Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 64
Tổng truy cập: 1372361
LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA
LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA- Lm. Anphong Trần Đức Phương
Từ Chúa Nhật trước, chúng ta đã bước vào Mùa Quanh Năm với Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. Hôm nay, chúng ta mừng Chúa Nhật II quanh năm (Chu kỳ năm B). Chủ điểm của Chúa Nhật này là ‘Tiếng Chúa gọi mỗi người chúng ta làm việc tông đồ cho Chúa.’
Bài đọc I (Samuel 3, 3-10; 19) nói đến việc Chúa gọi Samuel đi làm tiên tri cho Chúa. Khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel đã mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa xin hãy nói, con nghe đây!” Bài Phúc Âm (Gioan 1, 35-42) nói đến việc Chúa gọi hai anh em ông Anrê và Phêrô theo Chúa. Trong Bài đọc II (Corintô 6,13-15, 17-20), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta là những tín hữu của Chúa, là chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa, là đền thờ Chúa Thánh Thần, chúng ta không được sống đời sống vô luân, nhưng phải sống thánh thiện, xứng đáng con cái thật của Chúa.
Qua các thời đại, Thiên Chúa thường gọi một số người để làm các công việc đặc biệt Chúa trao phó. Trong Cựu Ước, Chúa gọi Abraham, Môsê, Davit, các tiên tri v.v… Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã gọi 12 tông đồ. Đó là những ơn gọi đặc biệt, và việc Chúa gọi và chọn ai cũng là một việc nhiệm mầu của Chúa. Chúa gọi và chọn người Chúa muốn. Tuy nhiên, Chúa vẫn tôn trọng tự do của mỗi người; tùy theo mỗi người có quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi hay không (Matthêu 19,16…), và có cố gắng sống xứng đáng và trung thành với Ơn Gọi của mình hay không.
Thánh Luca (Lc 6,12-16) có kể lại việc Chúa Giêsu đã “ra núi cầu nguyện suốt đêm với Thiên Chúa Cha. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông và gọi là Tông Đồ.” Điều này cho thấy việc chọn 12 Tông Đồ là việc rất quan trọng. Trong số 12 tông đồ Chúa chọn, đa số làm nghề chài lưới, có người làm nghề thu thuế; lại có Giuđa Itcariot là kẻ phản bội; sau này, Matthia được chọn để thay thế (Cv. 1, 15-26). Chúa cũng chọn Phaolô làm Tông Đồ cho Chúa ngay chính lúc ông này (lúc đó còn tên là Saolô) đang trên đường đi bách hại đạo Thánh Chúa (Cv. 9, 1…)
Trải qua lịch sử của Giáo Hội, Chúa cũng chọn một số người để chuyên làm việc tông đồ cho Chúa qua các địa vị khác nhau: Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ. Mỗi trường hợp đều do sự nhiệm mầu của tình yêu Chúa. Chẳng ai dám tự phụ mình là người xứng đáng. Dù có những Ơn Gọi rất đặc biệt, như trường hợp của Đức Hồng Y Avery Dulles (1918-2008) con của ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, đã gia nhập Đạo Công Giáo lúc 22 tuổi, đã từng là Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ, năm 1946 giải ngũ, vào Dòng Tên, chịu chức Linh mục năm 1956, và dâng hiến cả cuộc đời để nghiên cứu, viết nhiều sách về thần học, trở nên rất nổi danh tại Hoa Kỳ về đời sống thánh thiện và nhiệt thành truyền giáo (giống như Ơn Gọi của Linh mục Bác Sĩ Cổ Tấn Hưng ở Việt Nam); Cha Bao Yuanjin, hiện sống âm thầm truyền giáo ở Trung Quốc; Cha Charles de Foulcauld (1858-1916), lập dòng Tiểu Đệ và Tiểu Muội, và rất nhiều trường hợp khác.
Nhưng không phải chỉ các Giáo sĩ hay Tu sĩ mới được mời gọi làm việc tông đồ cho Chúa, mà mọi tín hữu đều có ơn gọi riêng của mình để làm tông đồ cho Chúa cách này hay cách khác. Nhìn công việc truyền giáo bao la, Chúa Giêsu đã nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít…” (Matthêu 9, 37), nhưng trong thực tế, Chúa chỉ chọn có 12 người chính thức làm Tông đồ, sau này thêm ông Phaolô. Vậy, làm sao công việc rao giảng Phúc Âm của Chúa đã có thể lan rộng nhanh chóng suốt cả Đế Quốc Rôma rộng lớn thời đó? Chính là nhờ sự cộng tác quảng đại của các giáo dân thời bấy giờ. Đó là việc Tông Đồ Giáo Dân.
Qua các thời đại cho đến ngày nay, vẫn có những người làm tông đồ giáo dân rất tích cực. Có những vị là những Tông Đồ Giáo Dân rất nổi danh như Antoine Federic Ozanam (Chân Phước) (1813-1835, học giả nổi tiếng của Pháp, lập Hội Bác Ái Thánh Vinh Sơn, chuyên giúp đỡ những người nghèo trên thế giới; Bác sĩ Thomas A. Dooley (Hoa Kỳ, 1927-1961) đã hy sinh cả cuộc đời giúp đồng bào Việt Nam mới di cư từ Miền Bắc vào Miền Nam, và sau đó mở nhà thương giúp bao bệnh nhân tại Lào; Frank Duff (Ái Nhĩ Lan, 1889-1980) lập Hội Đạo Binh Đức Mẹ, chuyên lo công việc thăm viếng giúp đỡ các bệnh nhân, các gia đình đang gặp khó khăn; Chiara Lubich (người Ý, 1920-2008) thành lập hội Focolore để cổ võ tinh thần hòa hợp giữa mọi người thuộc các sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo khác nhau.
