Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 57
Tổng truy cập: 1364524
LẤY GÌ MÀ ĐỔI ĐƯỢC LINH HỒN MÌNH
“Lấy gì mà đổi được linh hồn mình”
Tại Palestine người ta thường đem đến những vấn đề tranh cãi đến xin các rabbi phân xử. Đối với nhân vật trong đoạn này, ông coi Chúa Giêsu là một vị thầy có thế giá có thể giải quyết vấn đề cho ông, nhưng Chúa Giêsu từ chối không muốn tham dự vào vấn đề tranh chấp về tiền bạc. Có những người đến với thẩm quyền tôn giáo không phải để xin những chỉ dẫn về đời sống thuộc linh, mà lại xin giải quyết những vấn đề vật chất. Chúa Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vào những việc không liên hệ trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Chúa ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến công việc thuộc linh và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự hay chiếm đoạt địa vị của nhà cầm quyền: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?”
Có thể câu trả lời này chứa đựng một thông điệp cho thời đại chúng ta, cảnh cáo chúng ta đừng lẫn lộn những nhiệm vụ của Giáo Hội và Nhà Nước. Địa hạt của Giáo Hội là thuộc linh, thẩm quyền của Giáo Hội không phải là để quyết định những vấn đề kinh tế và chính trị. Tuy nhiên Giáo Hội óc những cống hiến và ghi khắc những nguyên tắc liên quan đến các vấn đề luân lý và quyết định về sự công bình và lẽ phải trong mọi lãnh vực nhân sinh.
Chúa Giêsu đã từ chối “chia gia tài”, nhưng Ngài đã nhìn sâu vào căn nguyên lời yêu cầu và thấy rằng người ấy đã bỏ qua luật lệ dân sự để đến nhờ một giáo sư tôn giáo giúp đỡ là do lòng tham lam thúc đẩy. Nhân cơ hội này Chúa chỉ dạy cho kẻ theo Chúa phải có thái độ nào đối với vấn đề vật chất, và Ngài dạy qua một câu chuyện. Câu chuyện về lão phú hộ ngu dại dạy ta rằng tiền của không tạo nên nội dung thật của sự sống, cho nên chỉ mải lo tìm kiếm vàng bạc mà quên Thiên Chúa là điều khờ dại.
Có hai điều đáng chú ý về người giàu này:
- Ông ta không hề nhìn xa hơn chính mình: không có dụ ngôn nào nhiều chữ “mình” như trong dụ ngôn này: “Hoa màu của mình, kho lẫm của mình.” Đó là những chữ rất khó nghe mà người ích kỷ hay dùng đến. Người giàu ích kỷ chỉ biết nỗ lực tập trung vào mình. Có lời phê bình nổi tiếng về người ích kỷ như sau: “Có quá nhiều cái tôi trong vũ trụ của hắng!” Khi người này đã có của cải dư dật, ông không bao giờ nghĩ đến việc chia sẻ. Tất cả thái độ của ông đi ngược lại hẳn với tinh thần Kitô giáo. Thay vì từ chối mình, ông ta lại bảo vệ mình một cách khiêu khích; thay vì tìm hạnh phúc trong sự san sẻ, ông ta đã cố sức bám lấy hạnh phúc bằng cách bám chặt của cải. Luật sống của John Wesley Oxford ông có số lương là ba mươi bảng Anh một năm. Ông tiêu hai mươi tám đồng và cho đi hai đồng. Khi lương của ông tăng lên sáu mươi, rồi chín mươi, rồi một trăm hai mươi đồng một năm, ông chỉ tiêu xài hai mươi tám đồng, còn bao nhiêu thì cho đi. Khi viên kế toán trưởng của công ty đồ gia dụng xin ông gửi bảng liệt kê những gì cần mua, ông trả lời “Tôi có hai thìa cà phê bạc tại Luân Đôn và hai cái tại Bristol, đó là tất cả đồ bằng bạc mà tôi có hiện giờ, và tôi không mua thêm cái nào nữa trong lúc biết bao nhiêu người chung quanh tôi không có bánh ăn.” Châm ngôn La-mã có câu: “Tiền bạc khác nào nước biển, ai càng uống thì càng khát thêm.” Bao lâu người ta có thái độ giống như người giàu ngu dại thì người ta cứ ước ao được giàu thêm mãi – và đó là thái độ ngược với tinh thần Kitô giáo.
- Ông ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông ta chỉ đặt nền tảng cuộc sống lẩn quẩn trong thế giới của ông ta. Sau đây là cuộc đàm thoại giữa một chàng thanh niên ham số và một ông lão hiểu đời:
Chàng nói: “Tôi sẽ học buôn bán.” Ông lão hỏi: Rồi sao nữa?
Rồi sao nữa?” – “Tôi sẽ mở hiệu buôn.” Rồi sao nữa? – “Tôi sẽ dựng nên cơ nghiệp lớn!” “Rồi sao nữa? – Tôi sẽ trở về già, hưu hạ và sống bằng tiền bạc của tôi!” Rồi sao nữa? – Ờ có lẽ một ngày kia tôi sẽ chết. Rồi sao nữa?
Câu hỏi sau này cũng như một lưỡi dao. Người nào không hề nghĩ rằng có một thế giới bên kia thì người đó sẽ có ngày phải gặp một bất ngờ và cũng khủng khiếp.
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Athanasiô đưa ra lời khuyên: “Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần lớn lòng tham lam; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục vọng cai trị.”
