Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 41

Tổng truy cập: 1370746

LẬP PHÉP THÁNH THỂ

LẬP PHÉP THÁNH THỂ

1) Một trong những hậu quả của sự khốn khổ của các kẻ nghèo, dù ở bất cứ nơi nào, là họ cảm thấy không có tương lai. Mỗi một ngày kế tiếp nhau không có dự tính. Chỉ có một cuộc song vất vưởng và phân chia trong sự tìm kiếm một chút của nuôi thân hay một hạnh phúc nhỏ bé nhất thời. Dân Thiên Chúa trong cảnh nô lệ Ai Cập đã là như vậy (Bài đọc 1: Xh 24, 3-8). Và đây Môisen, nhân danh Chúa, đề ra cho họ một tương lai, một lịch sử. Thiên Chúa giao kết với dân này. Mọi sự sắp đổi thay. Đây là một biến cố quan trọng cần phải nhớ và người ta làm một đài kỷ niệm: 12 viên đá chồng lên nhau đặt ra một nghi lễ: dâng mot hy tế bình an. Đọc một đoạn sách luật và làm một cử chỉ hội khó hiểu đối với chúng ta. Nhưng rất ý nghĩa đối với người Hy bá: rảy máu của một con vật dâng làm hy lễ. Máu: dấu chỉ sự sống, máu đổ ra và chia sẻ: dấu chỉ của cùng một sự sống nhận từ Thiên Chúa và được chia sẻ trong một định mệnh chung.

2) (Bài đọc 2: Dt 9, 11-15). Nhưng giao ước tình yêu này với một dân tộc chẳng phải là tiếng nói sau cùng của Thiên Chúa đối với nhân loại. Sau bao ngày kiên nhẫn. Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để mở ra cho nhân loại thấy được tình yêu mà Ngài đã ấp ủ trong tim. Chúa Giêsu đã trở thành tư tế của hạnh phúc sẽ tới. Vì thế Người cũng để lại cho ta một nghi thức mới về giao ước mới này. Lần này không còn là một biểu tượng, một sự nhắc nhở, nhưng là một hành vi, một biến cố. Chính là Chúa Kitô tự hiến làm hy lễ. Bây giờ tất cả mọi người có thể tìm một ý nghĩa mới cho đời sống họ, một lịch sử phải thể hiện, một ơn cứu độ phải làm cho tới.

3) (Bài Tin Mừng). Khi hội họp lại mỗi Chúa nhật. Chúng ta cử hành việc ơn cứu rỗi nói trên. Các nhà thờ của chúng ta, như bấy nhiêu viên đá chồng chất, có cả hàng ngàn trên thế giới, cho chúng ta thấy rằng lịch sử nhân loại của chúng ta đã được thánh hiến cho một tương lai chung quyết. Tất cả mọi công việc, mọi cuộc khám phá đều trở thành thực tại của Vương Quốc, như bánh và rượu mà chúng ta dâng đây trở thành Mình và Máu Chúa. Điều này không thể thực hiện mà không có thảm kịch, lầm lẫn, dò dẫm. Chúa Giêsu đã chia sẻ bữa ăn sau cùng của Người với các môn đồ trong ý thức về cái chết Người và trong bầu khí buồn thảm của sự phản bội và bỏ rơi. Lễ tạ ơn của chúng ta cũng được nối dài trong thảm kịch của thế giới: tội lỗi của nó, các cuộc nhảy chồm lên của nó đều chạm tới chúng ta. Nhưng niềm hy vọng của chúng ta lớn lao, vì chúng ta xác tín về vương Quốc sẽ tới.

 

61. Chú giải của William Barclay.

MÌNH VÀ MÁU CHÚA KITÔ

CHUẨN BỊ CHO NGÀY LỄ (Mc 14,12-16)

Dường như có một từ hơi lạ đã được dùng ý liên quan tới Chúa Giêsu. Nhưng khi đọc bài tường thuật tuần lễ cuối cùng của đời Ngài, chúng ta không thể không ngạc nhiên về tài năng sắp xếp công việc của Ngài. Nhiều lần, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hề để nước đến chan mới chạy. Trước đó, Ngài thu xếp có sẵn một lừa cho Ngài đi vào thành Giêrusalem. Ở đây chúng ta thấy Ngài thu xếp mọi sự từ trước. Các môn đệ Chúa muốn biết họ sẽ ăn Lễ Vượt Qua ở đâu. Ngài sai họ vào thành Gierusalem với lời dặn dò hãy tìm một người đang mang vò nước. Đây là một dấu hiệu đã có sắp xếp trước. Mang vò đi lấy nước là việc của đàn bà. Đó là việc chưa hề thấy một người đàn ông nào làm. Một người đàn ông vác vò nước trên vai sẽ là một hình ảnh nổi bật giữa đám đông, chẳng khác gì một người đàn ông đi mưa mà che dù đàn bà. Chúa Giêsu không hề để sự việc đến phút chót mới lo. Từ lâu, Ngài đã thu xếp chỗ họp mặt cuối cung cho chính Ngài với các môn đệ và mọi việc đều xảy ra đúng như ý muốn.

Các căn nhà lớn của dân Do Thái có những phòng cao, các căn nhà ấy trong như có một chiếc hộp nhỏ xếp chồng trên một chiếc hộp lớn vậy. Chiếc hộp nhỏ hơn đó là phòng cao, có cầu thang bên ngoài để đi lên, nên người ta không cần phải đi qua phòng lớn bên trong nhà. Phòng cao có nhiều công dụng. Nó có thể dùng làm phòng kho, hoặc dùng làm nơi suy gẫm, làm chỗ nghỉ khi nhà có khách. Nhưng đặc biệt nhất đó là nơi để một Rapbi dạy dỗ các môn đệ thân tín. Chúa Giêsu đã làm theo thói quen các Rapbi Do Thái vẫn thường làm.

Chúng ta phải nhớ đến một điểm về cách ghi nhận ngày của dan Do Thái. Theo người Do Thái, thì một ngày mới bắt đầu từ 6 giờ chiều, trước 6 giờ chiều là ngày 13 tháng Nisan, là ngày sửa soạn cho Lễ Vượt Qua. Nhưng ngày 14 tháng Nisan là ngày Lễ Vượt Qua thì bắt đầu từ 6 giờ chiều. Theo cách tính của chúng ta thì ngày thứ sáu của người Do Thái bắt đầu từ 6 giờ chiều ngày thứ năm.

Người Do Thái chuẩn bị những gì để ăn Lễ Vượt Qua:

Nghi lễ đầu tiên là nghi thức tìm men. Trước ngày Lễ Vượt Qua, tất ca các men được loại bỏ ra khỏi nhà. Trong ngày Lễ Vượt Qua đầu tiên tại xứ Ai cập (Xh 12), người ta đã ăn lễ ấy với bánh không men. Bánh không men không giống bánh mì chút nào, nó là một thứ bánh bột luộc. Sở dĩ tại Ai cập họ đã phải ăn như vậy vì làm thế sẽ nhanh hơn một ổ bánh có men, và ngày Lễ Vượt Qua đầu tiên là ngày thoát ra khỏi xứ Ai cập, dân Israel phải ăn hối hả và mọi người đều phải sẵn sàng để ra đi lên đường. Hơn nưa, men còn là biểu tượng của sự thối nát. Men là bột đã ủ cho dậy lên và người Do Thái đồng nhất sự lên men với quá trình thối rữa, hư hoại. Vào ngày trước Lễ Vượt Qua, người chủ nhà thắp một ngọn nến, rồi theo nghi lễ, đi tìm men khắp trong nhà. Trước khi đi tìm, người ấy khấn nguyện rằng: “Đáng chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa, là Vua toàn cõi vũ trụ, Đấng đã lấy các điều răn của Ngài để thánh hoá chúng tôi, và truyền lệnh cho chúng tôi phải cất hết men đi”. Sau khi đã tìm khắp nhà, chủ nhà nói: “Tất cả men tôi có, mà tôi đã tìm thấy hoặc không tìm thấy đều kể như không còn nữa, kể như bụi dưới đất vậy”.

Tiếp theo, vào xế trưa trước buổi chiều Lễ Vượt Qua là dâng sinh tế về Con Chiên Vượt Qua. Mọi người đều đến Đền Thờ. Người dâng lễ phải giết con chiên của mình để dùng nó dâng làm của lễ hy sinh. Dưới mắt người Do Thái, máu là vật thiêng liêng dâng cho Thiên Chúa, bởi vì người Do Thái xem máu ngang hàng với sinh mạng. Việc tin thế là điều tự nhiên, vì nếu một con người hay một con vật bị thương, có máu chảy ra, thì sự sống cũng theo đó mà ra. Cho nên trong Đền Thờ, kẻ đến thờ phượng tự giết con chiên mình đem đến. Giữa những người đến thờ phượng và bàn thờ, có hai hàng dài các thầy tư tế, mỗi người cầm một cái chén vàng hoặc bạc. Khi máu từ cổ họng con chiên chảy ra, máu được hứng vào các chén ấy, chuyền tay nhau cho đến thầy tư tế đứng ở cuối hàng đổ máu ấy lên bàn thờ. Con vật được mổ ra, bộ lòng và mỡ được lấy ra, vì là phần cần thiết cho việc tế lễ, còn xác được trả về cho người dâng lễ. Nếu phần tường thuật của Josephus hoàn toàn đúng, thì có hơn ¼ triệu con chiên đã bị giết, chúng ta khó tưởng tượng nổi quang cảnh tại Đền Thờ cũng như tình trạng bàn thờ đầy máu. Con chiên được đem về nhà và quay. Không thể đem nấu thịt ấy. Không thể để nó chạm vào một vật gì dù là cạnh của chiếc nồi. Nó phải được đâm xuyên qua bằng một khúc cây lựu và quay trên ngọn lửa. Khúc cây được đâm xuyên thẳng từ miệng đến đuôi, con chiên được quay nguyên con, còn cả đầu, giò, đuôi dính vào thân.

Chiếc bàn ăn thấp có dạng như một hình vuông để trống một cạnh. Tất cả khách nằm trên những chiếc ghế dài, chống bằng khuỷu tay trái, dùng tay mặt lấy thức ăn.

Có một số vật cần thiết mà các môn đệ của Chúa phải chuẩn bị sẵn sàng.

1/ Một con chiên để nhắc họ nhớ lại việc gia đình họ được bảo vệ nhờ máu bôi lên trên khung cửa khi thiên sứ của sự chết đi qua khắp xứ Ai cập.

2/ Bánh không men để nhắc họ nhớ thứ bánh mà họ phải ăn vội vã lúc thoát ách nô lệ.

3/ Chén nước muối để nhắc họ nhớ lại nước mắt họ từng đổ ra tại Ai cập và nước của Biển Đỏ mà họ đã vượt qua an toàn lạ lùng.

4/ Một mớ các loại rau đắng, để nhắc họ nhớ về sự cay đắng khi làm nô lệ tại Ai cập.

5/ Một loại bánh dẻo gọi là charosheth là một hỗn hợp các thứ trái táo, chà là, lựu và hạt dẻ, để nhắc họ nhớ về đất sét mà họ dùng làm gạch tại Ai cập. Lẫn lộn trong đó là những sợi quế để nhắc nhở họ về rơm họ đã trộn vào đất sét làm gạch.

6/ Bốn cốc rượu nho. Các cốc đựng loại rượu nho được pha bằng ba phần rượu với hai phần nước lã. Bốn cốc rượu được uống vào bốn giai đoạn khác nhau trong bữa ăn, để nhắc họ về bốn lời hứa trong sách Xuất Hành 6,6-7: “Ta sẽ rút các ngươi khỏi gánh nặng mà người Ai cập đã chất lên vai các ngươi. Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi vòng tôi mọi. Ta sẽ giơ thẳng tay ra, dùng hình phạt nặng mà chuộc các ngươi. Ta sẽ nhận các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ làm Chúa của các ngươi”.

Đó là những gì phải chuẩn bị cho ngày Lễ Vượt Qua. Tất cả các chi tiet đều nhắc nhở về ngày trọng đại, khi Chúa ban ơn giải phóng dân Ngài khỏi cảnh nô lệ tại Ai cập. Chính nhằm ngày lễ đó, Đấng giải thoát thế gian khỏi tội lỗi đã ngồi để dự bữa ăn cuối cùng với các môn đệ Ngài.

BIỂU TƯỢNG CỦA SỰ CỨU RỖI (Mc 14,22-26)

Trước hết, chúng ta cần biết rõ các giai đoạn khác nhau trong ngày Lễ Vượt Qua, để có thể hình dung những gì Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài đang làm ở đây. Mọi việc được diễn tiến theo thứ tự sau đây:

1/ Chén Kiddush. Kiddush có nghĩa là thánh hoá hay phân rẽ. Đây là một hành động mang tính chất tách rời bữa ăn này khỏi tất cả các bữa ăn bình thường khác. Người chủ gia đình nâng chén lên, cầu nguyện, rồi mọi người cùng uống chén đó.

2/ Rửa tay lần thứ nhất. Chỉ có người dâng lễ phải làm việc này mà thôi. Người ấy phải rửa tay ba lần theo cách thức quy định chúng ta nghiên cứu ở chương 7.

3/ Một miếng ngò tây hay rau diếp được đem nhúng vào một chén nước muối rồi ăn. Đây là một món khai vị để ăn cho ngon miệng, nhưng cây rau ngò tiêu biểu cho chùm kinh giới đã được nhúng trong máu rồi bôi lên khung cửa, còn muối tiêu biểu cho nước mắt đã đổ ra tại Ai Cập và nước của Biển Đỏ mà dân Israel đã được đưa ra khỏi đó an toàn.

4/ Bẻ bánh. Khi bẻ bánh có hai câu chúc phúc được đọc lên “Đáng cảm tạ Ngài là Đức Chúa. Thiên Chúa chúng tôi là Vua toàn cõi vũ trụ, nguyện Ngài được tôn vinh trên trái đất” hoặc “Đáng cảm tạ Ngài là Cha chúng tôi ở trên trời, Đấng hàng ngày ban bánh đủ dùng cho chúng tôi”. Trên bàn bánh không men được xếp thành ba vòng. Vòng bánh chính giữa được cầm lên và bẻ ra. Vào lúc đó, người ta chỉ ăn một chút bánh mà thôi. Việc này nhắc nhở cho người Do Thái nhớ lại thứ bánh đau khổ họ từng ăn tại Ai Cập, nhắc họ nhớ những kẻ làm nô lệ chẳng bao giờ được an trọn vẹn cả ổ bánh, nhưng chỉ được ăn những mảnh vụn. Lúc bẻ bánh, người chủ gia đình nói “Đây là bánh đau khổ mà tổ tiên ta từng ăn tại Ai Cập, ai đang đói, hãy đến mà ăn. Ai đang túng thiếu hãy đến cùng dự Lễ Vươt Qua với chúng tôi” (Trong cách hành lễ hiện đại tại các nơi xa lạ, lời con người nổi tiếng sau đây đã được thêm vào “Năm nay, chúng ta dự lễ ở đây, năm sau chúng ta sẽ dự lễ trong xứ Israel. Năm nay chúng ta dự lễ với tư cách kẻ nô lệ, năm tới chúng ta sẽ dự lễ với tư cách người tự do”).

5/ Tiếp theo là phần kể lại câu chuyện giải phóng. Người trẻ tuổi nhất hiện diện sẽ hỏi có gì khiến ngày này khác với các ngày khác và tại sao lại giữ lễ này. Và người chủ nhà bắt đầu kể lại cả câu chuyện về lịch sử dân Israel từ ngàn xưa cho đến khi có cuộc giải phóng vĩ đại mà ngày Lễ Vượt Qua không bao giờ trở thành một nghi lễ suông. Nó luôn luôn là một kỷ niệm về quyền năng và lòng nhân từ của Chúa.

6/ Các Thánh vịnh 113, 114 được hát lên. Các Thánh vịnh từ 113-118 vốn được biết đến dưới tên gọi Hallel nghĩa là ca ngợi Thiên Chúa. Tất cả Thánh vịnh ấy đều là những lời ngợi khen. Chúng là một phần của tài liệu xưa nhất mà một cậu bé Do Thái phải học thuộc lòng.

7/ Uống chén thứ hai. Chén này được gọi là haggadah, nghĩa là chén giải nghĩa hay công bố.

8/ Bây giờ thì mọi người đang có mặt đều rửa tay để chuẩn bị dùng bữa.

9/ Một bài cầu nguyện tạ ơn được đọc lên “Hỡi Đức Chúa Thiên Chúa chúng tôi, đáng cảm tạ Ngài vì đã ban hoa quả từ đất. Hỡi Thiên Chúa, đáng chúc tụng Ngài, Đấng đã thánh hoa chúng tôi bằng các điều răn của Ngài, và truyền cho chúng tôi ăn bánh không men”. Sau đó những mẩu bánh nhỏ được phân phát ra.

10/ Một ít rau đắng kẹp giữa hai miếng bánh không men, nhúng vào chén charosheth và ăn. Việc này được gọi là nhúng vào nước. Nó nhắc lại cảnh làm nô lệ và những viên gạch mà họ đã bị bắt buộc phải sản xuất.

11/ Tiếp theo là bữa ăn chính. Cả con chiên được đem ra ăn. Nếu còn dư thừa chút gì thì phải thiêu đi, chứ không được dùng cho một bữa ăn bình thường nào khác.

12/ Lại rửa tay.

13/ Ăn bánh không men còn lại.

14/ Đọc bài cầu nguyện cảm tạ, gồm một lời khấn xin Êlia kịp đến để báo tin về Đấng Mêsia. Rồi mọi người uống chén rượu thứ ba được gọi là chén cảm tạ. Lời chúc phúc lúc nâng chén là “Hỡi Đức Chúa là Thiên Chúa, là Vua toàn cõi vũ trụ, Đấng đã tạo nên trái nho, đáng cảm tạ Ngài”.

15/ Hát bài thứ hai các bài Hallel (Thánh vịnh 115,118).

16/ Hai bài cầu nguyện ngắn như sau được đọc lên “Hỡi Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, mọi công việc Ngài đều ca ngợi Ngài. Tất cả các thánh, các người công chính, những kẻ làm đẹp lòng và toàn thể dân Ngài, cả nhà Israel, bằng bài ca vui mừng, hãy ca ngợi và chúc tụng, tán dương và tôn vinh, tôn cao và cung kính, thánh hoá và ghi tạc danh Ngài vào Nước Ngài. Hỡi Chúa là Vua chúng tôi, thật là tốt đẹp khi ca ngợi, lấy làm thoả vui mà hát ngợi khen danh Ngài, vì từ đời đời cho đến đời đời Ngài là Thiên Chúa.

“Hơi thở của mọi sinh vật sẽ ca tụng danh Ngài là Chúa. hỡi Chúa chúng tôi, mọi vật sẽ mãi mãi tôn vinh và đề cao Ngài. Hỡi Thượng Đế, Vua chúng tôi, vì từ đời đời đến đời đời Ngài là Thượng Đế, ngoài Ngài ra chẳng có Vua, chẳng có Đấng cứu chuộc hay Đấng Cứu Thế nào khác”.

Như thế là Lễ Vượt Qua kết thúc. Nếu buổi lễ mà Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài đã ngồi lại để dự là Lễ Vượt Qua, thì chắc Chúa Giêsu đã dùng mục 13 và 14 để nói về chính Ngài và mục 16 chắc là bài thánh ca mà mọi người cùng hát lên trước khi ra đi đến núi Ôliu.

Bây giờ, chúng ta hãy vào xem Chúa Giêsu đã làm gì và Ngài đã làm cách nào gây ấn tượng trên những người theo Ngài. Hơn một lần chúng ta thấy các ngôn sứ Israel dùng các hành động biểu tượng và những diễn xuất kịch nghệ để truyền đạt sứ điep khi họ cảm thấy lời nói không chưa đủ. Đó là việc Ahigia đã làm khi ông xé áo choàng của ông ra làm 12 mảnh và trao 10 mảnh cho Giêrôbôam, là dấu hiệu về 10 chi phái trong dân Israel sẽ tôn ông ta lên làm vua (1V 11,29-32). Đó là việc Giêrêmia cũng từng làm khi ông làm xiềng và ách rồi mang chúng như một dấu hiệu về tình trạng nô lệ sắp xảy đến (Gr 28,10-11). Đó là phương cách mà tiên tri Êdêkiên vẫn thường làm (Ed 4,1-8; 5,1-4). Ngươi ta rất dễ quên lời nói, nhưng một hành động như diễn kịch có thể in sâu vào tâm trí họ. Đó là việc Chúa Giêsu đã làm khi Ngài kết hợp hành động như diễn kịch đó với ngày lễ cổ của dân tộc Ngài, để nó càng in sâu hơn vào tâm trí các môn đệ Ngài. Ngài phán “Hãy xem như bánh này đã bị bẻ ra làm sao, thì thân thể ta cũng sẽ vì các người mà bị vỡ nát ra như vậy. Chén đựng chất rượu màu đỏ này bị đổ ra làm sao thì máu ta cũng sẽ vì cac ngươi mà đổ ra như vậy”.