Trong Giáo Hội, luôn có những Hội Đoàn hoạt động tông đồ rất tích cực cho mọi lứa tuổi, như Đạo Binh Đức Mẹ, Liên Minh Thánh Tâm, Các Bà Mẹ Công Giáo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo Sinh Công Giáo, Cursillo, Opus Dei, Tông Đồ Fatima, Hồn Nhỏ, Hội Bảo Trợ Ơn Gọi v.v… Ngoài ra, còn có các Tu Hội Đời quy tụ chính những giáo dân sống giữa đời, liên kết đặc biệt với nhau để làm việc tông đồ.
Tất cả các Hội Đoàn đều có mục đích giúp thánh hóa bản thân và rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cách này hay cách khác, nơi chính gia đình của mình, nơi sở làm, nhà máy, xưởng thợ, trường học, trong mọi môi trường sống hằng ngày của mỗi người.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin Chúa cho mọi người chúng ta luôn ý thức nhiệm vụ truyền giáo mà chúng ta phải chu toàn; xin cho chúng ta luôn biết ‘lắng nghe tiếng Chúa gọi’, trở nên những tông đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo bao la trong thế giới chúng ta hiện nay.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG-B
HỌ ĐẾN VÀ Ở LẠI VỚI NGƯỜI- Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Được công bố trong khung cảnh những ngày bắt đầu chu kỳ Thường Niên, bài Tin Mừng hôm nay (Ga 1,35-42) nêu bật sự bắt đầu một giai đoạn mới với sự xuất hiện của Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên bước theo Người.
Mở đầu bài Tin Mừng, chúng ta gặp một sự xác định thời điểm mới trong trình thuật của sách Tin Mừng thứ tư: “Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông” (c.35). Đó là ngày thứ ba kể từ sự kiện người Do Thái cử người đến chất vấn ông Gioan rằng ông là ai (1,19tt). Ông Gioan lại đang đứng ở chỗ của ngày hôm trước. Đó là cách tác giả ngầm nói với chúng ta về một tình trạng tĩnh, không tiến triển. Và quả thực, trong đoạn văn này không có bất cứ một động từ nào diễn tả sự di chuyển của ông Gioan. Nhưng sứ mạng của ông chưa kết thúc, cho đến khi nào Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của Người. Một khi Đức Giêsu đi ngang qua ông và tiến đi tiếp (trong hành trình sứ vụ của Người), thì ông sẽ không còn xuất hiện ở chỗ đó nữa, vì sứ mạng của ông đã kết thúc. Còn bây giờ, ông vẫn đang đứng đó. Bên cạnh ông là hai người trong nhóm môn đệ của ông. Họ đã nghe ông giảng dạy và đã nhận phép rửa của ông. Tác giả Tin Mừng đã không ghi “hai môn đệ” mà ghi là “hai người trong nhóm môn đệ”, chứng tỏ đã có cả một nhóm đông người đón nhận lời giảng dạy và phép rửa của ông Gioan. Vậy cùng với ông Gioan, hai người môn đệ này của ông đang đứng đó trong tư thế chờ đợi. Nhưng có một sự khác biệt: ông Gioan đã biết Đấng Mêsia (1,29) còn họ thì chưa.
“Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Ở đây có một chi tiết nhỏ nhưng rất đáng chú ý: ngày hôm trước, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình (1,29), còn hôm nay, vẫn đứng đó, ông lại “thấy Đức Giêsu đi ngang qua”. Quả thật, đúng như lời ông nói: “Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi” (c.15), bây giờ ông đã ở phía sau rồi. Đó là thời khắc của một sự thay đổi quan trọng, thời điểm chấm dứt vai trò của vị tiền hô, vì Đấng ông loan báo đã bắt đầu hoạt động của Người rồi. Vào thời khắc quan trọng đó, ông Gioan công bố trước mặt hai môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Ông nói cho họ biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (xem c.29). Ông chỉ cho họ thấy một cách cụ thể nội dung mà sự mong chờ của phép rửa do ông thực hiện đang hướng đến.
“Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (c.38). “Đi theo Đức Giêsu” là một thuật ngữ được áp dụng cho các môn đệ của Đức Giêsu (1,43; 8,12; 10,4; 12,26; 13,36; 21,19). Hai người môn đệ của ông Gioan, như thế, đã quyết định sẽ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Họ đã lập tức lấy quyết định dứt khoát. Sự dứt khoát và lập tức này cho thấy họ đã hiểu sứ điệp của ông Gioan. Ông Gioan đương nhiên không hề phản đối quyết định của hai môn đệ, trái lại, có lẽ ông rất vui mừng trước quyết định đó. Vì ông biết Đức Giêsu mới là Chú Rể, như lời ông nói: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,28-30).
Vậy hai môn đệ đi theo Đức Giêsu. Trong im lặng. Tức là trong sự chờ đợi. Cuộc tìm kiếm của họ đã được bắt đầu với việc họ rời ông Gioan và đi theo Đức Giêsu, nhưng chưa đạt đến đích nếu không có sáng kiến của Đức Giêsu. Biết rằng họ đang đi theo mình, Đức Giêsu quay lại và hỏi họ. Người ân cần quan tâm đến khát vọng và sự tìm kiếm chân thành và tốt lành của con người. Người hỏi họ: “Các anh tìm gì thế?” (c.38a).Đức Giêsu muốn biết họ tìm cái gì nơi Người, họ chờ đợi gì nơi Người, họ nghĩ Người có thể làm gì cho họ.
Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” (c.38). Hai môn đệ gọi Đức Giêsu bằng một tước hiệu đầy kính trọng, và là cách gọi cho thấy họ ý thức rằng Người có thể ban cho họ những giáo huấn giá trị, rằng Người có thể cho họ biết những điều họ chưa biết. Họ vốn là môn đệ ông Gioan, nhưng đó chỉ là một hoàn cảnh tạm bợ, hoàn cảnh của sự trông chờ Đấng mà chính ông Gioan loan báo là đang đến.
Đương thời, mối tương quan tôn sư – môn đệ không chỉ là tương quan giữa người truyền và người nhận kiến thức, mà còn là và chính yếu là một cách sống. Môn đệ lấy cách sống của tôn sư làm chuẩn mực cho mình. Chính vì thế, trong ước muốn làm môn đệ của Đức Giêsu, hai người đồ đệ này muốn biết Người sống ở đâu. Chắc chắn đó phải là một nơi chốn (và tình cảnh cũng như cách thức sống) khác với của ông Gioan (mà họ đã từng biết). Kèm với lời hỏi “Thầy ở đâu?”, như thế, là một lời thưa với Đức Giêsu về quyết định của họ rời xa vị tôn sư của giai đoạn cũ để đến sống dưới ảnh hưởng của Người. Quyết định này hoàn tất sự đoạn tuyệt mà phép rửa bằng nước do ông Gioan cử hành là biểu tượng. Đồng thời, câu hỏi đó cũng có giá trị của một lời xin Đức Giêsu nhận họ làm môn đệ của Người.
“Người bảo họ: “Đến mà xem” (c.39a). Đức Giêsu trả lời trực tiếp cho lời xin gián tiếp trong lời hỏi của các ông. Người đưa ra một lời mời gọi rằng chính họ hãy đến để trải nghiệm một cách cụ thể và thực tế cuộc sống chung với Người trong tư cách là đồ đệ của Người. Khi đó, họ sẽ có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi của họ. Rõ ràng là để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, trước hết, cần phải bước vào trong vùng sự sống của Người, nơi Người đang sống.
“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (c.39b). Họ đã bước vào vùng của sự sống, trải nghiệm về ân nghĩa và sự thật trong đó (1,14). Trải nghiệm trực tiếp đó đã giúp họ đi đến quyết định cuối cùng là ở lại với Đức Giêsu. Trong Ga, đây là hai môn đệ đầu tiên đến nơi Đức Giêsu sống. Như thế là bắt đầu xuất hiện cộng đoàn mới, cộng đoàn Mêsia, cộng đoàn những kẻ sẽ có thể nói: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “(c.14). Rõ ràng đây là một thời khắc quan trọng.
“Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Theo cách tính của chúng ta ngày nay là khoảng bốn giờ chiều. Theo cách tính của người Do Thái, đó là thời điểm cuối ngày và chuẩn bị bước sang ngày mới, vốn bắt đầu vào khoảng 6 giờ chiều của chúng ta. Ngày cũ sắp chấm dứt. Ngày mới sắp xuất hiện. Khi ngày mới bắt đầu cũng là lúc đánh dấu sự chấm dứt của dân cũ và sự khởi đầu của dân mới. Dân cũ đã sắp chấm dứt vai trò của mình, và đó là lúc Đức Giêsu bắt đầu gây dựng nhóm của Người.
“Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước tiên, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)” (cc.40-41). Trải nghiệm của ông Anrê với Đức Giêsu đã lập tức gây nên nơi ông cái ý thức về tính cách khẩn thiết phải làm cho những người khác biết về Người. Trước tiên, ông tìm gặp và loan báo cho em trai mình. Nói “ trước tiên” tức là ông không chỉ giới thiệu với ông Simôn mà thôi, nhưng còn với rất nhiều người khác nữa. Ông Simôn đã không được nghe ông Gioan giới thiệu về Đức Giêsu, và ông chưa đi theo Người. Ông Anrê báo tin cho ông Simôn bằng một công thức khá đặc biệt: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)”. Chắc chắn ông Simôn là một trong số những người đang tha thiết với niềm mong chờ Đấng Mêsia mà ông Gioan đã loan báo ở 1,27. Khi nói với Simôn rằng các ông đã gặp Đấng Mêsia, là ông Anrê loan báo cho ông Simôn biết sự chờ đợi đó đã kết thúc, Đấng Mêsia đang hiện diện rồi.
Quan niệm về “Đấng Mêsia” của ông Anrê lúc này cần được giải thích trong quy chiếu về hai sự kiện: lời công bố của ông Gioan (“Đây là Chiên Thiên Chúa” ở c.36) và lời giải thích của tác giả Ga (“nghĩa là Đấng Kitô”). Với ẩn dụ Con Chiên, ông Anrê hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia trong tư cách Đấng thực hiện cuộc Vượt Qua mới, Đấng sẽ dùng cái chết của mình mà giải thoát dân Người khỏi sự chết. Người sẽ khai mở một giao ước mới,thay thế các thiết chế của giao ước cũ đã bị vượt quá. Quan niệm “ Đấng Kitô” quy chiếu về mầu nhiệm Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu (1,32) và Người chính là Đấng làm phép rửa trong Thần Khí (c.33). Ông Anrê đã được trải nghiệm về tình yêu, ân sủng và sự thật nơi Đức Giêsu, và ông loan báo điều đó cho ông Simôn, em trai mình.
Ông Anrê đã nhấn mạnh trải nghiệm quan trọng đó không phải như một trải nghiệm cá nhân đơn độc, mà là trải nghiệm của cộng đoàn các đồ đệ. Ông nói “Chúng tôi đã gặp”. Trải nghiệm về Đấng Mêsia luôn luôn là một trải nghiệm mang chiều kích cộng đoàn.
“Rồi ông Anrê dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô)” (c.42). Ông Simôn không có sáng kiến tự mình đến với Đức Giêsu. Ông thụ động để cho ông Anrê dẫn đến. Chúng ta cũng không thấy ông bình luận bất cứ câu nào về lời giới thiệu của ông Anrê. Ông không nói một lời nào trong toàn bộ trình thuật này.
Đức Giêsu nhìn ông Simôn. Đây chắc chắn không phải là một cái nhìn bình thường hay thoáng qua. Trước đây, ông Gioan cũng đã nhìn Đức Giêsu và rồi tuyên bố “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Cái nhìn của Chúa Giêsu đối với ông Simôn lúc này cũng tương tự như vậy. Người nhìn ông, rồi tuyên bố: “Anh là…”. Vì thế, đó không phải là một cái nhìn tuyển chọn, mà là cái nhìn thẩm thấu, cái nhìn để nhận định.
Đức Giêsu xác định ông Simôn là “con ông Gioan”, và tác giả Ga đặt mạo từ trước hạn từ “con”. Điều này gây khó khăn cho cách hiểu rằng thân phụ của ông Simôn có tên là Gioan, vì ngay ở câu 41 tác giả vừa nói rõ Simôn là em trai của Anrê (tức không thể là con trai duy nhất của ông Gioan được). Đàng khác, danh xưng Gioan từ đầu đến đây được dùng để gọi ông Gioan Tẩy Giả (cc.35.40). Vì vậy, nhiều người chấp nhận cách hiểu rằng ông Simôn một đàng thuộc về phong trào của ông Gioan Tẩy Giả, một đàng khác, ông chưa hề được nghe chứng từ của ông Gioan về Đức Giêsu, cũng chưa hề đi theo Đức Giêsu như hai người môn đệ kia.
Rồi Đức Giêsu tuyên bố rằng ông Simôn sẽ được gọi là Kêpha. Tác giả Ga là tác giả sách Tin Mừng duy nhất ghi tên Aram của ông Simôn là Kêpha, một têngọi khá phổ biến trong tiếng Aram, và có nghĩa là đá, tương tự như tên gọi Petros trong tiếng Hy Lạp. Tác giả Ga không hề nói rằng Đức Giêsu đổi tên cho ông Simôn thành Phêrô. Trong Ga, không bao giờ Đức Giêsu gọi nhân vật này là Phêrô; chỉ có tác giả Ga mới gọi ông là Simôn Phêrô trong một số trường hợp (thí dụ: 1,40; 6,6.68…).
Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Simôn ở đây là một cuộc gặp gỡ rất đặc biệt. Đức Giêsu không chủ động gặp ông hay bắt chuyện với ông, cũng không kêu mời ông đi theo Người. Về phần mình, ông Simôn hoàn toàn thụ động, và cuối cùng, ông cũng chẳng ngỏ lời xin làm môn đệ của Đức Giêsu. Rồi sau khi đã gặp Đức Giêsu, ông Simôn chẳng hề giới thiệu Người với bất cứ ai, khác hẳn ông Anrê là anh trai của ông. Người môn đệ đầu tiên mà Đức Giêsu chủ động kêu gọi, trong Ga, ngay sau đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy niệm hôm nay, chính là ông Philípphê (1,43). Phải đến cuối sách, ở chương 21, sau khi ông Simôn đã ba lần tuyên bố về tình yêu của ông đối với Đức Giêsu, chúng ta mới thấy Đức Giêsu ngỏ lời với ông như Người ngỏ với ông Philípphê ngay từ giây phút đầu gặp gỡ.
Rất nhiều khi trong cuộc đời, chúng ta thấy mình được may mắn và hăng hái như ông Anrê. Nhưng cũng rất nhiều khi chúng ta thấy mình giống như ông Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay vậy… Nhưng chính nhân vật có vẻ thụ động, chẳng có gì hấp dẫn và xuất hiện trong một tình cảnh chẳng có gì nổi bật này, lại là petros, nghĩa là tảng đá…
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- B
HÃY ĐẾN MÀ XEM- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Đức Giêsu nói với mấy anh thanh niên: “Hãy đến mà xem”. Tôi tự hỏi, lúc đó Chúa Giêsu là người lang thang không nhà, không cửa, “không có hòn đá gối đầu”, thế mà Người lại gọi họ theo Người. Khi họ hỏi: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu”, Chúa nói: “Hãy đến mà xem”. Xem gì? xem hòn đá gối đầu ư? xem một người cùng khổ ư? Thật là bạo phổi, nếu không phải là vớ vẩn!
