bại, và đến lúc nghe Chúa sống lại, ai nấy đều hoang mang nghi ngờ.

Cho tới lúc Chúa sống lại, Chúa vẫn còn bận tâm làm sao cho các môn đệ hiểu rõ Chúa chính là Đấng được tiên báo trong Cựu ước. Trong lần hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Emaus, cũng như với mười một tông đồ mà Tin Mừng hôm nay tường thuật, Chúa đã dành nhiều giờ cắt nghĩa cho họ những điều Cựu ước noi về Người. Những lời cắt nghĩa của Chúa, kèm với ân huệ Người.

Những cải tổ về phụng vụ của Công đồng Vaticăng II đã quan tâm lo liệu cho ta nghe, đọc nhiều đoạn Cựu ước trong Thánh lễ, có ý cho ta thấy Chúa Giêsu chính là cốt trục xuyên suốt của lịch sử. Muôn dân, muôn thế hệ đã được ơn tha tội, được cứu rỗi nhờ kêu cầu danh Chúa Giêsu, nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Cuộc cải thiện thế giới bắt đầu từ Giêrusalem và moi người chúng ta là những chứng nhân.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đọc và hiểu lời Ngài trong Thánh kinh. Vì lời Chúa là đèn soi bước cho chúng con đi. Xin ban ánh sáng đức tin cho những người chúng con gặp gỡ hôm nay. Chúng con cầu xin Chúa.

home Mục lục Lưu trữ