Ngài ngụ ý gì khi bảo rằng chén này tiêu biểu cho Giao Ước mới? Từ Giao Ước là một chữ rất thông thường trong tôn giáo Do Thái. Nền tảng của Do Thái giáo là Thiên Chúa đã lập một Giao Ước với dân Israel. Từ này có nghĩa là một sự dàn xếp, trả giá, một hợp đồng hai chiều. Việc thừa nhận Giao Ước cũ được nói rõ trong Xuất hành 24,3-8. Theo đoạn sách đó chúng ta thấy Giao Ước hoàn toàn tuỳ thuộc việc dân Israel tuân giữ luật. Nếu luật bị vi phạm thì Giao Ước cũng bị vi phạm, và mối liên hệ giữa Thiên Chúa với dân Israel sẽ tan rã. Đây là một mối giao hảo hoàn toàn tuỳ thuộc luật và việc tuân giữ luật ấy. Thiên Chúa là vị thẩm phán. Vì không hề có ai giữ trọn luật nên phần khiếm khuyết luôn luôn ở về phía dân chúng. Nhưng Chúa Giêsu phán “Ta phê chuẩn và ban hành một Giao Ước mới, một mối liên hệ, một hợp đồng mới giữa Thiên Chúa với loài người. Nhưng Giao Ước này không lệ thuộc vào luật mà tuỳ thuộc tình yêu. Nói khác đi, Chúa Giêsu muốn bảo rằng “Việc Ta đang làm đây để chứng minh cho các ngươi thấy Thiên Chúa yêu thương các ngươi như thế nào”. Loài người không chỉ đơn giản ở dưới luật của Thiên Chúa. Vì điều Chúa Giêsu đã thực hiện, họ mãi mãi ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là yếu tính của những gì Tiệc Thánh nói lên với chúng ta.

Có thể ghi nhận thêm một điểm nữa. Trong câu cuối cùng, một lần nữa chúng ta lại thấy hai điều thường thấy: Chúa Giêsu biết Ngài sắp phải chịu chết và Ngài đã biết Nước Ngài sắp đến. Ngài chắc chắn về thập giá, và cũng chắc chắn không kém về vinh quang. Lý do khiến Ngài biết chắc cả hai như vậy vì Ngài biết cách chắc chắn về tình yêu của Thiên Chúa cũng như biết chắc về tội lỗi của loài người. Và Ngài biết cuối cùng thì tình yêu sẽ chinh phục tội nhan.

 

62. Giao Ước Máu

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Trong Bữa Tiệc Ly, chính Chúa Giêsu đã xác lập Giao Ước Máu: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22:20). Giao ước mới chứ không cũ, và được ký kết bằng máu chứ không bằng thứ gì khác, mà máu này là chính Máu của Con Thiên Chúa, chứ không là máu chiên, máu bò, máu dê,... Giao ước mới là Giao Ước Máu – Máu Thánh của chính Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa.

Giao ước (hiệp ước, thỏa ước, khế ước, minh ước) khác với hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận của đôi bên và có thời hạn. Còn giao ước vô thời hạn, vĩnh viễn, và là thành phần của cuộc sống. Hợp đồng và giao ước đều có những trách nhiệm mà đôi bên phải thực hiện.

Theo nghĩa Kinh Thánh, giao ước được thiết lập và đóng ấn bằng một lễ nghi công khai và long trọng. Theo phong tục của dân ở Đất Thánh xưa, người ta đóng ấn giao ước bằng nghi thức sát tế một con vật, rồi phân thây con vật ấy thành hai phần và đặt dưới đất. Sau đó, đại diện hai bên lần lượt đi ngang qua giữa hai phần con vật đó, ngụ ý quyết tâm thi hành giao ước và sẵn sàng chịu cùng một số phận như con vật bị giết nếu vi phạm giao ước (x. St 15:7-20; Gr 31:31; Gr 34:18-22).

Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã nhiều lần thiết lập giao ước với loài người (x. St 8:20-21; St 9:8-17; St 12:1-3) . Có hai giao ước được nhắc tới trong Kinh Thánh là Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới – Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước là giao ước được thiết lập giữa Thiên Chúa và dân Israel, được đóng ấn bằng máu con vật sát tế. Tân Ước là giao ước được thiết lập trực tiếp giữa Thiên Chúa và toàn thể nhân loại, và được đóng ấn bằng chính Bửu Huyết của Đức Kitô, Con Một yêu dấu của Thiên Chúa.

Không gì có thể so sánh với giá máu, gọi là vô giá. Tục ngữ Việt Nam so sánh: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Quý lắm! Như chúng ta biết, máu là một tổ chức di động, được tạo thành từ thành phần hữu hình là các tế bào và huyết tương. Theo thể tích, hồng cầu chiếm khoảng 45%, bạch cầu chiếm khoảng 0,7%, và huyết tương chiếm khoảng 54,3%. Chức năng chính của máu là cung cấp các chất nuôi dưỡng và cấu tạo các tổ chức, đồng thời loại bỏ các chất thải trong quá trình chuyển hóa của cơ thể – như khí carbonic và acid lactic. Máu cũng là phương tiện vận chuyển của các tế bào (cả tế bào bảo vệ cơ thể và tế bào bệnh lý) và các chất khác nhau (các amino acid, lipid, hormone) trong các cơ phận quan trọng. Các rối loạn về thành phần cấu tạo máu hoặc sự tuần hoàn bình thường của máu đều có thể dẫn đến rối loạn chức năng của nhiều cơ quan khác. Máu chiếm 7% trọng lượng cơ thể. Người trưởng thành trung bình có khoảng 5 lít máu. Tỷ trọng máu ở vào khoảng 1060 kg/m3.

Rõ ràng máu thực sự giữ vai trò rất quan trọng trong sự sống của con người – và động vật. Cái gì liên quan máu đều đáng giá, vì liên quan sự sống còn! Thực vật có loại “máu lạnh” và không có màu đỏ, chúng ta gọi là “nhựa”.

Cuộc sống có nhiều thứ liên quan máu, có thể tốt, có thể xấu, nhưng luôn “nghiêm trọng”. Máu xấu có trong những người xấu xa, chẳng hạn một cô bé vô tội 16 tuổi ở Guatemala bị đám người xấu đánh đập dã man, rồi họ thiêu sống em

(https://www.youtube.com/watch?v=FkrVxd1QQ3E).

Và hàng ngày, ở đâu đó trên thế giới này – kể cả Việt Nam, còn biết bao vụ án liên quan “máu xấu” vẫn không ngừng xảy ra. Chính họ đang muốn “triệt tiêu” Thiên Chúa, làm hư Giá Máu của Đức Giêsu Kitô.

Chúa Giêsu đã nói thẳng với Sao-lê – tức là Sa-un, sau trở thành Phaolô: “Đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi!” (Cv 26:14). Người có “máu xấu” cố ý làm ngơ chứ chắc chắn không phải không biết. Còn máu, còn sống; mất máu, đông máu hoặc “khô máu”, chết chắc! Đó là quy luật tự nhiên – tức là Luật Chúa. Sao-lê đã tỉnh ngộ vì cú ngã ngựa chí mạng, và rồi nhìn vào thực tế của cuộc đời nhiễu nhương này, ông đã phải thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Người ta đã và đang muốn loại bỏ Thiên Chúa, bằng chứng là xưa nay luôn xuất hiện các tà thuyết. Nhiều điều nhãn tiền mà người ta vẫn không hề biết sợ, vì quá cố chấp. Thật khủng khiếp!

Ngày xưa, ông Mô-sê xuống núi thuật lại cho dân mọi lời và mọi điều luật của Đức Chúa. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành” (Xh 24:3). Rất ngoan ngoãn. Một lời hứa rất đẹp. Ước gì họ luôn ngoan ngoãn như vậy, và chúng ta cũng luôn ngoan ngoãn như thế. Nhưng nào có được như vậy!

Ông Mô-sê chép lại mọi lời của Đức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa. Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24:7). Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24:8).

Giao ước cũ cũng có “dính líu” tới máu. Máu biểu hiện sự sống. Vì thế, máu rất quan trọng, vì sự sống là thứ bất khả xâm phạm. Màu máu cũng có gì đó rất khác lạ, sắc đỏ khác với mọi màu đỏ khác. Với những con người bình thường, lời thề cũng thường liên quan máu. Ngày xưa, người ta thường “uống máu ăn thề” – họ cùng cắt máu ngón tay, cho chảy chung vào một cái chén rồi chia nhau uống, thề sống chết có nhau. Các Thánh Vịnh cũng lặp đi lặp lại từ “giao ước” ít nhất 18 lần – trong 13 Thánh Vịnh.

Phàm nhân chẳng là gì, nhưng Thiên Chúa đã tha tội chết, cho quyền sống, và còn ký kết giao ước vĩnh viễn. Cảm được lòng thương xót bao la của Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh đã tự nhủ: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa” (Tv 116:12-13).

Thiên Chúa là Chúa của người sống, Ngài yêu thương họ tới cùng và Ngài muốn mọi người được sống dồi dào. Tác giả Thánh Vịnh tự hứa với Thiên Chúa: “Đối với Chúa thật là đắt giá, cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:15-16). Và quyết tâm hành động: “Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Chúa. Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người” (Tv 116:17-18).

Thánh Phaolô cho biết: “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9:11-12). Như đã nói, cái gì liên quan máu đều là vấn đề nghiêm trọng. Máu động vật đã vậy, máu người còn nghiêm trọng hơn. Và còn hơn thế nữa, Máu Chúa Giêsu vô cùng quý giá, tột đỉnh quý giá, không gì có thể so sánh, vì không chỉ là Máu Thánh mà còn là Máu Cực Thánh.

Thánh Phaolô so sánh và giải thích: “Nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (Dt 9:13-14). Máu động vật và máu người có thể làm chúng ta bị dơ bẩn, nhưng Máu Thánh Chúa Giêsu lại khác, không làm chúng ta dơ bẩn mà còn tẩy sạch chúng ta khỏi mọi thứ ô uế.

Thật kỳ diệu với mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa sự sống thể lý và sự sống tâm linh. Thánh Phaolô cho biết: “Người [Chúa Giêsu] là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9:15).

Ca tiếp liên “Lauda Sion” (Hỡi Sion, Hãy Ngợi Khen) có những lời cầu nguyện thâm thúy này: “Này đây bánh của các thiên thần, biến thành lương thực của khách hành hương; thật là bánh của những người con, không nên ném cho loài khuyển. Bánh này đã được báo trước bằng hình ảnh, khi người ta sát tế I-xa-ác, chiên của lễ vượt qua đã được kể ra, khi cha ông chúng ta được tặng man-na. Lạy Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, là Bánh thật, xin Người thương xót, chăn nuôi và bảo vệ chúng con; xin Người ban cho chúng con nhìn thấy những điều thiện hảo trong cõi nhân sinh. Chúa là Ðấng thông biết và có thể làm nên mọi sự, Chúa nuôi dưỡng chúng con trong đời sống tạm gửi này, trên cõi cao xanh, xin cho chúng con được trở nên thực khách đồng bàn của Chúa, đồng thừa kế và đồng danh phận với những công dân thánh của nước trời. Amen”.

Ngày xưa, ca tiếp liên này được sử dụng trong Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi, ngày xưa thường gọi là lễ Săng-ti), không hiểu sao ngày nay không được sử dụng nữa. Thật đáng tiếc!

Thánh Mát-thêu cho biết: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ hỏi Đức Giêsu để biết ý Thầy muốn họ dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu. Ngài sai hai môn đệ đi và dặn họ đi vào thành, gặp một người mang vò nước thì đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ hỏi chủ nhà về căn phòng dành cho Thầy ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ, người ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu đã được chuẩn bị sẵn sàng, và họ sẽ dọn tiệc ở đó. Hai môn đệ ra, vào thành và thấy mọi sự y như Ngài đã nói. Thật kỳ lạ, chỉ có Thiên Chúa mới khả dĩ biết trước như vậy, vì Ngài thấu suốt mọi sự!

Khi đang ăn cùng các môn đệ, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14:22). Rồi Ngài cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14:24-25). Nghe Thầy nói và nhìn phong cách Thầy lúc đó, chắc hẳn họ vô cùng ngạc nhiên – dù Kinh Thánh không ghi lại chi tiết. Không lạ sao được, vì bánh mà bảo là “thịt”, rượu mà bảo là “máu”. Vâng, trí tuệ phàm nhân không thể hiểu thấu: “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì” (Đây Nhiệm Tích).

Trong Thông điệp “Ecclesia de Eucharistia” (Giáo Hội Sống Nhờ Thánh Thể, số 62), Thánh Gioan-Phaolô II đã gọi Thánh Tiến Sĩ Tôma Aquinô là “thần học gia vĩ đại nhất và là thi sĩ mãnh liệt nhất của Chúa Kitô về Bí tích Thánh Thể” (summus theologus simulque Christi Eucharistici fervidus cantor). Trong bộ “Tổng Luận Thần Học” (Summa Theologica, III, Q. 76, Art. 8), Thánh Tôma Aquinô cho biết:

Khách thể 1: Có vẻ như Thánh Thể Chúa Kitô không thực sự ở đó khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong bí tích này. Vì thân thể Ngài ngừng ẩn trong bí tích này khi dạng bí tích ngừng hiện hữu (the sacramental species cease to be present). Nhưng khi thịt hoặc một em bé hiện ra, dạng bí tích ngừng hiện hữu. Do đó thân thể Chúa Kitô không thực sự ở đó.

Khách thể 2: Hơn nữa, dù thân thể Chúa Kitô ở đâu, dưới chính dạng đó hoặc dạng bí tích. Nhưng khi có sự hiện ra, rõ ràng là Chúa Kitô không hiện hữu trong chính dạng của Ngài, vì toàn bộ Chúa Kitô được chứa trong bí tích này, và Ngài vẫn là tổng thể dưới dạng mà Ngài lên trời: nhưng điều xuất hiện mầu nhiệm trong bí tích này đôi khi được thấy là một miếng thịt nhỏ, hoặc đôi khi là một em bé. Rõ ràng là Ngài không ở đó dưới dạng bí tích là bánh hoặc rượu. Do đó, có vẻ như thân thể Chúa Kitô không ở đó bằng bất kỳ cách nào.

Khách thể 3: Hơn nữa, thân thể Chúa Kitô bắt đầu ở trong bí tích này bằng việc thánh hiến và biến chuyển (consecration and conversion). Nhưng thịt và máu xuất hiện mầu nhiệm bằng phép lạ không được thánh hiến (not consecrated), cũng không được biến chuyển thành Mình Máu thật của Chúa Kitô. Vì thế, Mình Máu Chúa Kitô không ẩn dưới dạng đó.

Chúa Giêsu muốn chúng ta sống dồi dào (Ga 10:10), muốn vậy thì chúng ta phải lãnh nhận Thánh Thể. Thánh Eymard, đấng sáng lập Dòng Thánh Thể (SSS – Societas Sanctissimi Sacramenti), đã nói: “Chúng ta chỉ chuốc lấy thất bại nếu chúng ta xa rời Thánh Thể”. Một câu nhắc nhở vô cùng quan trọng, chúng ta cần ghi nhớ luôn.

Lạy Thiên Chúa, xin sắp đặt cuộc đời của chúng con theo đúng ý Ngài và xin ở với chúng con luôn để chúng con được sự sống viên mãn của Con Một Ngài. Xin giúp chúng con biết cầm lấy tấm-bánh-cuộc-đời của chúng con, rồi tạ ơn, bẻ ra, và trao tặng tha nhân với cả tấm lòng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 

63. Thần lương

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Ăn uống là cái sự sung sướng đầu tiên trong tứ khoái của con người. Ăn uống không chỉ là khoái khẩu mà còn là nuôi sống thân xác. Ăn uống cũng là nét văn hóa: Văn hóa ẩm thực. Ăn uống không chỉ là đưa ẩm thực vào miệng, nhai, nuốt và tiêu hóa theo sinh lý tự nhien, mà còn phải học cách ăn để biết cách ăn, như tục ngữ Việt Nam nói: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”.

Thân xác cần lương thực để sống, tâm hồn cũng cần loại lương thực đặc trưng để sống. Người Công giáo hạnh phúc có được một loại siêu ẩm thực, gọi là thần lương, đó là Thánh Thể của chính Đức-Kitô-Thiên-Chúa-Nhập-Thể-Làm-Người. Ai ăn Mình Thánh Chúa và uống Máu Thánh Chúa thì không còn đói khát và được sống đời đời.

THIẾT LẬP GIAO ƯỚC

Ngày xưa, ông Môsê xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành” (Xh 24:3). Ông Môsê đã chép lại mọi lời của Đức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. Đó là Giáo ước và là Thập giới (Mười điều răn). Dâng lễ toàn thiêu, ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa’ rồi ông Môsê lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24:7). Ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24:8). Một Giáo-Ước-Máu được thiết lập giữa Thiên Chúa và loài người.

Chúng ta hoàn toàn bất xứng, thế nhưng Thiên Chúa không coi chúng ta là tôi tớ và lại thiết lập Giáo ước với chúng ta. Vì thế, chúng ta lại càng phải biết dâng lời tạ ơn. Giáo hội đã dùng Tv 116 để tạ ơn, vì Thánh vịnh này là Lời Kinh Tạ Ơn. Thiên Chúa chí thánh và cao sang vô cùng, chúng ta không có gì đền đáp cho cân xứng: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Ngài đã ban cho? (Tv 116:12), tự vấn rồi chỉ còn biết tin cậy vào Ngài: “Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu Thánh Danh Đức Chúa” (Tv 116:12-13).

Chúng ta phải khiêm nhường nhìn nhận: “Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16) và tự hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Ngài” (Tv 116:18).

Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái, Thánh Phaolô cho biết: “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Ngài đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Ngài đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Ngài vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9:11-12). Rồi thánh nhân giải thích và kết luận: “Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì Máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Ngài thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. Trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đa hứa” (Dt 9:13-15). Thánh Phaolô nói rõ ràng quá!

THỰC HIỆN GIAO ƯỚC

Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế chiên Vượt Qua, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh mot phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng. Ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta” (Mc 14:13-15). Hai môn đệ ra đi vào thành, các ông thấy mọi sự y như Ngài đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.

Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14:22). Rồi Ngài cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, trao cho các ông, và nói: “Đây là máu Thầy, máu Giao ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14:24). Đây là phép lạ lớn nhất, và đây là mầu nhiệm đức tin, vì không có đức tin thì không thể nào tin nổi. Bánh và rượu được thánh hóa để trở thành Thánh Thể của Đức Giêsu Kitô, làm thần lương nuôi sống chúng ta hằng ngày. Đó cũng là Giao ước được thực hiện, đúng như Chúa Giêsu đã hứa trước khi Ngài về cùng Chúa Cha: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Ngài lập Bí tích Thánh Thể và cũng lập chức Linh mục kỳ diệu, phàm nhân mà được chúa trao quyền.

Sau đó, Ngài nói: “Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14:25). Ngài về Thiên quốc trước để dọn chỗ cho chúng ta, những người tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Độ.

Để tỏ lòng kính mến Thánh Thể và đáp lại Tình Ngài, chúng ta nên rước lễ that hằng ngày, rước lễ xong thì hãy đắm mình trong Ngài để hòa tan với Ngài và chuyện trò với Ngài, rước lễ thiêng liêng thường xuyên trong ngày, chầu Thánh Thể chung hoặc riêng. Chúa Giêsu ở Nhà Tạm hằng ngày chờ đợi chúng ta tâm sự với Ngài, không phải chúng ta an ủi Ngài mà chúng ta được Ngài an ủi. Thánh Thể và Thánh Tâm phải được chúng ta ưu tiên, và đó cũng là tôn kính Lòng Chúa Thương Xót vậy.

Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn chúng con để chúng con xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể Đức Kitô, là chúng con lãnh nhận phúc trường sinh, chứ không bị án phạt đời đời vì bất xứng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

 

64. Giao Ước Máu

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Trong Bữa Tiệc Ly, chính Chúa Giêsu đã xác lập Giao Ước Máu: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22:20). Giao ước mới chứ không cũ, và được ký kết bằng máu chứ không bằng thứ gì khác, mà máu này là chính Máu của Con Thiên Chúa, chứ không là máu chiên, máu bò, máu dê,... Giao ước mới là Giao Ước Máu – Máu Thánh của chính Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa.

Giao ước (hiệp ước, thỏa ước, khế ước, minh ước) khác với hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận của đôi bên và có thời hạn. Còn giao ước vô thời hạn, vĩnh viễn, và là thành phần của cuộc sống. Hợp đồng và giao ước đều co những trách nhiệm mà đôi bên phải thực hiện.

Theo nghĩa Kinh Thánh, giao ước được thiết lập và đóng ấn bằng một lễ nghi công khai và long trọng. Theo phong tục của dân ở Đất Thánh xưa, người ta đóng ấn giao ước bằng nghi thức sát tế một con vật, rồi phân thây con vật ấy thành hai phần và đặt dưới đất. Sau đó, đại diện hai bên lần lượt đi ngang qua giữa hai phần con vật đó, ngụ ý quyết tâm thi hành giao ước và sẵn sàng chịu cùng một số phận như con vật bị giết nếu vi phạm giao ước (x. St 15:7-20; Gr 31:31; Gr 34:18-22).

Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã nhiều lần thiết lập giao ước với loài người (x. St 8:20-21; St 9:8-17; St 12:1-3). Có hai giao ước được nhắc tới trong Kinh Thánh là Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới – Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước là giao ước được thiết lập giữa Thiên Chúa và dân Israel, được đóng ấn bằng máu con vật sát tế. Tân Ước là giao ước được thiết lập trưc tiếp giữa Thiên Chúa và toàn thể nhân loại, và được đóng ấn bằng chính Bửu Huyết của Đức Kitô, Con Một yêu dấu của Thiên Chúa.

Không gì có thể so sánh với giá máu, gọi là vô giá. Tục ngữ Việt Nam so sánh: “Một giot máu đào hơn ao nước lã”. Quý lắm! Như chúng ta biết, máu là một tổ chức di động, được tạo thành từ thành phần hữu hình là các tế bào và huyết tương. Theo thể tích, hồng cầu chiếm khoảng 45%, bạch cầu chiếm khoảng 0,7%, và huyết tương chiếm khoảng 54,3%. Chức năng chính của máu là cung cấp các chất nuôi dưỡng và cấu tạo các tổ chức, đồng thời loại bỏ các chất thải trong quá trình chuyển hóa của cơ thể – như khí carbonic và acid lactic. Máu cũng là phương tiện vận chuyển của các tế bào (cả tế bào bảo vệ cơ thể và tế bào bệnh lý) và các chất khác nhau (các amino acid, lipid, hormone) trong các cơ phận quan trọng. Các rối loạn về thành phần cấu tạo máu hoặc sự tuần hoàn bình thường của máu đều có thể dẫn đến rối loạn chức năng của nhiều cơ quan khác. Máu chiếm 7% trọng lượng cơ thể. Người trưởng thành trung bình có khoảng 5 lít máu. Tỷ trọng máu ở vào khoảng 1060 kg/m3.

Rõ ràng máu thực sự giữ vai trò rất quan trọng trong sự sống của con người – và động vật. Cái gì liên quan máu đều đáng giá, vì liên quan sự sống còn! Thực vật có loại “máu lạnh” và không có màu đỏ, chúng ta gọi là “nhựa”.

Cuộc sống có nhiều thứ liên quan máu, có thể tốt, có thể xấu, nhưng luôn “nghiêm trọng”. Máu xấu có trong những người xấu xa, chẳng hạn một cô bé vô tội 16 tuổi ở Guatemala bị đám người xấu đánh đập dã man, rồi họ thiêu sống em

(https://www.youtube.com/watch?v=FkrVxd1QQ3E). Và hàng ngày, ở đâu đó trên thế giới này – kể cả Việt Nam, còn biết bao vụ án liên quan “máu xấu” vẫn không ngừng xảy ra. Chính họ đang muốn “triệt tiêu” Thiên Chúa, làm hư Giá Máu của Đức Giêsu Kitô.

Chúa Giêsu đã nói thẳng với Sao-lê – tức là Sa-un, sau trở thành Phaolô: “Đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi!” (Cv 26:14). Người có “máu xấu” cố ý làm ngơ chứ chắc chắn không phải không biết. Còn máu, còn sống; mất máu, đông máu hoặc “khô máu”, chết chắc! Đó là quy luật tự nhiên – tức là Luật Chúa. Sao-lê đã tỉnh ngộ vì cú ngã ngựa chí mạng, và rồi nhìn vào thực tế của cuộc đời nhiễu nhương này, ông đã phải thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Người ta đã và đang muốn loại bỏ Thiên Chúa, bằng chứng là xưa nay luôn xuất hiện các tà thuyết. Nhiều điều nhãn tiền mà người ta vẫn không hề biết sợ, vì quá cố chấp. Thật khủng khiếp!

Ngày xưa, ông Mô-sê xuống núi thuật lại cho dân mọi lời và mọi điều luật của Đức Chúa. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành” (Xh 24:3). Rất ngoan ngoãn. Một lời hứa rất đẹp. Ước gì họ luôn ngoan ngoãn như vậy, và chúng ta cũng luôn ngoan ngoãn như thế. Nhưng nào có được như vậy!

Ông Mô-sê chép lại mọi lời của Đức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa. Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24:7). Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24:8).

Giao ước cũ cũng có “dính líu” tới máu. Máu biểu hiện sự sống. Vì thế, máu rất quan trọng, vì sự sống là thứ bất khả xâm phạm. Màu máu cũng có gì đó rất khác lạ, sắc đỏ khác với mọi màu đỏ khác. Với những con người bình thường, lời thề cũng thường liên quan máu. Ngày xưa, người ta thường “uống máu ăn thề” – họ cung cắt máu ngón tay, cho chảy chung vào một cái chén rồi chia nhau uống, thề sống chết có nhau. Các Thánh Vịnh cũng lặp đi lặp lại từ “giao ước” ít nhất 18 lần – trong 13 Thánh Vịnh.

Phàm nhân chẳng là gì, nhưng Thiên Chúa đa tha tội chết, cho quyền sống, và còn ký kết giao ước vĩnh viễn. Cảm được lòng thương xót bao la của Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh đã tự nhủ: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa” (Tv 116:12-13).

Thiên Chúa là Chúa của người sống, Ngài yêu thương họ tới cùng và Ngài muốn mọi người được sống dồi dào. Tác giả Thánh Vịnh tự hứa với Thiên Chúa: “Đối với Chúa thật là đắt giá, cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:15-16). Và quyết tâm hanh động: “Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Chúa. Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người” (Tv 116:17-18).

Thánh Phaolô cho biết: “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Người đã vào cung thánh không phải với máu cac con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9:11-12). Như đã nói, cái gì liên quan máu đều là vấn đề nghiêm trọng. Máu động vật đã vay, máu người còn nghiêm trọng hơn. Và còn hơn thế nữa, Máu Chúa Giêsu vô cùng quý giá, tột đỉnh quý giá, không gì có thể so sánh, vì không chỉ là Máu Thánh mà còn là Máu Cực Thánh.

Thánh Phaolô so sánh và giải thích: “Nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thanh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (Dt 9:13-14). Máu động vật và máu người có thể làm chúng ta bị dơ bẩn, nhưng Máu Thánh Chúa Giêsu lại khác, không làm chúng ta dơ bẩn mà còn tẩy sạch chúng ta khỏi mọi thứ ô uế.

Thật kỳ diệu với mối liên kết giưa Cựu Ước và Tân Ước, giữa sự sống thể lý và sự sống tâm linh. Thánh Phaolô cho biết: “Người [Chúa Giêsu] là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9:15).

Ca tiếp liên “Lauda Sion” (Hỡi Sion, Hãy Ngợi Khen) có những lời cầu nguyện thâm thúy này: “Này đây bánh của các thiên thần, biến thành lương thực của khách hành hương; thật là bánh của những người con, không nên ném cho loài khuyển. Bánh này đã được báo trước bằng hình ảnh, khi người ta sát tế I-xa-ác, chiên của lễ vượt qua đã được kể ra, khi cha ông chúng ta được tặng man-na. Lạy Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, là Bánh thật, xin Người thương xót, chăn nuôi và bảo vệ chúng con; xin Người ban cho chúng con nhìn thấy những điều thiện hảo trong cõi nhân sinh. Chúa là Đấng thông biết và có thể làm nên mọi sự, Chúa nuôi dưỡng chúng con trong đời sống tạm gửi này, trên cõi cao xanh, xin cho chúng con được trở nên thực khách đồng bàn của Chúa, đồng thừa kế và đồng danh phận với những công dân thánh của nước trời. Amen”.

Ngày xưa, ca tiếp liên này được sử dụng trong Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi, ngày xưa thường gọi là lễ Săng-ti), không hiểu sao ngày nay không được sử dụng nữa. Thật đáng tiếc!

Thánh Mát-thêu cho biết: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ hỏi Đức Giêsu để biết ý Thầy muốn họ dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu. Ngài sai hai môn đệ đi và dặn họ đi vào thành, gặp một người mang vò nước thì đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ hỏi chủ nhà về căn phòng dành cho Thầy ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ, người ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu đã được chuẩn bị sẵn sàng, và họ sẽ dọn tiệc ở đó. Hai môn đệ ra, vào thành và thấy mọi sự y như Ngài đã nói. Thật kỳ lạ, chỉ có Thiên Chúa mới khả dĩ biết trước như vậy, vì Ngài thấu suốt mọi sự!

Khi đang ăn cùng các môn đệ, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14:22). Rồi Ngài cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14:24-25). Nghe Thầy nói và nhìn phong cách Thầy lúc đó, chắc hẳn họ vô cùng ngạc nhiên – dù Kinh Thánh không ghi lại chi tiết. Không lạ sao được, vì bánh mà bảo là “thịt”, rượu mà bảo la “máu”. Vâng, trí tuệ phàm nhân không thể hiểu thấu: “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì” (Đây Nhiệm Tích).

Trong Thông điệp “Ecclesia de Eucharistia” (Giáo Hội Sống Nhờ Thánh Thể, số 62), Thánh Gioan-Phaolô II đã gọi Thánh Tiến Sĩ Tôma Aquinô là “thần học gia vĩ đại nhất và là thi sĩ mãnh liệt nhất của Chúa Kitô về Bí tích Thánh Thể” (summus theologus simulque Christi Eucharistici fervidus cantor). Trong bộ “Tổng Luận Thần Hoc” (Summa Theologica, III, Q. 76, Art. 8), Thánh Tôma Aquinô cho biết:

Khách thể 1: Có vẻ như Thánh Thể Chúa Kitô không thực sự ở đó khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong bí tích này. Vì thân thể Ngài ngừng ẩn trong bí tích nay khi dạng bí tích ngừng hiện hữu (the sacramental species cease to be present). Nhưng khi thịt hoặc một em bé hiện ra, dạng bí tích ngừng hiện hữu. Do đó thân thể Chúa Kitô không thực sự ở đó.

Khách thể 2: Hơn nữa, dù thân thể Chúa Kitô ở đâu, dưới chính dạng đó hoặc dạng bí tích. Nhưng khi có sự hiện ra, rõ ràng là Chúa Kitô không hiện hữu trong chính dạng của Ngài, vì toàn bộ Chúa Kitô được chứa trong bí tích này, và Ngài vẫn là tổng thể dưới dạng mà Ngài lên trời: nhưng điều xuất hiện mầu nhiệm trong bí tích này đôi khi được thấy là một miếng thịt nhỏ, hoặc đôi khi là một em bé. Rõ ràng là Ngài không ở đó dưới dạng bí tích là bánh hoặc rượu. Do đó, co vẻ như thân thể Chúa Kitô không ở đó bằng bất kỳ cách nào.

Khách thể 3: Hơn nữa, thân thể Chúa Kitô bắt đầu ở trong bí tích này bằng việc thánh hiến và biến chuyển (consecration and conversion). Nhưng thịt và máu xuất hiện mầu nhiệm bằng phép lạ không được thánh hiến (not consecrated), cũng không được biến chuyển thành Mình Máu thật của Chúa Kitô. Vì thế, Mình Máu Chúa Kitô không ẩn dưới dạng đó.

Chúa Giêsu muốn chúng ta sống dồi dào (Ga 10:10), muốn vậy thì chúng ta phải lãnh nhận Thánh Thể. Thánh Eymard, đấng sáng lập Dòng Thánh Thể (SSS – Societas Sanctissimi Sacramenti), đã nói: “Chúng ta chỉ chuốc lấy thất bại nếu chúng ta xa rời Thánh Thể”. Một câu nhắc nhở vô cùng quan trọng, chúng ta cần ghi nhớ luôn.

Lạy Thiên Chúa, xin sắp đặt cuộc đời của chúng con theo đúng ý Ngài và xin ở với chúng con luôn để chúng con được sự sống viên mãn của Con Một Ngài. Xin giúp chúng con biết cầm lấy tấm-bánh-cuộc-đời của chúng con, rồi tạ ơn, bẻ ra, và trao tặng tha nhân với cả tấm lòng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 

 65. Của ăn bổ dưỡng chia sẻ

(Suy niệm của Lm. Phanxicô M. Hưng Long, CRM)

Một du khách đi qua miền Tây Hoa Kỳ, dừng lại ở trạm Du Lịch (Tourist Information) và hỏi một nhân viên làm việc như sau: "Tôi muốn biết thêm về vùng này, ông có thể cho tôi biết, đây có phải là chỗ lành mạnh (healthy place) không? Với một vẻ hãnh diện, nhân viên làm việc trả lời: "Chắc chắn là lành mạnh rồi! Bởi vì khi bắt đầu đến đây thì tôi không biết nói. Không có sức để đi. Người ta phải bồng tôi đi từ chỗ này qua chỗ khác. Người ta phải nuôi tôi, cho tôi ăn. Đầu tôi dường như không có một cọng tóc. Nhưng bây giờ ông hãy nhìn tôi xem. Tôi có một mái tóc rậm rạp. Tôi chạy bộ mỗi ngày năm miles. Tôi tự mình chăm sóc cho mình, và ăn nói thì không thành vấn đề." Du khách tỏ ra rất cảm phục nói: Hay! thật là lạ lùng, nhưng xin ông cho tôi biết, ông đã sống ở đây bao lâu. Với đôi mắt sáng lên, nhân viên trả lời: "Cả cuộc đời của tôi. Tôi sinh ra ở đây".

Thật ra, vấn đề sức khỏe không chỉ là một mối quan tâm lớn của người du khách trong câu chuyện mà là của nhiều dân Hoa Kỳ hiện nay, từ Đông qua Tây, từ Bắc xuống Nam, các thống kê cho thấy phần đông dân chúng đã để ý tới sức khỏe và đang thu hoạch được nhiều kết quả tốt đẹp. Hơn 16 thế kỷ về trước, Thánh Augustinô đã viết: "You are what you eat. Bạn là cái bạn ăn". Vì vậy câu châm ngôn này đang được người ta chú trọng hơn bao giờ hết. Trong các tờ báo lớn, phần nói về đồ ăn "Food Section" cũng mở rộng thêm. Các kệ sách cũng thêm đất cho các loại sách viết về diet kiêng ăn uống. Và một vài cuốn cũng được xếp vào hạng Best Seller bán chạy nhất. Điều đó cho thấy rõ rằng càng ngày người ta càng để ý nhiều đến thức ăn bổ dưỡng. Và nhiều ngươi đang được hưởng hiệu quả tốt do một thân thể được bồi bổ đem lại. Cộng Đồng Khoa Học (The Scientifi c Community) cũng đồng lòng nhắc bảo là con đường dẫn tới sức khỏe lành mạnh hơn đó là tập thể dục và ăn uống (exercise and diet) và rất nhiều người đang để ý tới. Ai cũng muốn trau dồi một thân thể đẹp khỏe mạnh, để có một cuộc sống có chất lượng.

Con người ngày nay đang muốn nâng cao cuộc sống thể lý, nhưng có muốn nâng cao cuộc sống tinh thần không? Con người ngày nay muốn sống lâu hơn, nhưng có muốn sống khá hơn không? Chắc hẳn là có vì ai cũng muốn một hồn lành trong xác mạnh.

Để bổ dưỡng phần hồn, Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly đã muốn chúng ta được nuôi dưỡng, được bổ sức bằng một của ăn không gì có thể sánh bằng đó là Mình và Máu Ngài. Chúa Giêsu tuyên bố là Ngài hiện diện cách sống động trong bánh và rượu mà Ngài chia sẻ với các môn đệ.

Theo phong tục Đong Phương, sự hiếu khách được người ta coi rất trọng. Người ta ăn và uống từ một bát lớn. Ăn chung một bát uống chung một chén bày tỏ sự gắn bó với nhau. Bẻ bánh và chia sẻ với nhau bày tỏ tình bạn hữu và sự dấn than cho nhau. Vì vậy trong bữa Tiệc Ly khi Chúa Giêsu bẻ bánh với các bạn hữu của Ngài, các Ngài cảm thấy vinh dự được chia sẻ cuộc sống của Ngài cách đặc biệt, và Ngài cũng chia sẻ cuộc sống của họ. Vì vậy qua sự chia se bánh và rượu sự gắn bó và thân thiết với nhau được nuôi dưỡng triển nở.

Trong xã hội ngày nay người ta thường ăn uống vội vã và các phần tử trong gia đình không còn nhiều cơ hội để ăn cùng giờ, cùng chỗ, cùng mâm nữa. Vì vậy sự thân tình cũng bị mất hoặc giảm đi phần nào.

Chớ gì chúng ta hãy cố gắng tạo cơ hội trong gia đình ăn uống chung với nhau hằng ngày. Chúng ta hãy biết quí trọng những bữa ăn đó như là thời gian thánh như là biến cố thánh. Đó là lúc chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện yêu thương của Chúa. Đó là cơ hội để chúng ta để ý đến nhau, gắn bó với nhau, chia sẻ với nhau những câu chuyện vui, những kỷ niệm đẹp, những sinh hoạt trong cuộc sống, cố gắng tránh cãi nhau, to tiếng lên tông với nhau để nhờ đó không những thân xác chúng ta được dưỡng nuôi mà sự liên kết trong tình thân thiện với nhau được gia tăng thêm.

Khi chúng ta được mời đi ăn thì người ta không chỉ cho chúng ta của ăn, mà muốn chia sẻ với chúng ta sự tiếp đón thân tình nữa. Chính những câu chuyện chia sẻ cũng như những của ăn, nuôi dưỡng không những thể xác mà cả tinh thần và trái tim của chúng ta nữa.

Cũng vậy khi chúng ta được mời gọi tham dự vào bữa tiệc Thánh, Chúa muốn làm cho chúng ta trở thành người đồng hành và bạn thân của Chúa. Đồng hành tiếng Anh là companion bắt nguồn từ hai chữ Latinh: cum có nghĩa là với và panis là bánh. Vì vậy companion là người mà chúng ta chia sẻ bánh với. Do đó khi chia sẻ đồ ăn và thức uống chúng ta cũng phải trở nên người đồng hành và bạn thân của nhau.

Tiệc Thánh Thể là một tặng ân vô giá của Thiên Chúa. Chớ gì khi chia sẻ tặng ân quí giá nhất này với nhau, xin Mình và Máu Chúa Kitô liên kết chúng ta mật thiết hơn trong một Thân Thể là Chúa Kitô và xin của ăn Thánh Thể nuôi dưỡng đời sống gia đình của chúng ta và giúp chúng ta có khả năng phục vụ nhau trong yêu thương.

 

66. Hãy nhận lấy mà sống

(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)

Theo một thống kê gần đây của viện Gallup thì đã có nhiều người Công giáo vẫn còn hoặc hoài nghi hoặc lẫn lộn về Chúa thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu sau lúc truyền phép và ngay cả khi lên rước lễ.

Sự hoài nghi cũng chẳng là điều gì phải ngạc nhiên nhiều cho lắm. Thực thế, cách đây hơn 900 năm, một linh mục trẻ tên là Berengarius đã phủ nhận bánh ruợu đã trở thành Mình Máu Thánh Chúa sau khi truyền phép nói rằng sự thay đổi chỉ xảy ra trong tâm trí của con người mà thôi.

Nếu có những người cố tình phủ nhận thì cũng có rất nhiều người cổ động việc sùng kính mầu nhiệm rất cao cả này. Thánh Anthony thành Pađua mà Giáo Hội kính nhớ vào ngày 13/6 mỗi năm là một trong những vị thánh có lòng tin mãnh liệt vào Thánh Thể Chúa.

Chuyện kể rằng có một ông phú hộ kia thách thức bằng cách để một con lừa bị bỏ đói lâu ngày trước một bó rơm và xin Thánh nhân để Thánh Thể Chúa cạnh bên. Con lừa vội chạy ngay lại bó rơm ngửi ngửi rồi kinh ngạc làm sao, sụp bốn chân đầu cúi xuống trước hào quang Thánh Thể Chúa. Chuyện nghe có vẻ buồn cười và khó tin, nhưng như thánh Louis de Monfort nói "khi nghe chuyện về các thánh, hãy tin" vì không có gì là không thể với Thiên Chúa.

Lòng tôn sùng Thánh Thể Chúa đuợc thể hiện một cách cụ thể sống động qua không ai khác hơn là Mẹ Maria. Năm 1800, Mẹ đã hiện ra cùng Thánh Peter Julian Eymard -vị Thánh với biệt danh là Tông Đồ Thánh Thể vì lòng đặc biệt yêu kính Thánh Thể và truyền cho Thánh nhân thành lập một hội dòng chỉ để tôn sùng Thánh Thể Chúa. Đến tháng 5 năm 1856, đuợc sự hổ trợ của Đưc Cố Giáo Hoàng Piô thứ 9, Thánh nhân đã thành lập Dòng Thánh Thể để cổ động việc tồn sùng Thánh Thể Chúa trên toàn thế giới.

Nếu những người phàm trần như Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Thánh Thể và Thánh Peter Julian Eyward là Tông Đồ Thánh Thể thì mỗi chúng ta cũng đuợc kêu mời trở thành chứng nhân Thánh Thể Chúa.

Khi Mẹ thốt lên hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ đã trở thành nhà tạm đầu tiên của Thiên Chúa. Cũng thế, mỗi khi "ăn bánh và uống chén này", chúng ta phải trở thành nhà tạm Thánh Thể Chúa, nghĩa là chúng ta phải cùng chết với Đức Kitô để có thể đuợc sống lại vinh hiển với Người. Chữ 'Amen' phải thưa khi rước lễ có ý nghĩa là chúng ta tin tấm bánh kia chính là Mình Thánh và giọt rượu kia chính là Máu Thánh Chúa. Vì thế, ngoài việc bày tỏ thái độ tuyệt đối tôn kính nghiêm trang khi lên ruớc lễ, chúng ta phải luôn tự nhắc nhở rằng khi Thiên Chúa đã trở thành hy lễ thì mỗi chúng ta cũng phải trở nên của lễ hiến tế cho Người. Và cho tha nhân.

Nói một cách khác, trong Cựu Ước chiên bò là của lễ hy tế nhưng trong Tân Ước chính chúng ta là hy lễ tiến dâng. Thánh Lễ không phải chỉ là Nghi Thức tưởng nhớ Con Chúa chịu chết trên đồi Núi Sọ hơn hai ngàn năm trước mà chính là dâng hiến hồn xác chúng ta, như lời một bài ca "Hồn con đây với xác con đây, đền vì bao tội lỗi xưa nay."

 

67. Sống thân tình với Chúa - Như Hạ, OP

Thật là khó khi muốn tìm được một người bạn đích thực trong cuộc sống hôm nay. Thế nhưng trong mầu nhiệm Thánh Thể, Đức Giêsu sẽ mạc khải tình bạn lớn lao nhất và thâm sâu nhất nơi Mình và Máu Thánh Chúa.

TÌNH CHO KHÔNG BIẾU KHÔNG

Quả thực, Đức Giêsu đã muốn tái nhập thể nơi Thánh Thể để trở thành người bạn thân thiết với mỗi người tín hữu. Tình bạn này thâm sâu đến nỗi khiến Đức Giêsu muốn trở nên một với họ. Người muốn trở thành đôi bạn chân tình trong cuộc đời dương thế. Người còn muốn phóng cái nhìn người bạn về một tương lai xa đến tận cung lòng Thiên Chúa. Nói khác, Người muốn trở thành nhịp cầu nối đất với trời. Chính vì thế, Người quả quyết: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời." (Ga 6:51) Một lần hạ xuống để nâng toàn thể nhân loại từ lãnh địa tử thần lên nơi hằng sống, từ nơi tối tăm lên nơi đầy ánh sáng thường hằng. Cuộc hành trình từ trời xuống rồi từ hạ giới tới cõi sống muôn đời, Đức Giêsu luôn đã vẽ ra một con đường thần tiên vô cùng hap dẫn.

Xuống trần gian, Người không đi lang thang vô định. Cuộc hành trình của Người có dừng lại một nơi. Nơi đó chính là tâm hồn người tín hữu đã đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Quả thực, "ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy." (Ga 6:56) Đúng là "mình với ta tuy hai mà một"! Chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu xa chân lý đó khi nói: "Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi." Từ nay mọi việc đều do Đức Kitô thực hiện trong nhiệm thể. Nhiệm thể chẳng tự mình làm gì, vì chính Đức Kitô luôn hành động trong nhiệm thể là Giáo hội. Nói khác, nhờ sự sống là Mình và Máu Thánh Chúa, Giáo hoi làm cho Đức Kitô luôn nhập thể và nhập thế.

Chính Thánh Linh đã thực hiện cuộc trao đổi lạ lùng đó. Nếu không có sức mạnh Thánh Linh, Đức Giêsu đã không thể nhập thể và sống lại được. Cũng chính Thánh Linh đã dẫn Người vào sa mạc để chiến thắng ác thần. Thánh Linh là nguồn hứng cho Tin Mừng giải thoát. Thánh Linh đã khiến moị người đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chính kẻ thù cũng phải thốt lên: "Chưa thấy ai nói năng giong như ông ấy."

Khi mặc lấy xác phàm dễ chết, Đức Giêsu đã không nhuốm mùi tử khí. Trái lại, Người đã dùng "gậy ông đập lưng ông," dùng chính xác phàm mỏng dòn để đem lại cảnh trường sinh bất lão cho toàn thể nhân loai. Ngày xưa, nhân loại đã mỏi mắt tìm thần dược để cứu con người khỏi cảnh hư nát. Nhưng con người đã thất bại hoàn toàn. Đức Giêsu đã xác quyết thần dược đó "chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống." (Ga 6:51) Tại sao thịt lại có thể làm cho thịt sống muôn đời? Không thể tưởng tượng nổi! Chính người Do thái cũng thắc mắc: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?" (Ga 6:52) Nhìn bằng con mắt phàm làm sao thấy Chúa Cha như nguyên nhân sinh ra sự sống nơi Chúa Con, và Chúa Thánh Linh động lực thúc đẩy mọi hành động nơi Chúa Con? Phải có bao nhiêu ân sủng lớn lao mới có thể tin theo lời Đức Giêsu quả quyết: "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy." (Ga 6:57) Như thế rõ ràng nguyên nhân sau cùng sinh ra sự sống không phải là huyết nhục, nhưng từ nguồn sống là chính Chúa Cha.

Không những là nguyên nhân ban sự sống, Chúa Cha còn chính là nguyên ủy phát xuất sứ mệnh của Chúa Con. Chính nhờ sứ mệnh cứu nhân độ thế, Chúa Con đã nghiễm nhiên trở thành nguồn sống cho nhân loại nhờ cái chết trên thập giá. Ai tin như thế, không những "sẽ được sống muôn đời," (Ga 6:54, 58) mà còn đón nhận cùng một sứ mệnh như Đức Giêsu. Từ Thánh Thể, hằng ngày Đức Giêsu vẫn hiện diện và không ngừng sai chúng ta đi lam chứng cho thế giới biết về một nguồn sống, nguồn bình an và niềm vui lớn lao đang hiện diện trên mặt đất. Đó là lý do tại sao Giáo hội vững mạnh suốt hai mươi thế kỷ qua.

Không những thế, Giáo hội còn rao giảng Tin Mừng khắp tứ phương thiên hạ vì luôn múc từ nguồn sống vô biên là Thịt Máu Đức Giêsu. Nhiệm thể Người không bao giờ mệt mỏi vì đói khát. Trái lại, Người luôn luôn hiện diện trong Giáo hội như lương thực cung cấp sự sống cho các sứ giả Tin Mừng, vì như Đức Giêsu quả quyết: "Vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống." (Ga 6:55) Xác quyết đó đủ bảo đảm cho niềm tin vào sự hiện diện đích thực của Đức Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Niềm tin đã có ngay từ thời kỳ Giáo hội sơ khai. Thánh Phaolô đã khẳng quyết: "Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?" (1 Cr 10:16) Nếu Thánh Thể chỉ là tượng trưng cho Đức Giêsu, chắc chắn không thể có việc dự phần sống động và sâu xa như vậy!

GIÁO HỘI: DẤU CHỈ HIỆP NHẤT NHÂN LOẠI

Dự phần vào Mình Máu Thánh Chúa, chắc chắn sẽ cảm nghiệm và ý thức được tất cả hồng ân hiệp nhất với Đức Giêsu. Đó chính là lý do tại sao Giáo hội có thể và phải hiệp nhất. "Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể." (1 Cr 10:17) Như thế Thánh Thể là nguyên lý hiệp nhất Giáo hội. Lý do vì mỗi khi chịu lễ, người tín hữu đón nhận tất cả sức mạnh hiệp nhất la Thánh Linh. Chính Đức Giêsu đổ tràn Thánh Linh để uốn nắn chúng ta trong tình yêu và tạo thành niềm vui vô cùng lớn lao trong cuộc đời chúng ta. Nhờ hiến tế hòa giải, Thánh Linh làm cho chúng ta biết tôn trọng nhau như nhưng phần tử của một thân thể duy nhất. Từ đó, chúng ta mới có thể làm chứng cho thế giới biết Thiên Chúa muốn kết thân với nhân loại. Mặc dầu cùng chia sẻ một thân phận với cộng đồng nhân loại, Giáo hội vẫn không ngừng đón nhận được Thánh Linh như sức mạnh canh tân là từ Bí Tích Thánh Thể. Hiến tế thập giá không ngừng tái diễn trên bàn thờ nhờ sức mạnh Thánh Linh. Từ đó, Giáo hội có thể khám phá ra thánh ý Thiên Chúa trong mỗi thách đố.

Thách đố lớn nhất có lẽ là sự rạn nứt giữa anh em Chính thống và Công giáo. Mới đây bức tường ngăn cách hình như càng dầy và cao hơn. Thế nhưng, theo thần học gia kiêm triết gia Gueorgi Bacalov, giáo sư Đại học Sofia, trong cuộc viếng thăm Bulgaria vừa qua, ĐGH Gioan Phaolô II đã đi xa hơn "lòng mong đợi." (Zenit 30/05/02) Sự hiện diện của Đức Thánh Cha đã khiến cho triết gia suy nghĩ: "Phản ứng lạnh lùng ban đầu cũng thay đổi. Không phải vô tình mà vị tu viện trưởng của Tu viện thánh Gioan ở Rila nói những bức tường ngăn cách giữa Công giáo và Chính thống giáo do con người dựng nên, và con người có thể giật sập những bức tường đó xuống." (Bacalov: Zenit 30/05/02) Khi bức tường sập xuống, chắc chắn ánh sáng sẽ chan hòa khắp vũ trụ. Dung nhan Đức Kitô sẽ chiếu tỏa mãnh liệt hơn nữa.

Dầu vậy, ngay từ bây giờ, dù ở những nơi hẻo lánh nhất, ánh sáng đó vẫn chiếu tỏa mãnh liệt từ Thánh Thể. Thực vậy, "nhiều nơi trên thế giới Kitô hữ đang là hay đang trở thành một 'đoàn chiên' (Lc 12:32). Họ phải đối diện với thách đố, thường sống trong những hoàn cảnh cô lập và khó khăn, mới làm chứng manh liệt cho những yếu tố căn tính trổi vượt của mình. Bổn phận tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật là một trong những yếu tố này. Thánh Lễ Chúa Nhật qui tụ các Kitô hữu hằng tuần thành một gia đình Thiên Chúa chung quang Lơi và Bánh Hằng Sống, cũng là một liều thuốc rất tự nhiên giúp họ có thể đối đầu với nghịch cảnh trong những lúc bị phân tán như thế." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 30/05/02)

 

68. Thánh Thể Bảo Chứng Của Tình Yêu

(Suy niệm của Lm Thomas Trần Ngọc Túy, OP - Tổng hợp theo: Jude Sicilianô)

Kính thưa quý vị,

Một vị khách lạ đến thăm một gia đình nhà quê nghèo khổ. Ngôi nhà lụp xụp và chỉ có một em bé ở nhà, cha mẹ đi làm ruộng hết. Vị khách bước vào nhà, hỏi em bé: “Con có muốn đến ở với ta không? Nhà ta rộng rãi lắm, lâu đài, dinh thự, sân to, vườn rộng, em tha hồ chạy nhảy, chơi đùa?”. “Thưa ông, con không muốn. Con ở nhà với cha mẹ thích hơn. Lâu đài dinh thự đâu có to”. “Thế con bảo cái gì to?”. “Thưa, vua ạ”. “Vậy ta là vua đây, ta bí mật đi thăm dân chúng”. Em bé bất ngờ reo lên: “Thì ra nhà con to nhất nước rồi. Vui quá”. Đó là ý nghĩ của ngày lễ hôm nay, Hội thánh kính Mình Máu Chúa Kitô mà tín hữu rước lấy hằng ngày. Vua cả trên hết các vua. Chúa trọng trên hết các Chúa chắc chắn sẽ biến đổi tín hữu to lớn nhất vũ trụ. To hơn cái lều của cha mẹ em bé, có vua ngồi trong.

Ngày 28 tháng 09 năm 1884, bà thánh Marie Eugenie, sáng lập dòng Đức Mẹ lên trời huấn giáo cho các chị em về sự hiện diện của Thiên Chúa. Theo bà có ba cách Chúa hiện diện: thứ nhất bằng quyền năng. Quyền năng Ngài thẩm thấu hết mọi tạo vật giống như nước đại dương thẩm thấu miếng bọt biển tới từng thớ sợi. Ngay cả quỷ sứ và tội nhân cũng không tránh thoát. Thứ hai, bằng ơn thánh và tình yêu qua bí tích rửa tội và các bí tích khác. Thứ ba, bằng Thánh Thể. Thiên Chúa hiện diện trong hình bánh hình rượu chân thật và sống động y như thuở xưa trước dân Do Thái khi Ngài sinh ra, dâng mình, lớn lên, rao giảng, khổ nạn và chết trên thập tự. Bà cho đây là sự hiện diện ngọt ngào và an ủi nhất. Chúng ta không có lý do để ghen tỵ với người Do Thái xưa ở đất Palestine.

Một chị em hỏi: nhưng chúng con có thấy Chúa nói gì đâu? Ngài hoàn toàn im lặng khi chúng con quỳ cầu nguyện trước Thánh Thể. Bà thánh trả lời: thì các mục đồng, các đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Hài Nhi ở Bêlem có thấy Chúa mở miệng đâu? Đơn giản vì Ngài chưa biết nói. Bây giờ trong Thánh Thể cũng vậy, Ngài giấu kín nhân tính và thần tính. Nhưng Ngài biết hết, trông thấy hết, cảm nghiệm mọi sự. Chị em không tin ư? Thế thì chị em tin thế nào được các màu nhiệm khác?

Thánh Thomas Aquinas cũng có lòng tin sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể, cho nên đã sáng tác ra những lời kinh rất sot sáng và giầu tưởng tượng như chúng ta vừa trích một hai câu ở trên. Thánh nhân thường chiêm ngắm Thánh Thể với những biết ơn cảm tạ: “Ôi yến tiệc mình và máu thánh Chúa Kitô … Ôi Giêsu, Ngài thương yêu con dường ấy …”. Bí tích Thánh Thể là trường siêu đẳng đào tạo các thánh, các anh hùng, các vĩ nhân, các nhà rao giảng thời danh.

Để ngắm bắt ý nghĩa của ngày lễ, chúng ta hãy rảo qua các bài đọc. Bài đọc một trích sách Đệ Nhị Luật: “Khi ấy, ông Môisê nói với dân Israel rằng: anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã dẫn anh em đi suốt 40 năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực. Như vậy Ngài thử thách lòng dạ anh em … Rồi đã cho anh em ăn manna … Ngõ hầu cho anh em biết rằng người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”. Đáng ngạc nhiên là tác giả Đệ Nhị Luật gợi nhớ các kinh nghiệm đáng lý phải ghê sợ và cố quên đi. Vì 40 năm trong sa mạc là 40 năm đói khát, kiệt sức, thất vọng, bại trận, rắn rết, tiêu hao chết chóc đến độ nhiều lần dân chúng nổi loạn kêu ca Thượng Đế và chống lại ông Môisê. Dân Do Thái ngỡ ngàng tại sao Chúa hứa giải phóng, tự do lại phải đi con đường nhọc nhằn này? Nhiều người muốn trở lại Ai Cập, an phận làm nô lệ còn hơn.

Nhưng tác giả Đệ Nhị Luật chỉ coi đó là “thử thách”. Xem họ có vang lời Thiên Chúa không? Đây cũng là bài học lớn cho tín hữu ngày nay. Con đường đi tới tự do của ơn thánh không phải là dễ. Muốn từ bỏ Satan, thế gian, tội lỗi nhất định phải trả giá. Giải phóng mình khỏi ích kỷ, tham lam, dâm dục, phù phiếm không phải là một lúc một ngày và dễ dàng như ăn một chiếc bánh ngọt. Nó đòi hỏi cố gắng và kiên trì, hy sinh và khước từ càm dỗ. Hô hào khơi khơi thì dễ lắm, nhưng thực hành quả là cam go. Nhieu linh hồn đã thất bại.

Một hình thức thử thách sa mạc khác có lẽ phổ thông hơn mà đa phần chúng ta phải trải qua. Đó là những khó khăn, thất bại hàng ngày: con cái hư hỏng, gia đình bất hoà, đau yếu liên miên, nợ nần, thất nghiệp, rượu chè, nghiện ngập. Giáo hội gặp nhiều khó khăn khi phải lội ngược dòng với cái ác của xã hội tân thời: ngừa thai, phá thai, tế bào gốc, chết êm dịu. Toàn là rắn rết, bọ cạp, đất cháy, cỏ khô.

Nhưng xin nhớ Đệ Nhị Luật không chỉ liệt kê những hãi hùng, mà còn nhấn mạnh sự hiện diện của Thiên Chúa, qua manna, nước mát từ tảng đá chảy ra. Đức Chúa luôn ở bên dân Do Thái, giúp đỡ tuyển dân vượt qua khó khăn để trơ về đất hứa, tới bến tự do chảy sữa và mật ong. Họ không được phép thất vọng và cũng không được phép tham lam.

Ngày nào thu lượm manna đủ cho ngày ấy. Ngày nào họ cũng phải cậy dựa vào Thiên Chúa để có lương thực. Đây là bài học quý giá cho tín hữu, nhất là các tu sĩ, linh mục, trong tình hình hiện nay. Hình như người ta muốn tước quyền Thiên Chúa, chẳng cậy dựa vào ai. Kinh tế thị trường toàn cầu, sản xuất, tiêu dùng quá mức làm cạn kiệt tài nguyên địa cầu. Nhưng chúng ta không được phép thất vọng dù tội lỗi đến đâu. Thiên Chúa vẫn luôn sẵn sàng cứu giúp. Người có lý do để thất vọng nhiều nhất, là Đức Giêsu Kitô, trước thế lực to lớn của thờ, một mình cô thân cô thế với nhóm hèn nhát, vô học, đương đầu với cái chết cầm chắc do xã hội và tôn giáo lúc ấy áp đặt, nhưng chẳng ai đầy lòng trông phó thác bằng Chúa Giêsu. Noi gương ấy, các thánh tử đạo sau này can trường không kém.

Vậy thì không ai được phép thất vọng. Chúng ta còn phải sống bằng lời Thiên Chúa nữa. Lời Thiên Chúa không có từ “tuyệt vọng” vì Ngài cứu giúp và ước ao mọi người được sống hạnh phúc. Câu mở đầu bài Tin Mừng hôm nay viết: “Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”. Câu Phúc Aâm này ở trung tâm bài diễn từ về Bánh Hằng Sống. Trước đó Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người ăn (6, 1-14). Ngài nhân nhiều bánh để chứng tỏ sự thật hiển nhiên. Vào thời Chúa Giêsu, văn hoá coi “thịt máu” là toàn bộ ngôi vị một người. Vậy thì ăn bánh bơi trời chính là “thịt tôi đây cho thế gian được sống” nghĩa là lãnh nhận lấy toàn bộ ngôi vị của Ngài. Những “tri thức ” khiếm khuyết đức tin nói câu văn chỉ có nghĩa bóng mà thôi. Truyền thống phổ thông cũng tin như vậy. Hậu quả là không được tiến bộ về đàng thiêng liêng, họ rước lễ, vào trước Mình Thánh, coi như vào nơi không người, vô tình và nguội lạnh.

Không phải như vậy. Chúa nói tiếp: “Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Manna biểu tượng bánh Chúa Giêsu ban. Hình bóng manna mà còn thực đến độ nuôi sống con người, thì bánh Chúa Giêsu ban là thịt máu Ngài lại chỉ là “hình bóng” thì quả thật là vô lý. Làm thế nào “hình bóng” có khả năng ban cho người ta tham dự vào sự sống muôn đời. Liệu “hình bóng” có thể dẫn đưa người ta vào sự sống Thiên Chúa và Thiên Chúa cư ngụ trong linh hồn?

Nhưng nhiều người không hieu, bỏ đi nói: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe nổi”. Nhiều môn đệ cũng bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu bảo lưu lời nói của Ngài, và thay vì nói với đám đông: quý vị hiểu sai ý nghĩa của tôi, Ngài quay ra hỏi các tông đồ: “Chúng con có muốn bỏ đi không?”. Chắc chắn các tông đồ cũng ngỡ ngàng, nhưng Phêrô đứng ra nói thay cho các bạn: “Bỏ thầy, chúng con biết theo ai, thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Chúng ta biết rằng sau này trong bữa tiệc ly, các môn đệ không còn bỡ ngỡ, mà tin thật vào lời Chúa khi Ngài phán: Anh em hãy cầm lấy mà ăn, mà uống, này là thịt máu thầy. Từ đấy Hội Thánh nối tiếp đức tin của các tông đồ. Thánh Phaolô, trong bài đọc hai viết: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ bánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?”. Dĩ nhiên là thánh nhân tin thật Chúa Giêsu ngự trong bánh rượu sau khi truyền phép mà nơi khác chính thánh nhân dạy lời lẽ: Này là Mình Thầy, ngày là Máu Thầy. Cho tới hôm nay, Hội Thánh vẫn sử dụng công thức đó. Nhiều trăm năm sau, thanh Gioan Kim Khẩu viết: “Khi bạn ngắm nhìn hào quang đặt trên bàn thờ, bạn có thể nói: Nhờ Thân Thể này, tôi không còn là bụi tro nữa, bởi tôi không còn là tù nhân nữa, nhưng là người tự do… Thân Thể này được ban cho chúng ta để lưu giữ và ăn uống, làm dấu chứng tình yêu tha thiết của Ngài”. Chứng cứ rõ ràng nhưng vẫn không tránh khỏi vật lộn với lòng trí không tin. Rất sớm, các Giáo Hội đông phương đã dùng từ “thay đổi hữu thể” (metaousias) để diễn tả mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa. Thế kỷ 13, công đồng Tridentinô ấn định từ “biến đổi bản thể” (transubtanto) tức thay đổi từ bản thể bánh rượu sang bản thể Chúa Kitô. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI xác định lại ý nghĩa khi nói rằng: “Sự hiện diện của Chúa Kitô trong hình bánh rượu ở ý nghĩa trọn vẹn nhất của từ ngữ đó”.

Vậy đức tin vào bí tích Thánh Thể của Giáo hội y nguyên từ thời tông đồ đến nay. Và chúng ta không nên hiểu theo nghĩa biểu tượng mà thôi. Đó là một sự hiện diện đích thực cả về nghĩa tinh thần lẫn vật chất: “Ai ăn thịt và uống máu tôi sẽ không còn đói khát nữa, nhưng sẽ được sống muôn đời”. Thế giới có nhiều hình thức đói khát lắm. Đói tình yêu, đói hoà bình, đói công lý, đói đoàn kết, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời. Và chẳng thứ bánh nước nào thoả mãn trọn vẹn con người cả. Duy chỉ có bánh từ trời mới đủ khả năng ấy. Bánh có thể nuoi sống tâm trí, trái tim, ước muốn thiên hạ đến độ sung mãn. Trong một số Giáo hội đông phương tiên khởi có truyền thống mời lên bàn tiệc thánh. Sau khi nghe lời Chúa, tín hữu được mời gọi lên bàn thờ để “lãnh nhận Đưc Giêsu Kitô vào đời sống mình”. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng được kêu mời như vậy. Đức Kitô ngự trong mỗi linh hồn không những như vị khách sang trọng, giầu có, nhưng còn như nhà đào tạo chúng ta nên to lớn nhat vũ trụ, tức nên giống Ngài, như em bé bất ngờ kêu lên: Nhà con to nhất nước.

Chúa Nhật tới, chúng ta mừng lễ trái tim Chúa Giêsu. Hai lễ này nối kết với nhau một cách tự nhiên để ban cho Hội Thánh niềm vui và hạnh phúc sau mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu trao ban thân mình trọn vẹn trong bí tích Thánh Thể, thì lẽ đương nhiên Ngài cũng ban trọn vẹn trái tim Ngài nữa. Vậy lễ mừng hôm nay là bảo chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Ngài chẳng giữ chi cho mình, kể cả cuộc sống vĩnh cửu trong Nước của Cha Ngài. Ôi màu nhiệm lạ lùng của Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