Nhưng không, không phải đến xem hòn đá, mà là nhìn kỹ một người sống mạnh mẽ. Không phải xem người cùng khổ, nhưng thấy một tấm lòng cao cả, thương yêu những người cùng khổ.
Xưa cũng như nay, người ta chỉ tin những gì xem bằng mắt, bắt bằng tay. Họ đã nói: Trăm nghe không bằng một thấy, đừng nghe những gì nó nói, phải nhìn kỹ việc nó làm. Khổng Tử cũng dậy môn đệ: “Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, nhơn yên sưu tai?” – Hãy nhìn kỹ cách họ làm, quan sát do đâu họ làm, cứu xét việc có an lành không? Họ làm có yên vui không? (Luận ngữ II, 10).
Để xác nhận một lý thuyết là chân thực, các nhà khoa học đòi phải được thí nghiệm và kiểm chứng.
Quan sát, suy nghĩ và hành động là phương châm khôn ngoan. Đức Giêsu muốn gọi Gioan và Anrê làm môn đệ, Người muốn họ phải biết sống theo phương châm khôn ngoan ấy, chứ không phải theo Người cách mù quáng.
Sau những lời giới thiệu của vị Tiền Hô, chắc mấy anh thanh niên đó đã thảo luận nhiều về Đức Giêsu: Đấng Chiên Thiên Chúa. Dầu vậy, mấy anh còn phải tiếp xúc trực tiếp với Người. Phải quan sát Người với tất cả trí óc, con tim và ý chí của các anh. Các anh đã thấy Người sống với các anh rất giản dị, chân thành, siêu thoát, hiền hòa khả ái, trong buổi chiều thanh bình êm đềm, thân mật để cho từng lời nói, từng việc làm và nhất là tâm tình của Người như một cuốn phim diễn ra trước khối óc, con tim, chứ không phải chỉ xem bằng mắt, bắt bằng tay của giác quan tầm thường. Lúc đó, Thần khí tình yêu thanh khiết, nồng nàn của Người như men thơm dậy hương đậm đà trong lòng mình. Chân lý cao cả nhiệm mầu của Người như ánh sáng chiếu tỏa rạng ngời trong tâm trí mình. Và sức sống mãnh liệt của Người như máu đào tươi sống dạt dào chảy tràn vào con tim mình. Toàn diện con người các anh đã thấm nhuần tinh thần cao siêu lạ lùng của Người. Mỗi người các anh đã cảm động và vui mừng thốt lên: “Lạy Thầy, con theo ai được! Vì chỉ Thầy mới có lời ban sự sống trường tồn” (Ga. 6, 68).
Các anh đã thành môn đệ nghĩa thiết và chứng nhân trung tín của Đức Giêsu, “vì ngay sáng hôm sau, Anrê đã đi tìm em mình là Simon và nói: Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia (tức là Đấng Kitô). Rồi kéo em đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: Anh là Simon, con ông Giona, anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô”.
Đức Giêsu đã kêu tên Simon thân mật như bạn hữu và đã đổi tên tục Simon thành danh hiệu Phêrô nghĩa là Đá tảng.
Như vậy, bài Tin mừng hôm nay trình bày một đường lối trực tiếp gặp gỡ Chúa, cho ta khám phá thấy ơn Chúa gọi ta để ta quyết tâm theo Chúa.
Lời Chúa hôm nay còn cho ta thấy, trước khi được trực tiếp gặp Chúa, ta cũng cần nhiều trung gian hướng dẫn, giới thiệu cho ta đến với Chúa. Vị tiền hô đã giới thiệu cho Gioan và Anrê đến theo Chúa.
Rồi Anrê lại giới thiệu cho Simon được gặp Chúa. Ngôn sứ Samuen đã kể lại kinh nghiệm đó trong bài đọc 1. Khi còn nhỏ, Samuen đã sống với thầy tư tế Hêli trong đền thờ, được thầy huấn luyện và dạy dỗ về Thiên Chúa, Samuen đã trở thành cậu bé rất đạo đức tốt lành. Cậu ngủ trong đền thờ, bên hòm bia Thiên Chúa, được Chúa gọi bốn lần, cậu đều mau mắn thức dậy thưa: Dạ, con đây và lanh lẹ chạy đến thầy Hêli ba lần vì tưởng thầy gọi. Lần thứ bốn Chúa gọi, cậu vẫn không mê ngủ, không cựa quậy, tỉnh dậy ngay, kính cẩn thưa như thầy Hêli dạy: “Lạy Chúa, xin Chúa phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”.
Ước chi những cậu bé của chúng ta được như Samuen, đồng thời chúng ta phải nỗ lực huấn luyện con em mình biết luôn luôn kính cẩn cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”.
Biết lắng nghe lời cha mẹ, lắng nghe lời linh mục, lắng nghe giáo lý, lắng nghe lời Chúa, mới được Chúa đến mời gọi: “Hãy đến mà xem”.
Bài đọc hai, thánh Phaolô đã hướng dẫn tín hữu giáo đoàn Côrintô khám phá và gặp gỡ Chúa trong chính bản thân mình. Nhưng điều thiết yếu là thân xác ta không được dùng để gian dâm, mà chỉ để phụng sự Chúa, lý do là Chúa làm chủ bản thân ta, đã mua chuộc ta bằng giá rất đắt. Chỉ như thế, ta mới khám phá thấy bản thân ta là chi thể của Đức Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự, khiến ta được kết hợp với Chúa nên một tinh thần, cho ta xứng đáng tôn vinh Thiên Chúa, và được sống lại với Đức Kitô.
Lạy Chúa, ơn kêu gọi chúng con thật cao cả quý giá vô cùng. Xin cho chúng con biết đến mà xem Chúa trong bản thân chúng con, xem Chúa trong mọi người, xem Chúa trong chính Đấng Mesia, chúng con mới mong khám phá ra ơn Chúa gọi chúng con. Đến gặp gỡ Chúa, sống nghĩa thiết với Chúa, hiệp thông sự sống dồi dào của Chúa và được chia sẻ sứ mạng cứu độ muôn dân của Chúa.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- B
ƠN GỌI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa có chương trình cho mỗi người; tuy nhiên nếu ai không đáp trả tiếng gọi của Ngài, thì Thiên Chúa vẫn yêu thương và tiếp tục mời gọi họ theo chương trình yêu thương của Ngài. Thiên Chúa luôn mong muốn và mời gọi mỗi người sống hạnh phúc, không chỉ ở đời sau nhưng ngay đời hiện tại này nữa.
1) Chúa gọi Samuel
Samuel là người con được sinh ra sau khi bà Anna, một phụ nữ hiếm muộn, cầu khẩn Đức Chúa. Người mẹ đã cầu xin Thiên Chúa ban cho mình người con, bà cầu nguyện khẩn thiết đến độ thầy tư tế Hêli tưởng bà say rượu nói nhảm. Sau khi nghe bà trình bày, thầy Hêli chúc lành cho bà, và sau đó bà sinh hạ Samuel. Bà mẹ này đã dâng người con quý cho Thiên Chúa, để Samuel được phục vụ trong nhà Thiên Chúa. Bà Anna nhận ra rằng, tuy Samuel là con bà, nhưng Samuel cũng là người thuộc về Thiên Chúa, là người của Thiên Chúa. Người hiếm muộn dễ nhận ra con cái là quà tặng của Thiên Chúa; họ thường trân trọng và quý món quà Thiên Chúa ban này cách đặc biệt.
Thiên Chúa gọi Samuel. Đầu tiên Samuel cũng tưởng đó chỉ là lời gọi của người phàm. Samuel chỉ nhận ra Chúa gọi mình khi thầy Eli dạy cho cậu biết. Phải chăng tiếng Chúa và tiếng con người cũng có những nét giống nhau, và chỉ con người thân quen với Thiên Chúa hay có kinh nghiệm với Thiên Chúa mới dễ dàng nhận ra? Con người là thể xác và tinh thần, nên để nghe được tiếng Chúa, con người cần nhận ra điều gì đó và xác tín rằng điều này đến từ Thiên Chúa. Thánh Yuse qua giấc mộng, nhận ra đó là tiếng Chúa. Giấc mộng, có thể là trung gian Thiên Chúa dùng để tỏ lộ Ý của Ngài cho con người. Đức Maria được thiên thần truyền tin. Có thể thiên thần lấy hình một người hiện ra cho Đức Maria và nói với Mẹ, nhưng cũng có thể Mẹ Maria nhận ra Ý Thiên Chúa qua những ý tưởng hiện ra trong đầu Mẹ.
Thiên Chúa có chương trình cho Samuel. Ngài có chương trình cho Yuse và Maria. Thiên Chúa có chương trình cho Phaolô (1Cor.1, 1). Thiên Chúa cũng có chương trình cho mỗi người chúng ta, vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta như yêu chính Đức Yêsu (Ga.17, 23. 20; 15, 9.13). Thiên Chúa muốn chúng ta thuộc về Thiên Chúa, và sống hạnh phúc nhờ và trong Đức Yêsu Kitô (Eph.1, 3tt).
2) Thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô
Con người là tạo vật vô cùng quý đối với Thiên Chúa, đến độ Thiên Chúa đã ban chính Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin vào Con Ngài thì được cứu (Ga.3, 16). Không phải những ai tin vào Con Ngài thì mới được cứu, nhưng những ai tin vào Con Ngài thì qua việc tin vào Con Ngài họ nhận ra sự thật về Thiên Chúa và về chính con người, và qua đó họ được giải phóng (Ga.8, 32) và được cứu.
Cả thân xác con người cũng là quý giá đối với Thiên Chúa. Thân xác của Đức Yêsu đã phục sinh, và cũng vậy thân xác của mỗi người chúng ta. Một số người tưởng rằng chết là hết, hoặc thân xác bị tiêu hủy sẽ vĩnh viễn không còn gì nữa; nhưng dựa vào biến cố Đức Yêsu phục sinh từ cõi chết, và theo sự hiểu biết của thánh Phaolô (1Cor.15), thân xác chúng ta sẽ phục sinh cho dù hiện tại chúng ta thấy thân xác của con người bị tiêu hủy với thời gian. Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Mỗi Kitô-hữu không chỉ phải sống sao cho tâm hồn được tinh tuyền để xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, nhưng Kitô-hữu còn phải sống sao để thân xác cũng là thánh và thuộc về Thiên Chúa nữa. Với Kitô-hữu, không chỉ linh hồn là quý nhưng cả thân xác nữa.
3) Ơn gọi
Cuối tuần thứ hai trong cuộc Linh Thao, thánh Ynhã Loyola đề nghị người làm Linh Thao chọn lựa bậc sống. Với thánh Ynhã, chọn lựa bậc sống gia đình hay “dâng hiến” không phải là mình thích bậc sống nào thì mình chọn bậc sống đó, nhưng là nhận ra Thiên Chúa muốn mình sống bậc sống nào thì mình sẽ “chọn” bậc sống đó.
Xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Nên nếu Thiên Chúa muốn ta sống ở bậc sống nào, thì bậc sống đó (dù gia đình hay dâng hiến) sẽ giúp ta triển nở và hạnh phúc nhất. Như vậy, để nhận ra Thiên Chúa muốn mình sống ở bậc sống nào, hãy xem bậc sống nào làm mình triển nở và hạnh phúc thật. Đời sống gia đình không kém giá trị hơn đời sống dâng hiến. Đời sống nào giúp tôi sống triển nở và hạnh phúc, thì đó là bậc sống Thiên Chúa muốn tôi sống, và đó là bậc sống tốt nhất đối với tôi. Nếu Chúa muốn tôi sống đời gia đình, thì bậc sống gia đình là tốt nhất đối với tôi; nếu Chúa muốn tôi sống đời “dâng hiến,” thì đời sống dâng hiến là đời sống tốt nhất đối với tôi, vì nơi bậc sống này tôi được triển nở và hạnh phúc, và như vậy Thiên Chúa được tôn vinh nơi tôi.
Các tông đồ và thánh Phaolô, một khi biết Đức Yêsu, đã dâng hiến cả cuộc đời để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Các tu sĩ trong dòng lịch sử, đã hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và con người. Những người có gia đình muốn phục vụ Thiên Chúa cách đặc biệt, chẳng hạn nơi trách vụ phó tế vĩnh viễn, cần có sự đồng ý của người phối ngẫu, vì các vị này phải có trách nhiệm đầu tiên với gia đình, nên để có thời gian và sức lực phục vụ tha nhân, cần sự đồng ý của người phối ngẫu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1). Xin bạn cho biết những nét đẹp của đời sống gia đình.
2). Xin bạn liệt kê những nét đẹp của đời sống dâng hiến (đời sống tu trì).
3). Theo ý riêng của bạn, đời sống nào giúp bạn triển nở và hạnh phúc hơn?
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- B
VAI TRÒ TRUNG GIAN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Nghe hai từ trung gian, không ít nguời trong chúng ta cảm thấy khó chịu. Quả thật trong các hoạt động kinh doanh buôn bán cũng như trong các dịch vụ, hễ có trung gian là hầu như có “phết phẩy”, có những chi phí không như ý. Dĩ nhiên không ai chấp nhận một sự tồn tại của chuổi các trung gian nặng nề, vô bổ, gây phiền hà và gây lãng phí. Vì thế người ta tìm cách loại bỏ bớt những trung gian ấy ngay cả trong các sinh hoạt hành chính. Chuyện bỏ bớt “các cửa, các dấu” để tiến đến mô hình một, cửa một dấu là một trong những nổ lực của cải cách hành chánh nước Việt thời gian vừa qua. Thế nhưng cần phải xác nhận rằng tác nhân trung gian vẫn còn đó vị trí và vai trò cần thiết không thể thiếu trong đời sống kinh tế, xã hội lẫn tâm linh.
Một chân lý trong niềm tin Kitô giáo: Thiên Chúa ban ơn cho con người thường là qua các trung gian. Không kể đến thưở ban đầu của buổi sáng tạo, thì ngoài việc trực tiếp phú ban linh hồn, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống thể lý cùng những ơn lành khác đều thường qua các trung gian là tổ tiên, ông bà, bố mẹ, thầy cô, các vị mục tử trong Hội thánh…Ngược lại, để đến với Thiên Chúa thì các trung gian luôn có đó vị trí, vai trò cần thiết dường như là tất yếu theo chương trình Thiên Chúa đặt định.
Hai lần Thiên Chúa gọi Samuel, thế mà Samuel vẫn không nhận biết. Để có thể nhận ra tiếng Chúa phán, trẻ Samuel đã phải cần đến sự chỉ dạy của tư tế Hêli. (x.1 Sm 3,3b-10) (Bài đọc 1). Chính nhờ lời giới thiệu của thầy Gioan Tẩy Giả mà hai môn đệ mới tiếp cận được với Chúa Giêsu để rồi theo Người và ở lại với Người ngày hôm ấy. Nhờ một trung gian là Anrê mà Simon Phêrô đã đến gặp Chúa Giêsu và Hội Thánh chúng ta đã có được một vị Tông đồ nhiệt thành, một vị Giáo hoàng tiên khởi. (x. Ga 1,35-42) (bài Tin Mừng). Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng thân xác chúng ta là một trung gian để chúng ta kết hợp nên một với Chúa Kitô. Và chính thân xác chúng ta là Đền thờ, là một trung gian để Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta. (x. 1Cor 6,13-20) (Bài đọc 2).
Qua các bài đọc của Thánh lễ Chúa Nhật II TN B, xin được đề ra vài tiêu chí của sự trung gian hầu cho các tác nhân trung gian thực sự là những chiếc cầu nối hữu hiệu, cách đặc biệt giữa Thiên Chúa và con người.
Biết Chúa và biết người: Anrê đã trở thành một người trung gian đích thực giữa Simon, anh mình với Chúa Giêsu là nhờ ngài vốn biết rõ anh mình. Chuyện anh em ruột biết rõ nhau là chuyện bình thường, anh em như thể chân tay. Anrê còn là người biết Chúa Giêsu một cách nào đó, nhờ đã đến và ở với Chúa Giêsu ngày hôm ấy, sau khi được thầy Gioan Tẩy giả giới thiệu.
Hình như ít có ai tranh cãi về tiêu chí này. Để làm trung gian thì cần phải biết cả hai phía. Tuy nhiên cái biết ở đây không dừng lại sự nhận thức bằng lý trí mà còn với cả sự gắn bó bằng ý chí. Không mến phục Giêsu hoặc không yêu thương anh mình thì Anrê chưa chắc đã đóng vai trò một trung gian.
Được Chúa chọn gọi và trao phó trách nhiệm: Chúng ta nhận ra tiêu chí này qua vai trò của Gioan Tẩy Giả. Ngài là đấng được Thiên Chúa chọn gọi ngay từ trong dạ mẹ (x.Gr 1,4-5) Ngài được Chúa trao phó cho trách nhiệm làm tiếng hô trong hoang mạc là dọn đường cho đấng Thiên sai ngự đến (x. Is 40,1-5).
Vấn đề đặt ra là làm sao nhận ra được tiếng Chúa chọn gọi. Dễ được mấy ai có diễm phúc được Chúa Giêsu chọn gọi cách trực tiếp như các tông đồ ngày xưa? Nhìn vào cuộc đời vị Tiền Hô, chúng ta có thể xác định rằng tiếng Chúa gọi chúng ta thường qua các biến cố cuộc sống (các hiện tượng xảy ra với nhà Giacaria), qua việc dạy bảo của mẹ cha (việc ông Giacaria và bà Isave đặt tên cho con trẻ khác với truyền thống nói lên điều này), qua việc nghiền ngẫm Thánh Kinh (nếu không có yếu tố này thì Gioan hẳn sẽ khó nhận ra vai trò của mình qua lời tiên báo của Ngôn sứ Isaia ngày nào).
Được Hội Thánh chuẩn nhận: Cái tiêu chí này được thể hiện qua vai trò của Tư Tế Hêli. Dù rằng tư tế Hêli còn thiếu sót trong một vài trách nhiệm của mình như lơ là việc dạy bảo con cái khiến cho hai người con trai của ông là Khópni và Pinkhát ra hư hỏng (x. 1 Sm 2,22-35), nhưng không ai phủ nhận vai trò của ông trong việc hướng dẫn trẻ Samuel lắng nghe tiếng Chúa phán.
Chúng ta cần thú nhận rằng cái tiêu chí thứ ba này thường gây tranh luận cho nhiều người bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh, đặc biệt, với các anh em ly khai. Thế nhưng dòng lịch sử thánh minh định rõ rằng Thiên Chúa đã dùng con đường này, phương thức này. Phương thức này, con đường này đã manh nha hình thành trong thời Cựu Ước qua việc Thiên Chúa truyền lệnh cho Môsê cắt đặt Aaron làm Tư Tế và chọn chi tộc Lêvi lo việc tế tự (x.Xh 4,13-16; 28,1-5). Và đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã minh nhiên thiết lập Hội Thánh trên các Tông đồ và trao quyền tài thẩm cho các ngài (x. Mt 16,13-19; Ga 20,19-23). Trong thực tế, dù là cá biệt, nhưng vẫn tồn tại hiện tượng “thầy cả Hêli”. Ước gì Kitô hữu chúng ta làm theo lời dạy của Chúa Cứu thế: “Các kinh sư và những người Pharisêu ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, nhưng đừng theo hành động của họ…” (Mt 23,2-3).
Đến với Thiên Chúa, gặp gỡ Thiên Chúa là một diễm phúc của nhân loại chúng ta. Thiên Chúa đã tạo các trung gian là để cho mọi người có thể đến với Người, gặp gỡ Người cách thuận lợi dễ dàng và hữu hiệu theo hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của từng người. Chính vì thế các tác nhân trung gian mãi luôn càn thiết cho nhân loại chúng ta. Tuy nhiên các tác nhân trung gian ấy vẫn ở bên ngoài chúng ta. Có một tác nhân gần gủi, thiết thân nhất với mỗi người chúng ta đó là chính con người, thân xác chúng ta. Chúa Kitô đã tự hiến thân mình trong hình bánh rượu hiến tế trên các bàn thờ. Con người, thân xác chúng ta là nơi Chúa muốn đến để nên một với chúng ta. Dù chằng đáng Chúa ngự vào, nhưng với tâm hồn khiêm nhu, xin Chúa làm cho tâm hồn, thân xác chúng ta được lành mạnh thì chúng ta sẽ làm một với Chúa cách trọn vẹn. Và Nước Trời đang ở giữa chúng ta (x. Lc 17,21).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam