Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 23

Tổng truy cập: 1364426

LẠY CHA CHÚNG CON

LẠY CHA CHÚNG CON (11, 1-4)

Khác hẳn với cô Matta, Maria nhận ra rằng phải có những khoảnh khắc đặc biệt dành riêng để lắng nghe Chúa nói và thân thưa với Ngài. Đó là thời giờ cầu nguyện. Ở đây, ta thấy Đức Giêsu giảng giải cách thực hành về chủ đề ấy.

Trong Tin mừng theo Th. Mathêu, chủ đề ấy đặt liền với bài giảng trên núi; Thực tế chúng ta không biết Chúa đã dạy kinh Lạy Cha vào lúc nào, nhưng điểm đó không quan trọng cho lắm, điểm cốt yếu chắc hẳn phải là chính nội dung nòng cốt của Kinh Lạy Cha.

Kinh Lạy Cha được Thánh Luca ghi lại đơn giản, vắn tắt hơn nơi Th. Mathêu. Nơi Thánh Luca, lời cầu xin thứ ba và thứ bảy không có. Dĩ nhiên thánh ký phải nhận rằng, khi hoàn tất cả hai phần của kinh đó, thì hai lời cầu xin bị bỏ kia đều ngậm thực sự trong những lời cầu xin trên. Khi ghi lại kinh lạy Cha, thánh sử cố tìm sự đơn giản tối đa; nên chúng ta càng phải tìm hiểu những ý tưởng cô đọng ấy, những ý tưởng tập trung, ẩn tàng dưới vẻ ngắn gọn của những lời cầu xin này.

‘Chúng con nguyện danh Cha cả sáng’.

Đây không phải là một yêu sách, một quyết ý mà chỉ là một lời cầu xin. Thiên Chúa phải làm cho danh Ngài cả sáng tức là làm cho loài người nhận rõ sự thánh thiện của Ngài hơn nữa và khiến cho sự thánh thiện ấy chiếu tỏ rạng ngời.

Mọi cái thuộc về nhân loại và trần thế phải được Thiên Chúa chiếu sáng. Vĩnh cửu soi rọi cho tạm bợ, hằng hữu cho mau qua, bất biến thay cho biến đổi. Trời cao sẽ thống trị trái đất, tuyệt đối sẽ làm chủ tương đối, tất yếu sẽ đứng trên bất tất, con người tự do thay cho phận nô lệ, thánh nhân thế chỗ tội nhân, người thanh sạch thế kẻ nhơ uế, người được thương xót thế tội phạm; nhất là những gì còn bấp bênh và không bền vững sẽ được thay thế bằng cái kiên vững tối hảo, những gì là bất an sẽ được thay thế bằng bình an rất mực, hạn hữu sẽ được thay thế bằng vô biên.

Danh Ngài và qua Danh Ngài là chính Ngài tỏ hiện rõ ràng nơi Đức Giêsu Kitô. Chúa Con là mặc khải của Chúa Cha. Danh tánh Đức Giêsu có nghĩa là: Đức-Giavê là nguồn cứu độ. Như thế có nghĩa: nhờ Đức Giêsu, danh Thiên Chúa cứu độ và thánh hoá được loan truyền.

Thiên Chúa là Đức Chúa. Đức Giêsu nhận biết điều ấy trong một cuộc đời luôn vâng phục hoàn toàn, vâng phục Ngài như bậc Thầy Tối cao và lại công bố như thế cho loài người tệ bạc. Đức Giêsu đã sống trong tình yêu Cha mình và đã chứng tỏ cho mọi người biết Thiên Chúa là tình yêu.

Do đó, lời cầu xin ‘cho Danh Cha được hiển thánh’ trên môi Ngài phải có một âm vang đặc biệt.

‘Nước Cha trị đến’. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này hàm ẩn cả lời nguyện xin thứ ba: ‘Ý Cha được thể hiện’. Như vậy, Nước Cha được hình dung là vương quyền tối cao của Thiên Chúa; nên ý Cha phải được thể hiện khắp mọi nơi, vì ý Cha là khôn ngoan và yêu thương. Nơi nào ý Cha chủ trị, thị mọi sự đều ổn thoả theo sự khôn ngoan Ngài và tràn ngập tình yêu Ngài.

Đó là một vương quốc hoà bình, vì hoà bình chẳng qua là yên hàn trong trật tự. Và đó là một vương quốc tình thương vì quyền uy và thế lực tối cao không phải chiếm được bằng bạo lực nhưng là bằng sự nhận biết cách vui vẻ. Mỗi một việc phục vụ –khi nhắm phục vụ Thiên Chúa- đều hoàn thành với sự tự do vương giả.

Và theo lối nói xưa của sách Khải Huyền, tất cả những ai thuộc về vương quốc của Thiên Chúa, đều là những vị hoàng vương tư tế, những vị tư tế (hoàng vương).

Nước Thiên Chúa là ước mơ cao nhất của nhân loại, là sự thể hiện mọi lý tưởng, vượt quá mọi thế lực chính trị, xã hội và Kinh tế. Nhưng sự hiểu thánh danh Thiên Chúa cách trọn vẹn và việc thiết lập vững bền Nước Thiên Chúa là những giá trị có tính cách cánh chung. Những giá trị này chỉ thành toàn khi Chúa lại đến, khi bản tính Thiên Chúa tỏ hiện rõ ràng trong vinh quang Ngài và khi Nước Thiên Chúa đạt đến sự viên mãn.

‘Xin cho chúng con lương thực hằng ngày’. Giữa hai lời nguyện xin về bản tính ‘siêu nhiên’ của chính Bản thể Thiên Chúa về nước Thiên Chúa và hai lời nguyện xin sau nói về ‘hạ nhiên’ (infra naturel) (tội và cám dỗ), là một lời cầu xin về lương thực xét trên bình diện hoàn toàn có tính cách phàm nhân. Bánh được coi là thứ lương thực hàng đầu trong số những thực phẩm trần thế. Con người, vì là Con Thiên Chúa, không thể bị cơn đói dằn vặt và cũng không được sống trong sự quá dư thừa. Do đó cũng cần phải xin Cha cho được lương thực cần thiết mỗi ngày. Một khi con người cứ phải đương đầu với cơn đói, thì hẳn là chẳng còn hơi sức đâu, thời gian nào để nghĩ tưởng đến những thực tại trên cao.

Con người có thể liều mình sa vào hố thất vọng và có nguy cơ tráo trở với Thiên Chúa. Nhưng nếu con người đắm chìm trong của ăn thức uống, thì cái bản ngã tuyệt hảo của hắn sẽ chết ngạt trong chủ nghĩa tôn thờ vật chất. Con người sẽ héo hắt vì thiếu của ăn áo mặc, đang khi đó sự dư thừa lại cản ngăn con người sống tự do về mặt thiêng liêng. Giữa hai thái cực đói kém và dư thừa, một chỗ đứng thích hợp nhất phải là sự điều hoà cân xứng và chỉ có như vậy, con người mới có thể sống đạo đức được.

Đó là lý do tại sao lại có lời nguyện xin này, một lời cầu đề cập đến sự an toàn trong khuôn khổ và không gian, thuộc về trần thế và trong môi trường.

Lời cầu nguyện ấy cũng có thể bao hàm một ý nghĩa bao quát hơn, thuộc lãnh vực tinh thần. Lời Thiên Chúa trở nên lương thực nuôi tâm hồn, nên của ăn tinh thần. Con người khẩn cầu Thiên Chúa ban cho Lời hằng sống ấy. Con người xin Thiên Chúa ngỏ lời với thụ tạo và con người xin cho mình cũng hiểu được lời đáng nghe của Thiên Chúa phát ra tự đáy lòng, thứ lời đã được ghi chép trong Thánh kinh và con người xin cho được sống bằng lời ấy. Bởi vì ‘con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra’ (Mt 4,4)

Bánh còn có nghĩa về mầu nhiệm Thánh Thể ‘Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống’. Con người rất cần thứ bánh nhiệm mầu ấy để khỏi bị chết ngạt bởi những lo âu về kinh tế.

Sau hết, Bánh đây chính là Đức Kitô. ‘Ta là Bánh sự sống’. Bởi thế, lời cầu xin này tuy phát xuất do những nhu cầu thiêng liêng và siêu nhiên, để rồi sau cùng lại gán cho chính Chúa.

Nó là giả thiết một thần học về bánh, bởi vì với nhãn quan người Kitô hữu, mọi sự đều được thánh hiến và thánh hoá cách đạo hạnh.

‘Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’. Trước Thiên Chúa, con người là kẻ mắc nợ. Đối với người đạo đức, tội lỗi là một gánh nặng chèn ép họ. Nó làm cho họ phải xa rời Thiên Chúa, dựng lên một bức tường ngăn cách họ với Thiên Chúa, phá huỷ những mảnh vườn đầy hoa tươi nở, làm tan hoang bình địa mọi công trình xây dựng.

Tội khiến đời sống trở nên mù tối, và làm cho con người nên như trò cười đáng mỉa mai. Hình ảnh Thiên Chúa bị bôi nhọ và đền thánh bị tục hoá. ‘Ích gì cho con người chiếm được cả thế giới mà để mất linh hồn’. Dĩ nhiên, tội làm thương tổn linh hồn, tệ hơn nữa, nó còn làm mất đời sống siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho con người, và như thế, tội còn làm cho con người không được dự phần vào chính Thiên Chúa. Tội phá huỷ mọi niềm hy vọng vĩnh cửu, tội ngăn chặn mọi nẻo đường dẫn đến tương lai.

Và vì thế, lời cầu xin tha thứ là một lời khẩn cầu cấp bách. Những ai đã được tha thứ, thì chính mình cũng phải biết thứ tha. Đã hưởng lòng Chúa xót thương, con người không thể cứng lòng với tha nhân. Kẻ có nợ được chủ nợ tha cho hoàn toàn, thì chính kẻ ấy cũng không thể là một chủ nợ nghiêm khắc.

Ở đây lời nguyện xin trở thành một yêu sách, một đòi hỏi.

‘Chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ’. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này bao gồm cả lời nguyện xin giải thoát khỏi sự dữ và Satan. Cơn cám dỗ là con đường của vực thẳm, là lối đi dẫn tới hoả ngục,là khu vực của quỉ ma, là sự gần kề đầy doạ nạt của địa ngục, của những bóng đen ghê rợn quái ác luôn rình mò lượn quanh con người.

Ân sủng là khí giới, là sự bảo đảm chở che… Ánh sáng từ trời xuống đánh tan những bóng tối dữ tợn. Và tiếng nói từ trên cao càng vang dội mạnh bao nhiêu, thì tiếng gầm thét của vực thẳm càng cố vươn lên bấy nhiêu. Chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới gìn giữ canh chừng con người thoát khỏi rơi vào nguy hiểm, vào vực thẳm. Chỉ nơi Ngài, đời sống đầy chông gai thách thức mới tìm được sự an toàn đảm bảo.

Như vậy, theo Thánh Luca, năm lời cầu xin cấu thành một toàn bộ trọn vẹn, ôm lấy hết toàn thể đời sống con người, đang bị phân rẽ giữa hạ giới và thiên thượng, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và tăm tối, giữa sự sống và sự chết.

Đó là giải pháp mà Chúa Giêsu trả lời cho môn đệ khi họ xin. ‘Lạy Thầy, xin dậy chúng con cầu nguyện’.

Cầu nguyện là một việc mà con người khó thực hiện. Vì thế phải luyện tập. Chính Thánh Gioan Tẩy giả đã dạy các đồ đệ cầu nguyện. Nhưng Giáo huấn của Chúa Kitô thật khác lạ; Chỉ bằng vài lời, đã nói lên được tất cả, một sự sung mãn phong phú qui kết vào 5 lời nguyện xin chi phối toàn bộ đời sống và hướng về Thiên Chúa Duy Nhất, là Cha hết mọi người.

CẦU NGUYỆN THỰC SỰ (11, 5-13)

Trong việc dạy họ cầu nguyện, Đức Giêsu đã nói lên cái ‘cốt cách’ của việc cầu nguyện, bằng cách nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng, là sự kiên trì và tín thác.

1. Kiên trì

Dụ ngôn sau đây tỏ rõ cho thấy thế nào là kiên trì. Đây là một vài nét chính: một người kia, bổn tính không hay giúp đỡ nhưng sau cùng phải thua tính cố nài nẵng của người xin.

Lòng kiên tâm cầu nguyện cho thấy hoàn cảnh chung quanh cũng phải tuỳ thuộc và như là một chủ đề cốt tuỷ. Một người Cha trong một gia đình kia, giữa đêm trường, đang ngủ yên, cửa đóng then cài, lối vào cũng đầy những đồ đạc lỉnh kỉnh; ở gian trong, cả nhà ngon giấc, hết thảy, chồng, vợ, con cái đều yên giấc. Nếu phải mở cửa, ông phải chỗi dậy, khó nhọc lắm mới thắp nổi ngọn đèn ở dưới đấu và đặt trên giá đèn, không khéo lại va vào chân đám trẻ, lấy bánh ra, mở then, mở chốt, đẩy cửa kẽo kẹt,…. Nói tắt rằng, ai nấy đều bị thức giấc, và mọi cái đều lộn xộn xáo trộn.

Như thế, ta hiểu ngay lý do tại sao ông ta từ chối. Tuy nhiên, mọi trở ngại đều bị thắng vượt, không còn nghĩ tới nghĩ lui gì nữa, chỉ còn lo sao để thoả mãn người ăn xin đang quấy nhiễu nài nỉ luôn miệng không thôi. Áp dụng vào thật quá rõ. Người van xin phải nài nỉ không biết mệt mỏi: có như thế mới được điều mình xin, cửa sẽ mở cho vào, tìm thì sẽ thấy.

Tuy nhiên, một vấn nạn khiến ta lo ngại: Tại sao Thiên Chúa lại để cho con người phải đợi chờ? Chỉ cần Ngài nhận lời là mọi trở ngại sẽ mất đi, không còn quấy nhiễu gì nữa…

Có thể giải đáp thế này: không thể đổ lỗi kỳ hạn cho Thiên Chúa, như trong dụ ngôn người cha nọ cứ để cho người xin kia phải chờ đợi cho đến khi ông ta sẵn lòng. Ở đây hẳn là không như thế, việc nhận lời có bị trì hoãn là do chính người xin, chính ông này phải biết gia tăng cầu nguyện ráo riết hơn nữa. Khẩn cầu liên lỉ liên kết người ấy với Thiên Chúa cách khắng khít hơn, khiến họ phải ý thức hơn về tình trạng bất lực riêng mình, nhận rõ hơn việc phải hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và do đó, sau khi Ngài nhận lời, người ấy sẽ nhận biết Ngài.

Việc dạy cầu nguyện bao hàm thái độ chờ đợi kiên nhẫn ấy. Chờ đợi hẳn là một đặc ân của con người. Không nên đánh giá tôn giáo như làm một việc lạ lùng, và cũng không nên coi cầu nguyện van xin như một thứ nút điện đơn giản cứ ấn xuống là được. Mà là một hành vi của ngôi vị, một sự đi sâu đầy khí lực của một thái độ trước Thiên Chúa, chiêm ngắm Ngài, tâm sự với Ngài và vươn tới Ngài.

Bởi thế, lời cầu xin -kiên trì cầu xin- phải mang một dấu hiệu nói lên ý nghĩa đạo đức đích thực.

2. Tín thác

Cái lối lý luận trên được thực hiện theo kiểu ‘huống nữa là…’ một kiểu so sánh từ cái nhỏ đến cái lớn (a minore ad majorem). Con người vốn hẹp hòi và tầm thường. Đức Giêsu quả quyết điều này: ‘Vậy nếu các ngươi là những kẻ ác…’ Tuy con người thật đê tiện, hẹp hòi, vụ lợi, và cứng lòng mà còn không chối từ, lời của người van xin, nhất nữa lại là con mình, xin bánh, cá hay trứng. Giống vật cũng chẳng làm như vậy khi cho con cái đang đói hòn đá, rắn độc hay bò cạp. Vậy nếu điều ấy khó coi đối với con người, vốn tính xấu xa, thì đối với Thiên Chúa nói làm sao đây!.

Thiên Chúa không ác độc xấu xa, nhưng đầy thiện hảo tốt lành; Ngài không hẹp hòi tư kỷ, nhưng hay thương xót. Ngài không nghiêm khắc cứng cỏi, song hiền từ lân tuất, thì Ngài càng phải nhận lời nhân loại kêu xin gấp bội phần.

Nhưng lại một vấn nạn đặt ra cho chúng ta: kinh nghiệm cho ta thấy một điều trái nghịch. Vì dù con người vẫn luôn kiên trì cầu nguyện và luôn tín thác, mà họ vẫn phải thất vọng –và thực sự thất vọng hoàn toàn!- Vì trong cuộc sống họ thấy những hy vọng được nhận lời đã tan theo mây khói: điều người ta mong tồn tại thì lại tiêu tan, cái người ta mong thành đạt thì không được thoả mãn.

Đức Giêsu trả lời như sau khiến ta khó có thể lãnh hội ý nghĩa: ‘Huống hồ Cha các ngươi tự trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người’. Ở đây ta lại gặp cái lối lý luận ‘huống nữa là…’.

Chúng ta thường xin với những ý định tầm thường quá: nào là nhu cầu thể xác, nào là mục tiêu vật chất, của cải phù vân, thậm chí còn xin cả những cái gây lầm lạc cho mình nữa.

Thiên Chúa thoả mãn ta bằng những điều thiện hảo rất cao quý; Ngài ban Thánh Thần cho ta, mà Thánh Thần Thánh hoá nội tâm. Bởi vậy, không có lời cầu xin nào bị bỏ qua mà không được nhận lời. Ta chẳng thể nhìn thấy việc Ngài nhận lời ta, như Thánh Thần thánh hoá làm sao ta thấy được.

Thực ra, khi con người nhận lấy Thánh Thần thì nhận được những sự phong phú rất cao quý chứ không phải chỉ những của cải vật chất. Vì vậy, càng cầu xin kiên trì và tín thác bao nhiêu, thì càng chất chứa đầy Thánh Thần nơi tâm hồn bấy nhiêu.

Bởi vậy hai yếu tố hoà trộn mật thiết với nhau khi cầu nguyện phải là: kiên trì và tín thác. Với hai yếu tố ấy, con người được tràn đầy Thiên Chúa, luôn thêm mãi và sâu đậm hơn. Đó mới là điều thiện hảo tối cao Thiên Chúa ban cho con người và con người nhận được cách rõ rệt.

Chúng ta không được mệt mỏi trong việc kiếm tìm, nguyện xin và gõ cửa. Và chúng ta cũng sẽ không hề biết mỏi mệt khi chúng ta hiểu được điều từ miệng Đức Giêsu thốt ra trong giờ phút sau cùng: chúng ta thuộc về Chúa.

 

46.Cầu nguyện

Người Hồi giáo nói về sự sốt sắng cầu nguyện bằng một câu chuyện như sau:

Có một ông vua vào rừng săn bắn. Chiều xuống, khi tới giờ cầu nguyện, ông trải tấm thảm trên mặt đất, rồi hướng về phía tây và phủ phục cầu nguyện theo cung cách của người Hồi giáo.

Giữa lúc ông đang chìm đắm trong sự cầu nguyện, thì có một người đàn bà hối hả chạy vào rừng. Số là chồng bà đã ra đi từ sáng sớm mà đến giờ này vẫn chưa thấy trở về. Bà ta sợ có điều chi không lành xảy đến cho chồng nên vội chạy vào rừng để tìm kiếm. Trong cơn hốt hoảng, bà ta không nhìn thấy có người đang phủ phục cầu nguyện. Bà bước qua người ấy mà không hề hối hận để nói lên lời xin lỗi.

Nhà vua cảm thấy bị xúc phạm nặng nề, nhưng ông cũng gắng gượng để tiếp tục cầu nguyện theo đúng luật dạy. Khi ông cầu nguyện xong thì người đàn bà cũng trở lại chỗ cũ, cười nói vui vẻ bên cạnh ông chồng. Bà cuống quýt khi nhận ra rằng người mà bà đã bước qua trong cơn hốt hoảng chính là nhà vua. Nhà vua cho gọi người đàn bà đến và ra lệnh trị tội vì đã tỏ ra bất kính đối với ông.

Thế nhưng, không một chút sợ hãi, bà đã nói như sau:

- Tâu bệ hạ, thần bị cuốn hút trong sự suy nghĩ về người chồng đến độ đã không nhìn thấy bệ hạ, nên đã bước qua. Hạ thần nghĩ rằng, bệ hạ đang cầu nguyện, thì tâm trí của bệ hạ cũng phải cuốn hút trong sự suy nghĩ về Thượng đế, lẽ nào bệ hạ còn lòng trí biết đến hạ thần và những cử chỉ nhỏ nhoi của hạ thần.

Nhà vua lấy làm xấu hổ vì sự việc xảy ra. Ông nhìn nhận rằng: Tuy không phải là một bậc thầy trong đạo, nhưng người đàn bà này đã dạy cho ông về sự chuyên tâm trong việc cầu nguyện.

Trong giây phút này, khi đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ, có lẽ chúng ta cũng hành động như ông vua, có nghĩa là chúng ta chưa cuốn hút vào trong tâm tình cầu nguyện. Xác chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng tâm hồn chúng ta còn phiêu bạt tận đâu đâu. Một tiếng động nhỏ ở bên ngoài cũng đủ làm cho chúng ta chia trí. Rồi thì trong đầu óc, chúng ta mơ tưởng, chúng ta nghĩ đến hết chuyện này tới chuyện kia. Ấy là tôi chưa nói tới những người cố tình nói chuyện, chọc phá, nô giỡn, chẳng để tâm vào sự cầu nguyện một chút nào.

Giả sử như có một vị khách quí tới thăm nhà. Thế nhưng mọi người trong nhà đều bận rộn chuyện này chuyện kia, chẳng ai nói được một lời với vị khách quí ấy? Chúng ta nghĩ thế nào về thái độ này. Theo tôi, thì đó là một thái độ thiếu tế nhị, thiếu lịch sự, và chắc chắn sẽ làm cho vị khách quí buồn lòng.

Thế nhưng đối với Chúa, chúng ta lại thường xuyên cư xử như thế. Chúng ta tham dự thánh lễ, hay đọc kinh cầu nguyện cho qua lần đoạn lượt, mà chẳng có một chút tâm tình bên trong. Chính vì thế, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì sự khô khan nguội lạnh, vì sự thờ ơ sao lãng của chúng ta.

Đồng thời, như các môn đệ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện và nhất là xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện một cách chuyên tâm và sốt sắng.

 

47.Cầu nguyện

Khi các môn đệ đến với Thầy với lời kêu xin: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, thì các ông đã được ở với Đức Giêsu trong trường cầu nguyện một thời gian rồi, các ông đã cảm kích vì những bài học cụ thể giá trị nhất, ấy là tấm gương của chính Đấng Kitô. Nếu tâm trí của chúng ta từng nổi lên nhiều hoài nghi về thực tế và hiệu năng của lời cầu nguyện, chúng ta chỉ cần quay về với sách Tin Mừng của thánh Luca để được nhắc nhở rằng Chúa Giêsu đã dành nhiều thời giờ để cầu nguyện, và Ngài cầu nguyện ở mỗi biến động của đời sống Ngài. Chắc chắn chúng ta không lạc được khi theo bước chân Ngài.

Tuy nhiên, điều các môn đệ muốn có là một công thức cầu nguyện đặc biệt, như Gioan Tẩy Giả hình như có cho các người theo ông. Chúa Giêsu đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các ông một kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Lu-ca ghi lại có ngắn hơn của Mát-thêu nhưng cũng chứa đủ những điều mà chúng ta cần biết phải cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện những gì.

Lời cầu nguyện bắt đầu bằng xưng nhận Thiên Chúa là Cha. Đó là đặc tính của mọi lời Kitô hữu thưa với Chúa. Chính lời đầu tiên dạy chúng ta rằng, trong khi cầu nguyện chúng ta không đến với một Đấng phải miễn cưỡng ban ơn cho chúng ta, nhưng đến với một Cha hằng vui thích làm thoả mãn mọi nhu cầu của con cái Ngài.

Trong tiếng Do Thái, chữ “tên” hay “danh” có ý nghĩa sâu sắc hơn là tên gọi của một người. Chữ “danh” gồm tất cả các đặc tính của người mà chúng ta quen biết. Thánh vịnh 9, 11 nói: “Người nhận biết thánh danh, sẽ một niềm tin cậy.” Câu đó có ý nghĩa sâu sắc hơn chứ không chỉ biết tên Thiên Chúa Gia-vê. Nó có nghĩa là người nào thấu hiểu được tư tưởng, ý muốn và tấm lòng của Thiên Chúa sẽ vui lòng đặt hết niềm tin cậy vào Ngài.

Chúng ta nên chú ý đặc biệt đến thứ tự các lời cầu nguyện Chúa Giêsu dạy trước khi cầu xin bất cứ điều gì cho chính mình, chúng ta phải đặt Thiên Chúa, sự vinh hiển và tôn trọng của Ngài lên hàng đầu. Chỉ sau khi dành cho Chúa chỗ của Ngài, bấy giờ các điều khác mới có chỗ xứng hợp.

Bài cầu nguyện bao quát cả cuộc đời.

- Nó bao hàm các nhu cầu hiện tại. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin vật thực cho chúng ta mỗi ngày. Nên nhớ bánh đủ ăn từng ngày là điều chúng ta cầu xin. Điều này nhắc lại câu chuyện về Man-na trong sa mạc. Dân Chúa chỉ được lượm Man-na đủ ăn trong một ngày mà thôi. Chúng ta đừng lo cho một tương lai không rõ, nhưng ngày nào lo cho ngày ấy.

- Nó bao hàm tội lỗi đã qua. Khi cầu nguyện chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân trước sự thánh thiện của Thiên Chúa.

- Nó bao trùm các thử thách trong tương lai. Từ ngữ “cám dỗ” trong Tân Ước có nghĩa là bất cứ hoàn cảnh thử thách nào. Nó không chỉ có nghĩa là quyến rũ phạm tội mà còn bao gồm mọi hoàn cảnh khiến con người bị thử thách về đức độ, thanh liêm, lòng tín trung. Chúng ta không thể trốn tránh những hoàn cảnh đó, nhưng chúng ta có thể thắng nó nhờ ơn Chúa ban. Có người nhận định rất đúng rằng: Bài cầu nguyện Chúa Giêsu dạy – mà chúng ta gọi là kinh Lạy Cha – có hai ích lợi lớn cho giờ cầu nguyện của chúng ta. Nếu chúng ta dùng để bắt đầu giờ cầu nguyện thì nó khơi dậy những ước muốn tốt đẹp giúp chúng ta biết cầu nguyện cho xứng đáng. Nếu chúng ta dùng để kết thúc giờ cầu nguyện thì nó tóm tắt mọi điều chúng ta phải cầu xin trước mặt Thiên Chúa.

Để khuyến khích các môn đệ trong những lời khẩn cầu ấy Ngài kể cho họ nghe câu chuyện về một người kêu xin không ngừng, hầu như là lì lợm nên đã được ban cho bánh cần dùng. Trong xứ Pa-lét-tin, khách bộ hành thường lên đường vào buổi chiều hầu tránh cái nóng bức của buổi trưa. Trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, có một người khách như vậy đã tới nhà bạn mình lúc nửa đêm. Bên Đông phương tiếp khách là bổn phận thiêng liêng. Chỉ cho khách ăn vừa đủ no thôi thì không được, cần cho khách ăn dư dật. Trong các làng quê, người ta làm bánh mì tại nhà và chỉ nướng bánh đủ ăn trong một ngày, vì nếu giữ lại, bánh sẽ cũ đi không ai muốn ăn. Vị khách nói trên đến muộn quá khiến chủ nhà bối rối vì thức ăn đã hết nhẵn, chủ nhà không thể làm tròn bổn phận thiêng liêng là tiếp khách. Và dầu đêm đã khuya, chủ nhà cũng tới nhà bạn để vay bánh. Cửa nhà người bạn đã đóng. Bên Đông phương, không ai muốn gõ cửa nhà đã đóng, trừ khi cấp bách lắm. Buổi sáng cửa nhà được mở ra và cứ mở suốt ngày, nhưng nếu cửa đóng lại, đó là dấu chủ nhà không muốn bị quấy rầy. Nhưng người chủ nhà đi tìm bánh đã không e ngại ông gõ cửa và cứ gõ mãi…

Căn nhà nghèo ở xứ Pa-lét-tin chỉ có một căn phòng với một cửa sổ nhỏ. Nền nhà làm bằng đất nện phủ tre khô và cành khô. Căn phòng chia làm hai phần, không phải bằng vách ngăn mà bằng mặt đất thấp hơn. Hai phần ba phòng thì nền đất thấp, phần ba kia thì nền cao hơn một chút. Trên phần đất cao đó có bếp than ủ cháy suốt đêm, và cả gia đình nằm ngủ quanh bếp đó, họ không nằm nơi giường cao, nhưng trên những tấm chiếu. Các gia đình thường đông người và họ thường nằm sát nhau cho ấm. Khi một người trỗi dậy thì tất nhiên làm phiền cả gia đình. Hơn nữa, tại làng quê, buổi tối người ta đem gia súc, gà, dê vào trong nhà. Không lạ gì, trong hoàn cảnh đó, một người đã đi ngủ thì không muốn dậy nữa. Nhưng người vay bánh quyết tâm này cứ gõ mãi, “gõ mãi mà không biết xấu hổ” theo đúng nghĩa của từ ngữ Hy-lạp được dùng – cho tới khi chủ nhà đành chỗi dậy cho người kia mọi điều xin, vì dầu sao gia đình cũng bị quấy rầy rồi. Chúa Giêsu có ý bảo: “Câu chuyện này dạy các ngươi về việc cầu nguyện.” Bài học trong dụ ngôn này không phải dạy chúng ta cứ mãi mãi nài xin, không phải chúng ta cứ phải đập vào cửa Thiên Chúa cho đến khi ép buộc Ngài cực chẳng đã phải ban cho chúng ta điều chúng ta muốn, cho đến khi chúng ta cưỡng ép được Thiên Chúa không sẵn lòng chịu trả lời cho chúng ta, một dụ ngôn nói nôm na là một điều gì đó đặt bên cạnh. Nó cho ta thấy sự tương đồng hay tương phản giữa hai sự việc. Chúa Giêsu ngụ ý như sau: “Nếu một người chủ nhà khó tính và thiếu thiện chí mà cuối cùng có thể bị cưỡng ép bởi quyết tâm của một người bạn trì chí, để phải cho người đó mọi điều mong muốn, huống chi Thiên Chúa là Cha Từ Ái sẽ tiếp trợ mọi nhu cầu cho con cái Ngài hơn biết dường nào! Chúa Giêsu phán: “Nếu các ngươi vốn xấu mà còn biết rằng mình có bổn phận cung cấp nhu cầu cho con cái, huống chi Cha trên trời…”

Điều này không làm cho chúng ta giảm bớt sự hăng say và sốt sắng cầu nguyện. Dầu sao chúng ta chỉ có thể tỏ lòng ước muốn thành thực bởi sốt sắng và kiên trì cầu nguyện. Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải giành giật các ơn phúc từ tay một Thiên Chúa không thiện chí, nhưng chúng ta đến với một Đấng biết rõ mọi nhu cầu của chúng ta hơn chính chúng ta, và Ngài là Đấng có lòng yêu thương và rộng rãi đối với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, không phải vì Thiên Chúa không sẵn lòng ban ơn cho ta, nhưng vì Ngài có ơn phúc tốt hơn, để dành cho chúng ta. Và không hề có vấn đề mà chúng ta gọi là lời cầu nguyện không được nhận. Sự trả lời của Chúa có thể không đúng theo điều chúng ta ước muốn hoặc trông đợi, dầu khi Chúa từ chối điều mong muốn của ta, thì đó vẫn là sự trả lời bởi tình thương và khôn ngoan của chính Thiên Chúa là Cha Từ Ái.

Để kết luận chúng ta ghi lại đây tâm sự của tướng Douglas Mac Arthur: “Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc lời kinh nguyện đơn sơ hàng ngày: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng… Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…”

 

48.Nét đẹp lời cầu xin

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Một thực tế trong đời Kitô hữu đó là hễ cầu nguyện thì không thể không cầu xin. Hễ nói đến cầu nguyện là người ta nghĩ ngay đến những ơn cần cầu xin. Có lẽ vì cuộc sống con người lắm gian truân và đầy dẫy những bất an, gian khổ, bên cạnh đó thì khát vọng cũng như nhu cầu của con người thì dường như vô tận. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ một chút thì việc cầu xin cũng là một cách thế cầu nguyện mang tính hiện sinh. Dù rằng theo cái nhìn tu đức truyền thống thì khi cầu nguyện, việc cầu xin xem ra không bằng việc tạ ơn, ngợi khen hay chúc tụng Thiên Chúa.

Lần kia một môn đệ nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông”. Và Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha, xin làm cho thánh danh Cha vinh hiển…; xin tha tội cho chúng con…” (x. Lc 11,1-4). Tin mừng Matthêu cũng tường thuật việc Chúa Giêsu dạy cầu nguyện với “Kinh Lạy Cha” bằng những lời cầu xin (x. Mt 6,9-13). Qua những lời cầu xin chúng ta nhận ra một vài tâm tình vừa chính đáng vừa phải đạo và cũng vừa rất “dễ thương” như sau:

1. Tâm tình tin tưởng, cậy trông vào tình yêu và quyền năng của Đấng chúng ta cầu xin: Đã cất lời cầu xin với ai, thì dĩ nhiên ít nhiều đã có sự tin tưởng và cậy trông vào người ấy. Xin với ai điều gì, thì giả thiết đã tin tưởng người ấy có khả năng thực hiện điều chúng ta xin. Xin điều gì với ai là giả thiết đã cậy trông vào tình yêu của người ấy dành cho mình. Dưới một góc độ nào đó, thì lời cầu xin cũng là một lời tuyên xưng đức tin.

2. Tâm tình thống hối, ăn năn: Nếu điều cầu xin là ơn tha thứ thì người cầu xin không chỉ bày tỏ lòng tin vào sự khoan dung của người mình xin mà còn bày tỏ sự ăn năn thống hối về lỗi lầm mình đã phạm. Theo cái nhìn này thì lời cầu xin cũng là lời xưng thú tội lỗi.

3. Tâm tình khiêm hạ nhìn nhận sự hạn chế, bất toàn và cả bất lực của mình: “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ…” (x. Lc 11,3-4; Mt 6,11.13). Nội hàm những lời cầu xin trên đây quả là một lời thú nhận sự bất toàn, bất lực của người xin. Không có ơn Chúa thì chúng ta không thể làm được sự gì tốt đẹp. Nếu Chúa không nâng đỡ, thì chúng ta không thể đứng vững trước mãnh lực của thần dữ, như “sư tử luôn rảo quanh chúng ta để rình chờ cắn xé, phân thây” (x.1P5,8).

4. Tâm tình thảo hiếu: “Nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”(x.Mt 6,9-10; Lc 11,1). Một người con biết nghĩ đến Danh, Vương quyền, Ý, Lời của Cha là một người con sống đạo thảo hiếu đúng phận.

5. Sự liên đới, tương thân tương ái trong nghĩa tình huynh đệ: Chúng ta nhận ra sự thật này qua hai từ “chúng con” của lời kinh “Lạy Cha”. Hơn nữa, khi đã tuyên xưng, nhìn nhận Thiên Chúa là Cha, thì một cách nào đó đã nhìn nhận tha nhân là anh chị em của mình. Sự tương thân tương ái được biểu hiện cách rõ nét và thiết thực bằng sự liên đới.

Câu chuyện Abraham cò kè bớt một thêm hai để xin Thiên Chúa tha thứ cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh hoạ. Lòng hiếu thảo luôn sánh đôi với nghĩa tình huynh đệ. Một người sống có tình với mẹ cha, thì hẳn luôn có lòng với anh chị em. Cũng thế, khi đã biết sống có tình với huynh đệ thì luôn làm đẹp lòng mẹ cha. Và các đấng bậc sinh thành vốn nhận tình nghĩa huynh đệ của đàn con như là một trong những cách thế đẹp nhất mà đàn con bày tỏ lòng thảo hiếu với mình. Chúng ta nhận ra sự thật này khi cha ông chúng ta đã gắn kết hai mối tình ấy bằng hạn từ ghép “tình hiếu đễ”.

Mối tình của Abraham dành cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra một cách nào đó còn bị giới hạn. Dù rằng đã dùng hết cách để có kè bớt dần con số người công chính để xin Thiên Chúa thứ tha cho dân hai thành ấy, thì Abraham đã không vượt qua con số “mười”. Điều này cho chúng ta thấy rằng mặc dù tình thân của Abraham đối với Thiên Chúa thật đậm đà, nhưng vẫn còn bị hạn chế cách nào đó vì sự mạc khải thời Cựu ước chưa hoàn hảo. Chắc hẳn Abraham luôn mong ước được thấy ngày của Con Người, ngày mà chân lý được tỏ bày cách hoàn hảo nơi Giêsu Kitô (x.Ga 8,56). Giả như ông chứng kiến ngày ấy thì ông đã bớt dần con số xuống chỉ còn một người công chính. Quả vậy, “cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng đã được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18).

Tuy nhiên, có thể nói rằng cầu xin không phải là để Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì chính Người đã biết rõ những gì chúng ta cần trước khi chúng ta cất lời khẩn xin (x.Mt 6,8). Và dĩ nhiên, đã là người Cha trên các người cha, thì Thiên Chúa sẵn sàng ban mọi sự tốt lành cho chúng ta. Và cần phải khẳng định rằng nội hàm những lời cầu xin là để giúp chúng ta nhận biết những gì chúng ta cần, và để chúng ta sẵn sàng đón nhận cũng như sẵn sàng thực thi Thánh Ý.

“Xin cho danh Cha cả sáng”. Chúng ta không xin thì trời xanh vẫn phản ánh vinh quang của Người. Chúng ta xin là để biết cách cộng tác với ơn Chúa làm cho Thánh danh Người tỏ rạng nơi cuộc đời con người chúng ta. “Xin Cha tha nợ cho chúng con”. Chúng ta chưa xin thì Đức Kitô đã chết để ban ơn tha thứ cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Cầu xin là để biết cách thế đón nhận hồng ân tha thứ Chúa đã tặng ban. Một trong những cách thế để đón nhận hồng ân thứ tha của Thiên Chúa đó là quảng đại tha thứ cho tha nhân (x.Mt 6,14-15).

Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa. Tiếp xúc, gặp gỡ Chúa để biết Chúa, yêu mến Chúa và để thực hiện thánh ý của Người. Như thế, cầu nguyện, cầu xin không phải là để bắt Thiên Chúa thực hiện điều chúng ta muốn, nhưng là để bắt chính mình thực thi điều Thiên Chúa muốn. Vấn đề đặt ra đó là cần phải biết cầu xin những gì đẹp ý Chúa. Một trong những điều đẹp ý Chúa nhất đó là tôi và mọi người cùng được hưởng ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc ngay hôm nay và ngày sau.

 

49.Lời Kinh Tuyệt Vời - An Phong, OP

Hôm nay Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha. Người muốn chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, sống tâm tình con thảo và tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Người muốn chúng ta cầu nguyện cho vinh danh Thiên Chúa và cho những nhu cầu cơ bản của chính chúng ta. Tuy nhiên, không phải là chúng ta xin điều gì thì được điều ấy. Thiên Chúa nhân lành không bao giờ ban điều xấu cho con cái Người là chúng ta. Quà tặng cao quý nhất là Chúa Thánh Thần, Đấng bảo trợ và nâng đỡ chúng ta.

Nguyện cho danh Cha cả sáng, lời nguyện đầu tiên xin cho Thiên Chúa được mọi người nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.

Nguyện cho Nước Cha trị đến, lời nguyện thứ hai xin cho Nước Cha, "nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14,17). Nơi nào có công chính, có bình an, có hoan lạc trong Thánh Thần, nơi đó là Nước Thiên Chúa. Công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần càng lan rộng thì con người lại càng được hạnh phúc.

Nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, lời nguyện thứ ba xin cho ý Thiên Chúa được thực hiện. Thiên Chúa muốn mọi người được bình an, hạnh phúc và nhất là được cứu độ. Ý muốn của chúng ta thường hẹp hòi, ích kỷ, vì chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều. Nhưng Thiên Chúa thì khác. Hơn nữa, Thiên Chúa biết chúng ta cần thiết những gì.

Xin cho chúng con hôm nay có cơm ăn áo mặc đầy đủ mỗi ngày là lời nguyện thứ tư. Giàu có quá hoặc nghèo khó quá là hai thái cực. Cha ông chúng ta đã chẳng từng nói "no nê sinh dâm dật, túng bấn sinh đạo tặc" đó sao? Đức Giêsu muốn tránh cho chúng ta những nguy hiểm tiềm ẩn. Người muốn chúng ta thanh thoát, đừng quá lo toan vật chất mà hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, vì như hoa huệ ngoài đồng Thiên Chúa cũng nuôi.

Xin tha nợ chúng con là lời nguyện thứ năm. Con người ở đời không ai là hoàn hảo cả, không lỗi này thì lỗi khác, không tội lớn thì tội nhỏ. Như thế, con người mang gánh nặng, mang nợ. Con người cần Thiên Chúa tha nợ. Nhưng điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ là con người cũng phải biết bỏ qua cho anh em mình "như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ là lời nguyện thứ sáu. Cám dỗ là một thực tế trong đời người. Bao lâu con người còn sống, bấy lâu còn cám dỗ. Cám dỗ đến từ bên ngoài, do người khác, do hoàn cảnh; cám dỗ đến từ bên trong, do chính nội tâm, thâm sâu mỗi người.

Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ là lời nguyện thứ bảy. Sự dữ là những gì không tốt xảy đến cho con người, là bị tai nạn, bị thiệt hại, bị hãm hại... nói chung là điều xấu. Xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta luôn bình an, hạnh phúc.

Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện. Khi đọc lời kinh này trong tâm tình con thảo, đọc chậm rãi, vừa đọc vừa suy niệm, chúng ta làm phong phú đời sống tâm linh của mình mỗi ngày.

Lạy Cha trên trời là Cha chúng con.

Chúng con dâng Cha tâm tình ngợi khen,

chúc tụng, thống hối và nguyện xin.

Chúng con nguyện cho mọi người nhìn nhận Cha

là Chủ tể trời đất muôn vật,

là Đấng thống lãnh, điều khiển lịch sử nhân loại.

Chúng con nguyện cho sự công chính, bình an

và hoan lạc trong Thánh Thần ngự trị khắp mọi nơi.

Chúng con xin dâng ý riêng con

để cầu cho thánh ý Cha được thành tựu khắp nơi.

Xin cho chúng con trở nên những người nghèo khó,

biết chấp nhận cuộc đời,

biết chấp nhận con người.

Xin gìn giữ chúng con luôn được bình an, hạnh phúc.

Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