Ngu dại của người giàu này là coi tiền có của như là mục đích duy nhất của đời sống, nó bảo đảm vững bền khát vọng của con người. Có được các cần thiết để sống và phát triển là chân chính, nhưng coi việc thâu góp tài sản như là một lý tưởng sẽ đưa đến phá huỷ con người và xã hội: “Đối với một dân tộc cũng như đối với một cá nhân, có thêm nhiều của cải hơn không phải là mục đích tối hậu. Mỗi một sự thăng tiến đều có hai mặt: nó cần thiết để con người được nên người hơn, nhưng đồng thời nó cũng giam hãm con người một khi nó trở thành giá trị cao cả nhất, không còn cho nhìn thấy giá trị nào khác. Lúc đó lòng người trở nên chai đá và tinh thần khép kín lại, con người không còn đến với nhau vì tình nghĩa, nhưng chỉ vì lợi lộc. Lợi lộc dễ làm cho con người chống đối nhau và chia rẽ nhau.Vì thế nếu chỉ tìm kiếm của cải mà thôi thì không những sẽ làm cản trở cho sự phát triển của con người, mà còn phản lại sự cao cả bẩm sinh cảu con người. Đối với một quốc gia cũng như đối với một con người, tội tham lam là một hình thức lộ liễu nhất của tình trạng luân lý thấp kém.” (Đức Phaolô VI, Phát triển 19)
Người Do thái hay kể truyện ngụ ngôn cũng về A-lịch-sơn Đại đế. Vị danh tướng mệt mã vì đi bộ đường xa, bèn ngồi nghỉ bên bờ một suối kỳ lạ. Ông uống nước và cảm thấy sảng khoái lạ lùng. Ông nhúng cá muối vào nước cho đỡ mặn và ngạc nhiên khi thấy nước làm cho cá có vị ngon lạ thường. Ông tự nghĩ: chắc hẳn đây không phải là nước thường, nó phải xuất phát từ một kỳ diệu nào, ta phải lần đến tận nguồn xem sao.” Ông đi mãi cho tới cổng thiên đàng. Cổng khoá, ông gõ cổng xin vào, nhưng bên trong chỉ có một tiếng đáp lại: “Ngươi không được vào đây, vì cổng này thuộc về Chúa.” Vị đại tướng trả lời ngạo nghễ: “Ta là Chúa của trái đất. Ta là A-lịch-sơn chiến thắng, không mở cửa cho ta sao?” – Không, chúng ta chẳng biết kẻ chiến thắng nào hết. Chúng ta chỉ biết những người đã chiến thắng dục vọng thấp hèn của mình, chỉ những người công chính ngay thẳng, mới được vào thiên đàng. A-lịch-sơn giận dữ như điên cuồng, nhưng chẳng ảnh hưởng chi hết đến người giữ cổng thiên đình. Ông đổi ra o bế và hối lộ, nhưng vẫn vô hiệu, bàn nài nỉ lần chót: “Ta là vua lớn và được mọi nước suy phục. Dầu không cho ta vào thiên đàng, nhưng ít ra cũng cho ta vật gì đem về để chứng tỏ với người thế gian rằng ta đã được đến nơi chưa từng có ai đến. Người gác cổng đáp: “Đây, hỡi tên khùng kia, ta cho ngươi điều ngươi xin, cầm về tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nó sẽ cho ngươi bài học khôn ngoan mà chưa từng có ai dạy ngươi. A-lịch-sơn vồn vã đưa tay nhận gói quà và vội vàng trở về trại quân mở ra coi. Lạ quá, trước mắt ông, chỉ là một mảnh sọ người. Giận dữ, ông quẳng mảnh xương xuống đất, la to: Đây là quà tặng cho vua và anh hùng sao? Công ta lặn lội vất vả chỉ xứng như thế này sao? Nhưng trong đoàn tuỳ tùng có một người thông thái, ông khuyên vua: “Tâu đức vua, xin chớ khinh vật nhỏ bé này, nó có tính chất rất lạ kỳ đáng đức vua để ý. Hãy cân nó với vàng bạc báu vật của đức vua, thử xem bên nào nặng hơn. Theo lệnh vua, họ đem cân tới, mảnh sọ một bên, còn bên kia chất vàng bạc, bảo ngọc… lạ thay, xương vẫn nặng hơn. Người ta chất thêm vàng, bạc, bửu thạch nữa… Xương vẫn nặng hơn. Càng thêm bao nhiêu, mảnh xương càng nặng hơn bấy nhiêu! Vua kinh ngạc: “Một mảnh sọ lại nặng hơn bấy nhiêu vàng bạc! Có gì nặng hơn mảnh sọ này không? Nhà thông thái đáp: “Thưa có, chỉ một mất hết trọng lượng, nhảy bồng lên, bên kim khí nặng hạ xuống. A-lịch-sơn la hoảng: “Cái này còn lạ hơn nữa!” Nhà thông thái giải thích: “Mảnh sọ này là lỗ mắt con người, dầu nhỏ bé, nhưng sự ham hố của nó không có giới hạn. Hết thảy của cải trần gian không làm cho nó thoả sự ham muốn của nó. Nhưng khi nó bị đất bao phủ và chôn vùi trong mồ mả, thì sự ham hố trần thế của nó mới hết.
Chúa Giêsu phán: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì? Hoặc lấy gì mà đổi được linh hồn mình?” (Mc 8,36-37). Tác giả Thánh Vịnh suy luận: “Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm bạc tiền, nhưng nào có ai tự chuộc nổi mình, và trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa. Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời…” (49,7-9). Vậy chúng ta hãy sống khôn ngoan theo lời khuyên của Thánh Gioan: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không xuất phát từ Chúa Cha, nhưng xuất phát từ thế gian; mà thế gian đang đi qua cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.” (1Ga 2, 15-17).
41.Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, cần biết luật pháp Dothái thời đó. Luật quy định trong việc thừa kế: Bất động sản thuộc con trai trưởng như nhà cửa, đất đai. Động sản như tiền bạc, bàn ghế, tủ sập... chia đều cho các con, con trai trưởng vẫn được gấp đôi và chỉ con trai được hưởng, con gái thì không. Đó cũng là luật chung cho toàn bộ Đông Phương cổ đại và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử. Sở dĩ có luật ấy, vì người Đông Phương muốn lập nên "người gia trưởng" để gìn giữ gia sản của gia tộc.
Trong giới Dothái xưa cũng như nay, người ta thường yêu cầu một giáo trưởng Dothái danh tiếng đứng làm trọng tài trong các vấn đề lề luật. Chính vì thế, cậu trai út đã cầu cứu uy tín của Đức Giêsu: "Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi". Đối với mọi người, Đức Giêsu sẽ nói với người anh cả chia lại cho người em, bởi trong suốt Tin Mừng, Đức Giêsu thường giảng dậy: "Anh em hãy yêu thương nhau", thế nhưng Đức Giêsu đã hỏi người em út: "Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?". Phải hiểu và giải thích câu hỏi của Đức Giêsu thế nào?
Phần đông các nhà chú giải cho rằng, Đức Giêsu đã dùng cách thức của người Đông Phương, trả lời bằng một câu hỏi hay một ẩn ngữ làm cho người ta phải suy nghĩ. Khi lạc mất trong đền thờ, Mẹ Người hỏi: "Con ơi! Sao lại xử với cha mẹ như vậy?", Người trả lời: "Tại sao cha mẹ lại tìm Con? Cha mẹ không biết là Con có bổn phận ở nhà của Cha Con sao "(Lc 2, 49). Với các con trai ông Giêbêđê xin được ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người, Người hỏi họ: Có uống nổi chén Người sắp uống không? (Mt 20,23).
Ở đây cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia gia sản, không phải là Đức Giêsu không quan tâm đến những vấn đề trần thế. Là Cứu Chúa, Đức Giêsu cứu chuộc con người cả xác và hồn, quả tim và ý thức, thể chất và tinh thần. Trong những năm rao giảng, Đức Giêsu không ngừng chú trọng đến con người toàn diện đó. Người đã nuôi dưỡng hồn họ bằng của ăn Lời Chúa, Người lại nhân năm cái bánh và hai con cá lên nhiều để nuôi dưỡng thể xác họ. Khi rao giảng, các bệnh nhân đến, đều được Người chữa lành. Tuy nhiên, không phải mọi bệnh nhân Dothái thời đó đều được Đức Giêsu cứu chữa, cũng như mọi người bệnh tật của thế giới sau này, không được Đức Giêsu chữa lành. Công việc đó là của con người. Người ta phải đào tạo các bác sĩ, phải lo có bệnh viện, phải tìm ra các thứ thuốc để chữa các bệnh nhân. Cũng vậy, các vấn đề xã hội như chia gia tài, giải quyết những tranh chấp bất hoà là nhiệm vụ của các quan toà, các thẩm phán, những nhà phụ trách thế tục... Đức Giêsu từ chối đặt mình vào vị trí của những người ấy.
Trong chiều hướng đó, công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo dân về với ý thức và năng lực riêng của họ: Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Thế nhưng, họ đừng vì thế, mà nghĩ: Các linh mục có đủ khả năng chuyên môn về mọi vấn đề. Thực ra có nhiều vấn đề mà linh mục không biết, nhất là những vấn đề không thuộc lãnh vực của linh mục. Với những vấn đề ấy, giáo dân phải tìm cách giải quyết, vì đó là trách nhiệm và thuộc lãnh vực của mình (Gs 43.)
Mặc dù Đức Giêsu không trực tiếp đảm nhận những nhiệm vụ trần thế, Người uỷ thác cho những vị có chức quyền, nhưng Người đưa ra một nguyên tắc để các nhà hữu trách áp dụng cho những trường hợp cụ thể. Nguyên tắc đó là không nên lẫn lộn phương tiện với mục đích. Mục đích là con người, của cải là phương tiện. Nhà nước cũng như chính quyền tạo ra của cải không phải để tiêu thụ tối đa, nhưng là phục vụ con người. Chính sự sống con người đứng đầu chứ không phải của cải. Sự sống con người gồm: Sự sống, thể xác và linh hồn, sự sống đời này và đời sau. Dĩ nhiên sự sống linh hồn, sự sống đời sau là cơ bản, sự sống thể xác, sự sống đời này là tạm bợ. Trong hai cái tạm bợ và cơ bản, cái sau quan trọng hơn cái trước.
Để làm sáng tỏ, Đức Giêsu kể dụ ngôn người phú hộ và những kho lẫm. Qua dụ ngôn, Đức Giêsu lên án nhà phú hộ, một tay duy vật hoàn hảo, tin vào những kho lẫm mang lại hạnh phúc cho mình. Thế nhưng, Đức Giêsu cảnh giác: "Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?"
Ông phú hộ thật sai lầm, ông nhầm lẫn hoàn toàn. Sự giầu sang không mang lại hạnh phúc... không có mối liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế và sự an toàn mạng sống. Sự sống của một người không phụ thuộc vào những của cải của người ấy. Tiền bạc không mua được thời gian. Ông phú hộ đã bị Đức Giêsu gọi là "đồ ngốc". "Đồ ngốc" với "dại" không hơn gì nhau., "dại" với "điên" là một. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu không ngừng đặt đối lập "kẻ điên dại" (nabal) với "người khôn ngoan" (maskil). Năm cô thiếu nữ không mang theo dầu cho đèn mình, là dại, năm cô mang theo dầu cho đèn, là khôn (Mt 25,2). Người mù để cho người mù dẫn đường là dại (Lc 6,39). Người biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại là khôn (Lc12,56). Nhưng cái khôn ai cũng cần phải có, đó là nhận ra của cải chân thực, nhận ra ý nghĩa đích thực của đời sống, đó là đời sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu, Người sắp chết trong ít ngày nữa, không muốn làm việc cho một người dù đó là quyền lợi chính đáng. Việc chia gia tài, không phải là việc làm đích thực cho anh. Có một tiếng nhỏ âm vang trong chúng ta: "Ngài có lý". Ngài biết rõ điều Ngài nói: "Anh em hãy coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu".
42.Nghèo
Vào thời Chúa Giêsu, cũng như vào thời nay, những người nghèo khó bao giờ cũng bị khinh chê. Sénèque đã viết như sau: - Lòng thương xót là một thói xấu của những kẻ yếu đuối. Còn người khôn ngoan sẽ không bao giờ thương xót.
Có kẻ đã đặt câu hỏi: - Đâu là sự khác biệt giữa một chiếc cày, một con bò và một tên nô lệ?
Và rồi người ta đã trả lời: - Chiếc cày thì không biết nói, con bò thì biết rống, còn tên nô lệ thì biết nói. Nhưng cả ba đều là những đồ dùng không đáng giá.
Còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã nghĩ gì về sự nghèo khó?
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Ngài đã mặc lấy thân phận nghèo khó.
Thực vậy, khi xuống thế làm người, Ngài đã chọn Mẹ Maria và thánh Giuse, là những người nghèo khó để giúp đỡ mình. Khi mở mắt chào đời, Ngài đã được sinh ra trong cảnh nghèo khó của hang đá máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem.
Ngài không phải chỉ sinh ra trong nghèo khó, mà còn lớn lên trong túng thiếu, phải lao động cực nhọc với đôi bàn tay của mình để kiếm tìm chén cơm manh áo. Thiên hạ đã chẳng bàn tán với nhau rằng: - Há Ngài chẳng phải là một bác phó mộc, con bà Maria sao?
Trong suốt quãng đời công khai, Ngài cũng đã sống vất vưởng, nay đây mai đó, như Ngài đã diễn tả: - Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy một chốn tựa đầu.
Sau cùng Ngài cũng đã chết trong cảnh nghèo khó với cây thập giá được dựng lên giữa trời và đất. Ngay cả ngôi mộ, nơi yên nghỉ cuối cùng cũng chẳng có nữa. Chúng ta có thể đúc kết về cuộc đời của Ngài như sau: - Sinh ra trong nghèo khó, lớn lên trong túng cực và chết đi trong thiếu thốn.
Ngài đã sống và sau đó đã giảng dạy về sự nghèo khó. Mở đầu bài giảng trên núi về tám mối phúc thật, Ngài nói: - Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ.
Qua lời xác minh trên, Ngài đã thực hiện một cuộc cách mạng, làm đảo lộn bậc thang giá trị. Kể từ nay, những kẻ giàu sang sẽ trở thành nghèo túng và những người nghèo túng sẽ trở thành giàu sang. Ngài đã truyền dạy: - Không ai có thể làm tôi hay chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các ngươi không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được… Con lạc đà chui qua lỗi kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước trời.
Nơi khác, Ngài cũng xác quyết mình thực hiện những gì tiên tri Isaia đã loan báo: - Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó…
Ngài đồng hóa mình với nhưng kẻ khó nghèo, bởi vì trong hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài đã nói: - Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Khi Ta khát, các ngươi đã cho uống. Khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc. Khi Ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm. Vì mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một kẻ hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Giáo hội tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, luôn quan tâm bênh vực quyền lợi và giúp đỡ những người nghèo khó, bởi vì họ cũng có một linh hồn bất tử, họ cũng là con cái Thiên Chúa và họ cũng được cứu chuộc bằng giá máu châu báu của Đức Kitô.
Chúng ta có thể tìm thấy biết bao nhiêu mẫu gương sáng chói trong lòng Giáo hội. Một Đamiêng đã phục vụ những người phong cùi tại hải đảo xa xôi. Một Phêrô Claver đã chăm sóc những người nô lệ. Một Vincentê đã lo lắng cho những người túng thiếu. Một Têrêsa Calcutta đã giúp đỡ những người bát hạnh, những người hấp hối bị bỏ rơi tại Ấn độ… Và con biết bao nhiêu dòng tu khác chuyên lo cho những người già cả, đau yếu và mồ côi.
Giáo hội không phải chỉ giảng dạy mà còn thực thi đức bác ái.
Noi gương Chúa Giêsu và Giáo hội, chúng ta hãy có một tinh thần siêu thoát đối với của cải đã đành, mà còn phải có một tình yêu thương đối với những người nghèo khó.
Những hành động bác ái của chúng ta sẽ là một cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất vì ngay từ đầu những người ngoại đã phải ngạc nhiên về các tín hữu sơ khai: - Kìa xem họ yêu thương nhau biết chừng nào.
Thương giúp kẻ khó nghèo là thương giúp cho chính Chúa, là thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng trên trời.
43.Kho tàng
Năm 1987, Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ đặc trách giáo dục, đã thực hiện một cuộc phỏng vấn các sinh viên sắp mãn đại học, về mục đích cuộc đời của họ trong tương lai: Họ muốn gì? Họ nhằm điều gì trước hết? Anh chị em có biết kết quả như thế nào không? 75% trong số 200.000 sinh viên được hỏi ý kiến đã trả lời cho biết: “Mục đích cuộc đời tương lai của họ là làm sao kiếm được thật nhiều tiền”. Các sinh viên này cho biết: “Sau khi học xong, họ muốn có một việc làm tốt với đồng lương cao để sống thoải mái”.
Không phải chỉ có những người trẻ này mới có ý nghĩ về cuộc sống hưởng thụ những của cải vật chất như vậy. Trong một xã hội thấm nhiễm tinh thần hưởng thụ và vật chất như ngày nay, nhiều người bị cám dỗ sống chỉ nghĩ đến nhà cửa, quần áo, ăn uống, tiền bạc, và được hưởng dùng càng nhiều phương tiện càng tốt. Nhiều người có thái độ giống như ông phú hộ giàu có được Chúa Giêsu mô tả trong Tin Mừng.
Đây là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, thường được gọi là dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc hay dại dột. Bởi vì ông ta chỉ nghĩ đến đời sống trần gian mà quên mất số phận vĩnh cửu của mình. Ông ta chỉ lo làm giàu mà không biết rằng: tất cả sự giàu sang của ông chỉ là hư vô mà thôi, vì tất cả những gì ông đang có ông không thể đem chúng theo ông vào cuộc sống vĩnh cửu, ông phải để lại cho những người khác. Hơn nữa, ông lại chỉ tìm sự an nhàn, hưởng thụ vinh thân phì da mà không nghĩ tới Thiên Chúa, không nghĩ tới người khác, và cũng không nghĩ tới đời sau. Đó là lý do tại sao ông phú hộ này bị Chúa bảo là ngu ngốc, dại dột, vì ông tham lam, thích sống hưởng thụ mà quên mất đời sống vĩnh cửu của mình.
Câu chuyện sau đây cũng tương tự như vậy, minh họa cho chúng ta hiểu rõ hơn chủ trương sai lầm của ông phú hộ ấy: Có một người kia rất giàu có, ruộng đất mênh mông thẳng cánh cò bay. Ông có một tên đầy tớ vốn có lòng tham của và ham danh vọng. Một hôm, ông gọi đầy tớ đến và bảo: “Ta sẽ cho ngươi ruộng đất của ta như lòng ngươi ước nguyện. Ngươi có thể chạy bao nhiêu tùy ý, chạy đủ một vòng từ lúc mặt trời mọc cho tới khi mặt trời lặn. Ta sẽ cho ngươi hết số ruộng đất mà ngươi đã chạy được, nhưng phải nhớ điều này: nếu ngươi trở về đây chỉ sau một phút khi mặt trời đã lặn rồi, ngươi sẽ không được gì hết, cho dù chỉ một tấc đất thôi”.
Người đầy tớ rất sung sướng làm theo lời ông chủ. Mặt trời vừa lóe lên những tia nắng đầu tiên, hắn đã sẵn sàng khởi hành, trong lòng nghĩ rằng: “Thật là sung sướng biết bao, chỉ trong vòng một ngày thôi mình sẽ trở thành một người điền chủ giàu có”. Với niềm vui sướng đó, hắn bắt đầu cắm cổ chạy, chạy không kịp thở, chạy không biết mệt. Mặt trời đã đứng ngọ, lẽ ra đến lúc phải quay đầu chạy vòng trở về cho kịp trước khi mặt trời lặn mới phải, nhưng trước mặt hắn, đồng cỏ vẫn còn xanh tươi, ruộng lúa chín vàng. Lòng tham đã khiến hắn chóa mắt. Thế là hắn cứ cắm đầu chạy mãi, chạy tiếp nữa. Đến khi hắn quay đầu chạy về thì trời đã xế chiều, nhưng đường vẫn còn xa, hắn ước ao mặt trời đứng lại để chạy về cho kịp. Hắn lo sợ, gắng sức chạy nhanh hơn. Khi hắn tới cửa nhà ông chủ, cũng vừa lúc mặt trời lặn. Nhưng tiếc thay cũng là lúc hắn hết hơi, ngã gục tắt thở dưới chân ông chủ. Thật đúng “Nhân tham tài tắc tử cũng như điểu tham thực đắc vong”. Và ông chủ cho anh như là phần số một chỗ nghỉ vừa dài vừa rộng không quá ba tấc đất.
Chúng ta thường nghe nói; “Tham thì thâm” quả là đúng. Trên đời này không thiếu gì những người có lòng tham và ích kỷ đến nỗi muốn đi mượn hòm để chôn mình thay vì bỏ tiền ra mua. Cũng có những người vất vả suốt cả đời lo thu tích của cải đến nỗi không dám ăn no, ngủ ngon, để rồi nửa đời người còn lại phải dùng của cải đã thu tích để bồi dưỡng lại sức khỏe đã mất chỉ vì lòng ích kỷ và tham lam quá mức. Thật vậy, những người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù qaung, họ liều mình đánh mất không những tự do mà còn mất cả chính đời sống nữa.
Của cải vật chất, lúa gạo, quần áo, nhà lầu, xe hơi, vàng bạc là phương tiện cần thiết để sống, nhưng không bao giờ là tất cả. Không thể vì chúng mà người ta tự cho phép mình làm tất cả mọi cách, kể cả làm gian bán lận, xâm phạm mạng sống cũng như tiết hạnh của kẻ khác, tham ô, tham nhũng hoặc khai thác “con người” và “thiên nhiên” cách bất chính. Tiền bạc, của cải tự nó không phải là xấu. Ai cũng cần có tiền bạc, của cải để sống xứng đáng với nhân phẩm. Tuy nhiên, tiền bạc, của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng như một phương tiện, tiền bạc sẽ giúp cho con người sống tốt đẹp, hạnh phúc. Trái lại, nếu chạy theo tiền bạc mà quên mất những giá trị khác trong cuộc sống, thì thật là nguy hiểm và tai hại. Nó có thể đem lại ấm no hạnh phúc đời này, nhưng thiệt mất linh hồn thì ích gì? Bởi vì cái chết sẽ đóng dấu chấm hết cho mọi cuộc sống giàu nghèo, sang hèn. Quan trọng là khi nhắm mắt, số phận đời đời của chúng ta sẽ ra sao? Của cải trần gian có giúp chúng ta tìm được hạnh phúc bất diệt hay lôi kéo chúng ta vào chỗ trầm luân?
Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình. Chúng ta phải nhận định cho đúng bậc thang giá trị của cuộc sống. Trong khi bôn ba vất vả kiếm sống hằng ngày, chúng ta phải tìm kiếm nước Chúa và những giá trị của nước Chúa trước hết. Trong khi tìm kiếm nhu cầu vật chất, chúng ta phải dứt khoát khước từ mọi hành động bất chính, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian dối. Chúng ta phải biết hài lòng với những gì mình đang có, đồng thời không sống ích kỷ, đóng kín, chỉ biết có mình, bất cần người khác. Trái lại, hãy sống quảng đại, mở rộng quả tim, mở rộng bàn tay để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hãy hào phóng, rộng rãi chia sẻ để tích trữ vốn liếng cho cuộc đời mai sau”.
44.Khờ dại
Bài Phúc âm hôm nay có nói tới một người giàu có đã lo tích trữ rất nhiều của cải, và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được hạnh phúc, bảo đảm. Ông nghĩ rằng: “Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi hưởng thụ cho đã!”. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “kẻ khờ dại”. (nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?).
Nếu ông ta sống vào thời đại này, mọi người sẽ xem ông là một nhân vật vị vọng, một con người có địa vị cao trong xã hội, có thể sai khiến người khác, được mọi người nể trọng. Thế mà Chúa Giêsu lại gọi ông là kẻ dại khờ. Chúa Giêsu không lên án ông là kẻ dại khờ, vì có thể ông đã làm giàu một cách bất chính. Câu chuyện cho thấy ông đã lao động cật lực, đã biết tận dụng thiên thời địa lợi và hoạch địch một chương trình dài hạn như một nhà doanh nghiệp tài ba. Vậy tại sao ông lại được xem là một kẻ dại khờ?
Đời sống của ông bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống của ông bị bởi các hành trang vật chất chỉ giúp ông duy trì và phát huy cuộc sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Ông ta quên rằng con người sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích, và cùng đích của con người là “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho. Và thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phương tiện.
Người đàn ông này nếu càng giàu có về của cải vật chất thì đời sống tinh thần và thiêng liêng càng trở nên nghèo nàn. Có thể ông có rất nhiều sách quí, nhiều đĩa nhạc hay, nhưng chắc rằng ông chẳng bao giờ nghe, và chẳng bao giờ đọc. Vì ông còn đang mải mê kiếm tiền và giữ tiền. Cho nên đời sống tinh thần và thiêng liêng của ông trở nên nghèo nàn. Vậy, ông đúng là kẻ khờ dại.
Ông chỉ sống cho cá nhân của ông chứ không biết quan tâm đến người khác. Có một người nọ thật giàu muốn gì cũng có, tuy vậy ông không thấy hạnh phúc vì ông chỉ nhận được những cái nhìn soi mói, coi thường và khinh miệt của người khác. Ông tìm đến hỏi một người nổi tiếng là khôn ngoan: “Tại sao người ta lại coi thường và khinh miệt tôi cho tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn? Người ta đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo và cho những công việc từ thiện”. Để trả lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu chuyện như sau: Một chú heo than thở cùng chị bò cái: “Tôi cũng như chị, chúng ta cống hiến thịt mình cho loài người. Thế thì tại sao họ thân thiện với chị mà xa lánh tôi?” Ngẫm nghĩ giây lát, chị bò cái trả lời: “Thịt chúng ta chỉ cống hiến cho loài người khi chúng ta chết. Còn bây giờ có lẽ tại tôi hiến cho họ sữa lúc tôi còn sống nên họ quí mến tôi chăng”.
Thật vậy, nhìn vào cuộc sống hằng ngày thì chúng ta sẽ nhận ra ngay, những người có điều kiện về vật chất biết quan tâm giúp đỡ chia sẻ với anh em thì sẽ được nhiều người yêu mến và kính nể.
Ông nhà giàu này mang trong mình căn bệnh vị kỷ, nên không thấy rằng của cải của ông là do của cải tập thể mang lại, ông cũng không nhận ra rằng ông đã thừa hưởng một kho tàng ý tưởng và các tiến bộ mà những người đang sống cũng như đã chết góp phần tạo nên. Ông nghĩ rằng mình có thể sống huy hoàng trong thế giới nhỏ bé chật hẹp. Ông là một con người sống theo chủ nghĩa cá nhân và suốt đời ông chỉ có một mình không có ai làm bạn. Ông thật là kẻ khờ dại.
Ông đã không biết rằng ông có được của cải như ngày nay chính là do Thiên Chúa đã ban cho ông. Và bây giờ ông nói với chính mình: bây giờ tôi có nhiều của cải rồi, ta cho xây kho để cất của cải vào đó, giờ ta chỉ có hưởng thụ, đi du lịch, an dưỡng tuổi già. Nhưng đêm hôm đó Thiên Chúa gọi ông. Vậy ông quả là một kẻ khờ dại vì khi chết ông đâu mang theo được vật chất gì.
Có lẽ ông nhà giàu này nghĩ rằng của cải, quyền thế ở trần gian này là một thứ bảo hiểm chắc chắn cho hạnh phúc và sự sống đến nỗi ông quên cả cái chết rình rập, bất xét đến phần rỗi đời đời. Ông là kẻ khờ dại vì cứ bo bo giữ lấy của cải cho thật nhiều để tiêu xài, ăn chơi thỏa thích, cung phụng cho bản thân để rồi không biết khôn ngoan dùng của cải mua lấy bằng hữu trong Nước Trời.
Ngày nay có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê rong ruổi chạy theo cái bóng này, để rồi mau chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Chúa Giêsu coi người giàu có này là kẻ khờ dại vì ông không phân biệt được phương tiện và cùng đích cuộc đời; ông không ý thức được mình lệ thuộc vào người khác; ông không ý thức được mình phải lệ thuộc vào Thiên Chúa.
Thế thì, qua bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì? Chúa Giêsu không hề lên án người giàu có chỉ vì họ có nhiều của cải, nhưng chỉ cảnh báo những người quá coi trọng tiền bạc, của cải và không biết sử dụng tiền bạc cho đúng. Tiền bạc tự thân không có giá trị đạo đức. Nó có thể sử dụng cho việc tốt cũng như việc xấu. Nó chỉ là phương tiện, một khí cụ, một đồ dùng. Như con dao chẳng hạn, cái làm cho nó tốt hay xấu chính là cách sử dụng. Con dao có thể giúp người mẹ dùng để sửa soạn bữa ăn, hay giúp cho bác sĩ phẫu thuật để cứu sống bệnh nhận, nhưng nó cũng có thể được dùng để sát nhân. Và việc sử dụng tiền bạc cũng thế. Nếu chúng ta sử dụng đúng và tốt, như giúp đỡ anh em khi họ thiếu thốn, hay làm một công việc từ thiện nào đó là chúng ta cứu sống họ, nhưng nếu dùng đồng tiền mà mua chuộc, đút lót với ý đồ xấu là chúng ta đã hại người khác.
Dưới cái nhìn của Chúa, làm giàu một cách lương thiện không phải là xấu, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của anh em lại là một tội ác, dù có ý thức hay không ý thức, mỗi người chúng ta là một con nợ đối với người khác (người quen biết hay không quen biết). Vậy chúng ta phải trả món nợ thế nào? Câu trả lời thật giản đơn: cho kẻ đói ăn, cho kẻ trần truồng áo mặc, chăm sóc người đau ốm.
Chúa Giêsu muốn chúng ta sống một cách sống khôn ngoan. Người khôn ngoan phải biết đâu là giá trị thật và giả, cái gì trường tồn và nhất thời. Người khôn ngoan biết nhìn sự vật theo bậc thang giá trị: sẵn sàng hy sinh cái tạm bợ để theo đuổi cái vĩnh hằng. Cuộc đời Kitô hữu chúng ta là phải sống siêu thoát, nghĩa là của cải, danh vọng, địa vị, quyền lực, quyền lợi được sử dụng như phương tiện để đạt đến mục đích tối hậu. Kitô hữu chúng ta không miệt thị những thực tại trần thế nhưng hướng tất cả các thực tại trần thế vào việc xây dựng Nước Trời. Thực tại trần thế giúp thăng tiến con người trong xã hội và Giáo Hội. Như thánh Phaolô đưa ra một xác tín cho chúng ta: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta sẽ cùng sống lại với Người. Đức Kitô trở thành Người mẫu, dạy chúng ta sống tốt đạo đẹp đời.
45.Sự khôn ngoan đích thực – Lm. GB. Trần Văn Hào
Sống ở đời, ai cũng muốn tỏ ra mình là người khôn ngoan để tồn tại. Tục ngữ Việt Nam có câu ‘Khôn sống, bống chết’. Kẻ khôn ngoan sẽ sống, còn kẻ khờ dại sẽ bị đào thải. Cả 3 bài đọc lời Chúa hôm nay đều nói về sự khôn ngoan, nhưng không theo quan niệm trần thế mà theo hướng đích của Tin mừng. Vậy đâu là sự khôn ngoan đích thực?
Nguyên lý căn bản của khôn ngoan: ‘Memento Finis’ (hãy nghĩ đến cùng đích)
Ngay từ thời cổ đại, triết gia Socrates cũng đã nói đến nguyên lý này. Nhưng ông ta chỉ giới hạn quan điểm trong phạm trù triết học mà thôi. Nền triết học Hy lạp ngày xưa không thể đưa dẫn con người đến cùng đích tối hậu của cuộc sống như Kinh thánh mặc khải, mặc dù họ vẫn biết rằng sự khôn ngoan ở đời là hãy nghĩ đến mục đích sau cùng. Họ không biết và cũng không thể xác định được đích đến của cuộc sống hôm nay là gì, ở đâu và như thế nào. Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Giảng viên từ từ hé mở thực tại này với nhận định ‘Phù vân, tất cả chỉ là phù vân’. Mọi giá trị trần gian chỉ mang tính tương đối và rất tạm bợ. Tiền bạc, danh vọng hay sắc đẹp rồi sẽ biến tan như mây khói khi chúng ta đối diện trước cái chết. Nhưng tác giả vẫn chưa soi tỏ cho chúng ta biết thực tại sau cái chết sẽ ra sao.
Mãi muộn thời sau này, ý niệm về cuộc sống mai hậu mới từ từ được hé mở. Anh em nhà Ma-ca-bê (thế kỷ thứ 2 trước công nguyên) đã quyên tiền xin lễ cầu nguyện cho những người đã chết. Đây là quyển sách đầu tiên trong Kinh thánh Cựu ước nói về niềm tin vào cuộc sống mai sau. Niềm tin đó được Chúa Giêsu dần dần mặc khải rõ nét qua các giáo huấn của Ngài. Đặc biệt, Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết và đi vào vinh quang Phục sinh để diễn bày chân lý mà Thánh Phaolô diễn tả: “Những ai cùng chết với Đức Kitô, sẽ được cùng sống lại với Ngài”.
Trong cái nhìn thần học ấy về cánh chung, Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôssê mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, cũng tổng lược một viễn ảnh cuộc sống tương lai đặt nền tảng trên niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh để giúp chúng ta có một thái độ sống khôn ngoan đích thực. Ngài viết:”Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa…Khi Đức Kitô xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Ngài và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang.” (Col 3,1-5).
Sự khôn ngoan của Tin mừng: Tinh thần nghèo khó và sống thanh thoát.
Mối phúc đầu tiên trong bát phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi, chính là nếp sống khó nghèo. “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ”. Mối phúc đó cũng được Chúa Giêsu nhắc lại gián tiếp qua dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay. Tên nhà giàu bám vào của cải vật chất và sống cuộc sống hưởng thụ đã bị Chúa kết án một cách gay gắt. Chúa gọi anh ta là ‘đồ ngốc’ (c 20). Ngài còn răn đe một cách mạnh mẽ: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng sẽ giống như vậy (c 21).
Alexandre Đại Đế (thế kỷ thứ tư trước công nguyên) là một ông vua rất nổi tiếng trong thế giới Hy lạp ngày xưa. Ông đã chiến thắng lẫy lừng và chinh phục hầu hết các nước miền Trung Đông. Ông chết lúc còn rất trẻ, mới 30 tuổi. Trước khi chết, ông dặn các cận thần hãy để thi hài của ông trong cỗ quan tài với hai bàn tay thò ra ngoài. Ông muốn cho mọi người thấy rằng, một con người như ông với bao danh vọng và của cải giầu sang, khi chết cũng chỉ còn 2 bàn tay trắng. Giai thoại này rất tương thích với nội dung mà lời Chúa hôm nay đề cập đến. Chúng ta đã nghe nói khá nhiều về tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu mời gọi, nhưng trong thực tế, tiền bạc vẫn luôn là tên cám dỗ khủng khiếp nhất ở bất cứ thời đại nào. Nó tấn công tất cả mọi người, không loại trừ ai. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta từng chứng kiến nhiều trường hợp, ngay cả cha mẹ và con cái đem nhau ra tòa chỉ vì tranh chấp một căn nhà hay vài ba thước đất. Có biết bao nhiêu bài học cay đắng và nghiệt ngã chúng ta đã rút ra từ vấn đề tiền bạc. Lúc còn nghèo xác nghèo xơ, chẳng ai thèm ngó ngàng tới. Khi trở thành việt kiều với đô la rủng rỉnh trong túi trở về thăm quê hương, căn nhà lúc nào cũng đầy ắp bạn bè đến hỏi han. Trong tiểu thuyết ‘Những con chim ẩn mình chờ chết (les oiseaux se cachent pour mourir)’ tác giả cũng nêu lên một thực tế phũ phàng đã và đang xảy ra, đó là tiền bạc như một ma lực làm tha hóa và biến chất rất nhiều người, ngay cả các anh em linh mục.
Kết luận
Ngày xưa có một ông vua nuôi một thằng ngốc trong cung để giải sầu. Những lúc buồn, ông gọi thằng ngốc đến để mua vui. Khuôn mặt ngờ nghệch và những cử chỉ ngô nghê của nó cũng giúp nhà vua khuây khỏa đôi chút. Nhà vua thưởng cho nó một cây gậy bằng bạc và dặn: “Tao thưởng cho mày cây gậy này vì mày rất ngốc. Khi có ai ngốc hơn mày, mày hãy trao cây gậy cho nó”. Một bữa kia, nhà vua lâm trọng bệnh và rất nguy kịch. Ông cho gọi thằng ngốc đến để giải khuây. Ông nói với nó: “Ngốc ơi, ta sắp đi xa rồi”. “Đức vua đi đâu và chuẩn bị hành trang gì chưa?” Thằng ngốc hỏi lại. “Ta chưa chuẩn bị gì và ta cũng chẳng biết đi đâu nữa”. Nghe vậy, thằng ngốc nhẩy cẫng lên và trao cây gậy bạc cho đức vua. Nó nói: “Bây giờ, con đã tìm ra được một người ngốc hơn con rồi, đó là chính đức vua. Đức vua sắp đi xa mà không biết mình đi đâu và cũng chưa chuẩn bị gì thì chắc chắn đức vua là người ngốc nhất trên đời”.
Đúng vậy, điều xuẩn ngốc nhất trên trần gian là ta đang sống mà không biết mình từ đâu đến, sống để làm gì và cuộc sống mai sau sẽ đi về đâu. Tên nhà giầu trong bài Tin mừng hôm nay cũng được Chúa gọi là ‘đồ ngốc’. Lời Chúa nhắc nhở để chúng ta biết sống khôn ngoan thực sự theo hướng đích của Tin mừng.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam