Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 71

Tổng truy cập: 1364548

LỄ MÌNH MÁU CHÚA KITÔ

Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô

 

 

 

Chủ đề lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô hôm nay là “bánh”, tượng trưng lương thực cần thiết để nuôi sống con người. Đó là bánh cùng với rượu mà ông Men-ki-xê-đê mầu nhiệm, vừa là vua và vừa là tư tế thành Sa-lem, dâng tiến để chúc phúc cho tổ phụ Áp-ra-ham và chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao. Đó cũng là bánh Đức Giê-su hóa nhiều để nuôi dân chúng ăn no nê trong hoang địa. Đó cũng là bánh mà trong đêm bị nộp, Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể để con người được sống và sống dồi dào.

St 14:18-20

Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, thuật lại cuộc gặp gỡ của tổ phụ Áp-ra-ham với ông Men-ki-xê-đê mầu nhiệm, vừa là tư tế vừa là vua thành Sa-lem. Ông Men-ki-xê-đê dâng tiến hiến lễ tạ ơn gồm bánh và rượu. Truyền thống Ki-tô giáo đã thấy ở nơi hiến lễ này tiên trưng hy lễ Thánh Thể.

1Cr 11:23-26

Bài Đọc II, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, là bài trình thuật cổ kính nhất về việc Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể.

Lc 9:11-17

Tin Mừng thánh Lu-ca tường thuật biến cố Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều để nuôi dưỡng dân chúng trong hoang địa, tiên trưng  Thân Thể Chúa Ki-tô vinh quang hiện diện và hóa nhiều trong bàn tiệc Thánh Thể.

BÀI ĐỌC I (St 14:18-20)

Trong tập truyện về tổ phụ Áp-ra-ham được ghi lại trong sách Sáng Thế từ chương 12 đến chương 25, xuất hiện một tình tiết ngắn và đặc biệt: một nhân vật mầu nhiệm, ông Men-ki-xê-đê, vua và tư tế thành Sa-lem, viếng thăm tổ phụ Áp-ra-ham.

Sau khi đã chiến thắng bốn vị vua liên minh với nhau tấn công thành Xơ-đôm và thành Gô-mô-ra và đã giải thoát gia đình ông Lót, cháu của ông, cũng như dân của hai thành, ông Áp-ra-ham đang trên đường trở về, thì ông Men-ki-xê-đê, vừa là vua vừa là tư tế thành Sa-lem, đến để chúc phúc cho ông Áp-ra-ham và chúc tụng Thiên Chúa.

1. Cử chỉ của ông Men-ki-xê-đê:

Ông Men-ki-xê-đê đem bánh và rượu đến và dâng tiến hiến lễ tạ ơn. Ngay liền sau đó, bản văn  xác định chân tính của ông Men-ki-xê-đê, ông hành động với tư cách tư tế của Đấng Tối Cao; vì thế cử chỉ của ông mang giá trị tôn giáo. Ông chúc lành cho tổ phụ Áp-ra-ham và chúc tụng Thiên Chúa, Đấng đã cho vị lãnh tụ Do thái này chiến thắng những kẻ thù của mình.

Việc ông Men-ki-xê-đê kêu cầu Thiên Chúa dưới danh xưng là “Đấng Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất”, đó cũng là danh xưng của Đức Chúa trong Kinh Thánh (St 24:3; Tv 18:14; 47:3; 78:35; 97:9). Đó cũng là vị Thiên Chúa mà tổ phụ Áp-ra-ham tôn thờ, thường nhất dưới danh xưng “Đấng Toàn Năng” (St 17:1). Quả thật, lời ông Men-ki-xê-đê chúc phúc cho ông Áp-ra-ham và chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao được gặp thấy tương tự trong đoạn văn sách Giu-đi-tha, theo đó, sau khi đã chiến thắng tướng Hô-lô-phéc-nê, bà Giu-đi-tha được ca ngợi: “Bà được Thiên Chúa Tối Cao ban phúc… Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất” (Gđt 13:18).

Ông Men-ki-xê-đê được tác giả thánh vịnh ca ngợi là dung mạo lý tưởng của Đấng Mê-si-a vừa là vua vừa là tư tế: “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị… Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Tv 110:1-4). Thật ra, Đấng Mê-si-a không thể là tư tế theo phẩm trật Lê-vi vì là hậu duệ của vua Đa-vít, nghĩa là Đức Giê-su thuộc bộ tộc Giu-đa chứ không thuộc bộ tộc Lê-vi. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái sẽ khai triển lối chú giải này (Dt ch. 5 và ch. 7).

2. Cử chỉ của tổ phụ Áp-ra-ham:

Để tỏ lòng biết ơn, tổ phụ Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm của mình. Sách Sáng Thế thường kể ra tấm lòng hào phóng và vị tha của tổ phụ Áp-ra-ham (x. những lời cầu bầu thật cảm động của ông ở St 18:22-32). Cử chỉ của vị tổ phụ đặc biệt có ý nghĩa. Một phần mười là hiện vật mà dân Ca-na-an dâng hiến cho các thần linh của mình; đây cũng là thuế hằng năm mà các dân đóng cho các vua chúa ở miền Cận Đông. Như vậy, ông Áp-ra-ham nhận ra tính chính danh chức tư tế và vương đế của ông Men-ki-xê-đê. Ngoài ra, cử chỉ của vị tổ phụ mang tính tiên trưng, vì sau này con cái Ít-ra-en có nghĩa vụ đối với Đức Chúa, các tư tế và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem của họ bằng cách đóng thuế thập phân. Như vậy, tổ phụ Áp-ra-ham tiền thân việc dân Chúa dâng tiến cho Đức Chúa, Đấng Tối Cao, một phần mười lợi tức của mình theo luật định.

Trong Tân Ước, chúng ta đọc thấy tình tiết này trong thư gởi tín hữu Do thái, ở đó tác giả còn phóng đại mầu nhiệm bao quanh nhân vật Men-ki-xê-đê khi ban cho ông tính chất siêu việt nào đó (Dt ch. 7). Các bản văn Do thái giáo khuếch trương nhân vật huyền bí này theo cùng một ý hướng, như các bản văn được gặp thấy ở Qumran gợi lên vai trò của ông Men-ki-xê-đê, “trổi vượt trên vai trò của các thiên thần”.

Sau này, vào thế kỷ thứ ba, trong khoa chú giải Ki-tô giáo, hiến lễ bánh và rượu mà ông Men-ki-xê-đê dâng tiến để chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao được giải thích như tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể: Đức Giê-su sẽ biến bánh và rượu thành Mình và Máu của Ngài. Lời giải thích này được chính thức chấp nhận trong Lễ Quy Rô-ma khi nhắc nhớ: “hy lễ thánh thiện và lễ vật tinh tuyền của Men-ki-xê-đê, thượng tế của Chúa”.

BÀI ĐỌC II (1Cr 11:23-26)

Bản văn này được trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô là bài trình thuật cổ kính nhất mà chúng ta có về việc Chúa Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Thư này chắc hẳn được viết ở Ê-phê-xô vào mùa xuân 55, gần đến lễ Vượt Qua, vì thế khoảng cách giữa bản văn này và biến cố Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể khoảng độ 20 năm.

Thánh Phao-lô yêu cầu các tín hữu Cô-rin-tô phải tôn kính cách đặc biệt “bữa ăn của Chúa”. Để làm sống lại nơi họ tâm tình tôn kính “bữa ăn của Chúa” này, thánh nhân nhắc họ nhớ lại những ngôn từ của việc thiết lập và ý nghĩa sâu xa của bữa ăn này. Như vậy, chúng ta vừa có những lời của Chúa Giê-su được lập lại trong lễ Quy, vừa có quan điểm thần học đầu tiên hướng đến mầu nhiệm lớn lao này.

1. “Đây là điều Chúa Giê-su đã dạy cho tôi…”:

Thánh Phao-lô viết: “Đây là điều Chúa Giê-su đã dạy tôi, tôi xin truyền lại cho anh em” (1Cr 11:23), như vậy thánh nhân khẳng định rằng điều này ngài đã lãnh nhận trực tiếp từ chính Chúa Giê-su chứ không “từ truyền thống đến từ Chúa”. Chúng ta không loại trừ rằng thánh nhân ám chỉ đến một mặc khải cá nhân (thánh nhân có nhiều kinh nghiệm trực tiếp từ Đức Ki-tô), nhưng dù thế nào, mặc khải cá nhân này chỉ có thể củng cố điều mà thánh nhân đã biết được từ chính các chứng nhân nhãn tiền.

2. Trong đêm bị nộp:

Mỗi khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta lập lại những lời này, chúng nhắc nhớ sự tương phản bi thảm giữa việc Đức Giê-su hiến dâng mạng sống mình cho nhân loại và sự đê tiện của một trong các môn đệ của Ngài, một kẻ phản bội tình bằng hữu của Ngài và nộp Ngài cho các kẻ thù của Ngài. Ác thần đã làm rối loạn công trình tạo dựng ngay từ đầu. Ác thần này lại hiện diện và xem ra có vẻ chiến thắng vào thời điểm Đức Giê-su sắp thiết lập một thế giới mới và một giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người. Nhưng Xa-tan bị đánh bại bởi chính các công việc của nó: chúng giúp cho ý định của Thiên Chúa được thực hiện.

3. “Đây là Mình Thầy, hy sinh vì anh em…”:

Bản văn của thánh Phao-lô rất giống với bản văn của thánh Lu-ca: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em” (Lc 22:19). Hơn nữa, chỉ duy cả hai ngài truyền đạt cho chúng ta lời căn dặn của Chúa Giê-su: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11:24b và Lc 22:19).

Chúa Giê-su đã minh nhiên loan báo hồng ân lạ lùng này: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51). Những lời này xem ra quá thẳng thắn đến mức khó mà tin được. Ngài cũng đã cho vài linh cảm theo cách khác qua những dấu chỉ. Ở tiệc cưới Ca-na, Ngài đã biến nước thành rượu, đây chỉ là một khúc dạo đầu; ở nơi hoang địa, Ngài đã hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông đang đói được ăn no nê, đây chỉ còn là bước khởi đầu của biểu tượng.

Hai dấu chỉ “bánh” và “rượu” có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Bánh được làm từ hạt lúa miến bị giã thành bột và được nhồi thành bánh, rượu được ép ra từ trái nho bị dẫm đạp và nghiền nát; cả hai xem ra được định sẵn cho việc chuyển đổi thành hai hình Thánh Thể. Chúa Giê-su nhấn mạnh cả giá trị hy tế lẫn ý nghĩa giao ước mà cử chỉ của Ngài mặc lấy. Nhưng thánh Phao-lô không nhấn mạnh hai khía cạnh này. Trong một chú giải ngắn của mình, thánh nhân cho thấy ý nghĩa sâu xa mà thần học của thánh nhân không ngừng được gợi hứng: mầu nhiệm Tử Nạn và mầu nhiệm Phục Sinh được tái diễn mỗi lần cộng đoàn Ki-tô hữu cử hành bàn tiệc Thánh Thể.

4. Mầu nhiệm Tử Nạn và mầu nhiệm Phục Sinh:

“Thật vậy, mỗi lần ăn bánh và uống chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết cho tới ngày Chúa đến”. Với lời nhắc nhở này, thánh Phao-lô cho chúng ta hiểu rằng hồng ân Thánh Thể quy tụ, thâu tóm tất cả mầu nhiệm cứu độ, tức mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh. Cử hành Thánh Thể là tái diễn hy tế của Đức Ki-tô trên thập giá, nhưng đây là vị Thiên Chúa hằng sống, Đấng tự hiến bản thân mình. Khi rước Mình Thánh Đức Ki-tô, người Ki-tô hữu được tháp nhập vào trong cùng một chuyển động đau khổ, chết và sống lại của Ngài. Thánh Thể là bảo chứng cho thấy ngay từ giờ Nước Thiên Chúa hiện diện giữa nhân loại và sẽ phát triển viên mãn vào ngày Đức Ki-tô trở lại trong vinh quang. Sự đảm bảo này được toàn thể cộng đoàn tuyên xưng niềm tin và niềm hy vọng của mình sau khi truyền phép: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”.

TIN MỪNG (Lc 9:11-17)

Phép lạ bánh hóa nhiều được cả bốn tác giả Tin Mừng tường thuật, thậm chí thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô còn tường thuật thêm bánh hóa nhiều lần thứ hai. Thánh Gioan xác định phép lạ này xảy ra vài ngày trước lễ Vượt Qua. Vào thời điểm này, có rất nhiều khách hành hương từ khắp nơi quy tụ cùng nhau dọc theo biển hồ Ghên-nê-sa-rét để chuẩn bị theo từng nhóm lên đường tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem. Vì thế, đám đông được mô tả trong bài tường thuật này đóng một vai trò quan trọng. Khi hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông vài ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su loan báo một lễ Vượt Qua khác. Đó là lý do tại sao phụng vụ cho chúng ta đọc bài tường thuật này vào lễ Mình và Máu của Đức Ki-tô.

1. Một ngày đầy hồng ân:

Biến cố được định vị ngay sau khi nhóm Mười Hai đi truyền giáo trở về. Chúa Giê-su muốn đem riêng các Tông Đồ xuống thuyền qua bờ bên kia “đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31). Tuy nhiên, đám đông hiểu ý liền theo đường bộ mà đến với Ngài.

Đức Giê-su không sống cho riêng mình; Ngài đến để hiến dâng mạng sống mình cho nhân loại. Sự hiện diện của đám đông ở nơi này cản trở dự định nghỉ ngơi của Ngài, ấy vậy Ngài ân cần tiếp đón họ. Ngài động lòng thương những nỗi khốn khổ của họ “vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6:34). Để đáp ứng nỗi khốn khổ tinh thần của họ, “Ngài nói với họ về Nước Thiên Chúa”, và để bù đắp nỗi khốn khổ thể lý của họ, “Ngài chữa lành những ai cần được chữa lành”. Khi chiều xuống, Ngài hoàn tất ngày hôm đó với một cử chỉ báo trước việc Ngài hiến dâng bản thân mình còn triệt để hơn nữa.

2. Dấu chỉ loan báo cuộc Xuất Hành Mới:

Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều nhấn mạnh: “Ở đây hoang vắng”. Diễn ngữ này gợi nhớ thời kỳ Xuất Hành, thời kỳ dân Do thái đã phải chịu đói chịu khát trong hoang địa Xi-nai, họ nhận được bánh man-na, “bánh từ trời xuống”, ân ban này được tiếp diễn hằng ngày cho đến lúc dân vào đất hứa Ca-na-an. Diễn ngữ này ám chỉ Đức Giê-su là Mô-sê Mới sắp cho dân Ít-ra-en Mới ăn no nê bánh kỳ diệu.

3. Dấu chỉ loan báo thời Mê-si-a:

Trước tiên, cử chỉ của Đức Giê-su mang chiều kích Mê-si-a. Với các môn đệ và đám đông dân chúng theo Ngài, Đức Giê-su muốn cho họ hiểu rằng thời kỳ Thiên Chúa viếng thăm nhân loại đã đến, tức là thời Mê-si-a, thời mà các ngôn sứ, các thánh vịnh gia và các hiền nhân đã tiên báo rằng đó sẽ là thời kỳ Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ân phúc của Ngài. Chủ đề này được trình bày dưới hình ảnh một bữa ăn, “bàn tiệc thời Mê-si-a”, tiên báo bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa sẽ khoản đãi những người được tuyển chọn trong Nước Thiên Chúa (Tv 132:14-15; Is 49:10; 55:1-3; Am 9:13…).

4. Dấu chỉ loan báo Giáo Hội:

Thánh Lu-ca luôn luôn nhạy bén trước khía cạnh Giáo Hội ở nơi những dấu chỉ mà Chúa Giê-su ban cho. Như tại thánh Mát-thêu, khác với thánh Mác-cô và thánh Gioan, thánh Lu-ca nêu bật nhóm Mười Hai, các ngài ý thức về hoàn cảnh và đề nghị một giải pháp: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì ở đây hoang vắng quá”. Nhưng Chúa Giê-su đáp: “Anh em hãy liệu cho họ ăn”. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi lại mệnh lệnh này. Thánh Mát-thêu còn nhấn mạnh hơn nữa: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14:16). Các ông phải mặc lấy tấm lòng của Đức Ki-tô trước nỗi khốn khổ lớn lao của đám đông này. Chính các ông chứ không ai khác phải đối mặt với vấn đề này và đáp ứng những mong ước của đám đông khốn khổ này chứ không tìm cách thoái thác để lẫn tránh trách nhiệm của mình, dù bất kỳ lý do gì.

Các môn đệ chỉ còn biết thú nhận là họ bất lực: họ chỉ có trong tầm tay vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá trước đám đông dân chúng khốn khổ bao la này. Về phương diện nhân loại, không có giải pháp nào khả dĩ. Đây là một bài học thật sự kinh khiếp: không phải Giáo Hội thường phải đối mặt với những vấn đề tưởng chừng như không thể giải quyết được nếu không có đức tin sao?

Lúc đó, Chúa Giê-su yêu cầu các môn đệ cho dân chúng ngồi thành từng nhóm, mỗi nhóm khoảng năm mươi người. Ở đây, bản văn quy chiếu đến sách Xuất Hành, theo đó ông Mô-sê quy tụ những chi tộc Ít-ra-en để làm thành một dân và đặt những người chỉ huy: điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người (Xh 18:21-25). Cũng vậy, Đức Giê-su làm cho đám đông thành một cộng đoàn quy tụ quanh Ngài và Ngài sắp nuôi dưỡng họ từ bánh hóa nhiều. Ý nghĩa Giáo Hội thì thật rõ nét.

5. Dấu chỉ loan báo Thánh Thể:

“Ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ…”. Ở đây, các tác giả Tin Mừng đều miêu tả cử chỉ của Đức Giê-su y hệt như cử chỉ của Ngài trong Bữa Tiệc Ly (Lc 22:19-20; 1Cr 11:23-25) và cũng qua dấu chỉ này các môn đệ nhận ra Chúa (Lc 24:30-31).

Việc chia sẻ bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê tiên trưng việc chia sẻ bánh hóa nhiều khác, nghĩa là chia sẻ Thân Thể Đức Ki-tô vinh quang hiện diện và hóa nhiều trong bàn tiệc Thánh Thể, không chỉ cho vài ngàn người nhưng cho hằng triệu người, mỗi giây phút và trên khắp thế giới cho đến ngày tận thế: “Đức Giê-su là tấm bánh bẻ ra cho một thế giới mới”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

10. Thánh Thể, quà tặng tình yêu

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

 

 

Người Do Thái quý trọng hạt lúa miến như thế nào thì người Việt Nam chúng ta cũng quý trọng hạt gạo biết bao.

Vì hạt gạo tượng trưng cho sự đầy đủ, sung túc và no ấm. Người Việt Nam còn coi hạt gạo, hạt cơm là “hạt ngọc” Trời cho để nuôi sống con người. Tuy nhiên, để có được hạt gạo con người cũng phải bỏ công sức với một nắng hai sương mà có. Trong bài thơ: “Hạt Gạo Làng Ta” của Trần Đăng Khoa viết năm 1968 khi nhà thơ vừa tròn 10 tuổi đã nói lên được một phần ý nghĩa đó:

“Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi hôm nay

Hạt gạo làng ta

Có bão tháng bảy

Có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy.”

Ôi! Thật là một sự hy sinh, cần mẫn vượt lên trên cái nắng đổ lửa, gay gắt đến nỗi “Chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ”, ấy thế mà: “Mẹ em xuống cấy”… Mẹ đâu quản nắng mưa, đầu tắt, mặt tối để kiếm bát cơm đầy cho con, cho gia đình ấm bụng. Cha đâu quản “một nắng hai sương”, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để vun trồng chờ ngày cho lúa trổ bông.

Vì thế, có ai đó đã nói rằng:

Ôi hạt lúa

Ngậm nắng uống sương

Hạt hình cong tấm lưng người cày cấy.

Cày cấy với biết bao mồ hôi, tần tảo hy sinh, nhưng để thành hạt gạo, hạt lúa lại còn bị thanh luyện một lần nữa để thành hạt gạo thơm ngon.

Ôi hạt lúa

rồi cũng thành hạt gạo

Đau đớn qua rồi

Gạo trắng tựa bông.

Có lẽ Chúa Giêsu khi chọn tấm bánh làm nên từ hạt lúa miến là biểu tượng cho chính thân thể Ngài, Chúa Giêsu cũng muốn nhắc nhở con người phải trân quý Tấm Bánh Trời Ban, vì đây cũng là dấu chỉ của một tình yêu cao cả không phải của con người làm ra mà là của Thiên Chúa ân ban. Tấm bánh biểu lộ tình yêu tự hiến hy sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Tấm bánh là thành quả của mồ hôi, của công sức, của hy tế hiến dâng để trở nên của ăn của uống cho nhân trần.

Trong Thánh Kinh ghi lại: “Trong đêm bị trao nộp, Chúa Giêsu cầm bánh bẻ ra và trao cho các môn đệ.” Tại sao không phải là một đêm thanh bình hay một ngày bình an để thiết lập Bí tích Thánh Thể? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn giữa lúc nguy nan trăm bề sợ hãi để trao ban Thánh Thể Mình cho các môn sinh? Có lẽ, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh yếu tố hy tế thập giá, là một hy tế tự hiến đầy hy sinh. Thánh Thể được làm nên trong hiến tế thập giá, trong máu và nước mắt của Chúa. Thiên Chúa đã làm tất cả điều đó vì yêu con người. Vì yêu mà Ngài chẳng màng những hy sinh, những đắng cay muôn phần. Cũng như một người mẹ chẳng quản ngại dầm mưa giãi nắng để gieo trồng hạt gạo thì Chúa Giê-su cũng đi vào cuộc thương khó để làm thánh tấm bánh hằng sống cho nhân trần. Nếu như cha ông ta đã từng đồng cảm với bao vất vả cực nhọc thấm đẫm mồ hôi của người nông dân, chân lấm tay bùn và lên tiếng nhắc nhở mọi người: “Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.” Có lẽ Giáo Hội cũng nhắc nhở chúng ta hãy trân trọng món quà Thánh Thể mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Một món quà vô giá vì được ban tặng trong hiến tế đẫm máu của Đức Kitô trên Thập giá. Một món quà mà Thiên Chúa đã vun đắp với trọn tình yêu hy sinh chết cho người mình yêu.

Lễ Mình Máu Thánh Chúa là dịp để chúng ta tạ ơn về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Tình Ngài vẫn đong đầy cho chúng ta qua Thánh Thể Chúa. Tình Ngài vẫn chịu hiến tế vì chúng ta và qua đó trao ban cho chúng ta tấm bánh sự sống đời đời để: “Ai ăn bánh này sẽ không chết bao giờ”. Xin cho chúng ta luôn biết siêng năng đón nhận Thánh Thể Chúa là lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Ước gì chúng ta cũng biết hiến tế đời mình kết hợp với hiến tế của Chúa để sinh ơn ích cho mình và cho muôn người.

Xin Mình Máu Thánh Chúa bổ dưỡng và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ xa lánh ơn lành của Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

11. Thái độ sống

 

 

 

Chúa Giêsu và các môn đệ đang đứng trước một cử toạ đông đảo, đói lời Chúa cũng như đói cơm bánh. Lúc ấy, trời đã về chiều mà địa điểm tụ họp lại là một nơi hoang vắng. Thánh Luca đã ghi lại Chúa Giêsu và các môn đệ có hai cách đối xử hoàn toàn khác biệt nhau trong cảnh huống đặc biệt ấy.

Các môn đệ thì đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để mỗi người tự lo liệu lấy cái ăn và nghỉ ngơi cho mình. Thật là đơn giản. Các môn đệ và cả Thầy của họ khỏi bận tâm vất vả, mặc dù giải pháp các ông đề nghị có thể đưa đến một tình trạng xáo trộn có thể là khung khiếp. Chúng ta thử mường tượng cả một đám đông, mà nguyên số đàn ông đã lên tới 5000, kéo vào một vài làng gần đó, chắc hẳn là không có những siêu thị hiện đại dư đầy hàng hoá, để sục sạo mua bán cái ăn thức uống. Cảnh giành giật, cấu xé nhau không thể không xảy ra. Và cảnh tượng ấy hiển nhiên là trái nghịch với cảnh Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa mới rao giảng cho họ. Các môn đệ như muốn giới hạn sứ vụ của các ông và cả của Chúa Giêsu vào những việc ngày nay quen gọi là việc đạo. Thực ra cứ lý tự nhiên mà xét, vào lúc này không thể làm gì hơn là giải tán để mỗi người tự lo liệu lấy. Giải pháp riêng xem ra vẫn dễ hơn và khoẻ hơn. Chẳng phải chúng ta nghĩ oan cho các môn đệ. Bởi vì ngay Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh cho các ông: Các con hãy cho họ ăn đi. Các ông đã trả lời: Chúng ta chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, trừ khi chúng con phải đi mua thức ăn cho tất cả đám đông này.

Nhưng Chúa Giêsu thì lại có một thái độ khác hẳn. Ngài không thể bỏ mặc đám đông đã đi theo Ngài. Sứ mạng của Ngài, như Ngài đã từng khẳng định: Không phải là mưu tìm cơm áo cho những kẻ thiếu thốn bởi vì chính Ngài đã bỏ trốn khi đám đông tìm Ngài để tôn Ngài lên làm vua sau khi được Ngài làm phép lạ cho họ ăn no nê. Nhưng Ngài không giới hạn sứ mạng của Ngài vào những việc thiêng liêng, để rồi làm ngơ trước cái đói, cái khó khăn, cái cùng quẫn của con người. Và ở đây Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ của Ngài bài học, đó là phải biết quan tâm về cuộc sống của những người chung quanh. Mọi sự đều được bắt đầu từ sự quan tâm này. Đồng thời không có sự quan tâm này thì mọi sự đều trở nên khó khăn. Trái lại, khi đã có sự quan tâm nhập cuộc, thì tình hình khó khăn sẽ được giải quyết như bởi một phép lạ. Dĩ nhiên, sự quan tâm đến người khác đòi hỏi chúng ta phải đầu tư sức lực, trí tuệ và khả năng để đáp ứng những nhu cầu của họ. Và như thế sự quan tâm cũng có nghĩa là tự hiến mình cho kẻ khác.

Và Chúa Giêsu đã thể hiện tới cùng sự quan tâm này nơi chính bản thân của Ngài, bởi vì Ngài đã ban chính thịt máu Ngài, nghĩa là trọn vẹn cuộc sống của Ngài cho kẻ khác: Các con hay cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các con hãy cầm lấy mà uống vì này là máu Ta. Cử hành Thánh Thể chính là lặp lại cử chỉ tự hiến của Chúa Giêsu: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Thánh Thể không phải chỉ là một nghi lễ, nhưng hơn thế nữa còn là một thái độ sống, một sự quan tâm, một sự dấn thân vì hạnh phúc của người khác.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

12. Mình Máu Chúa – Veritas

(Trích trong ‘Hãy Ra Khơi’)

 

 

 

Hôm nay, tôi bỗng chợt nhớ đến một kinh nghiệm sống trong gia đình và thường được lặp đi lặp lại mãi trong thời gian tôi 57 tuổi. Cứ mỗi lần mẹ tôi làm bánh hay cha tôi tát các mương đìa quanh nhà bắt cá thì tôi thèm thuồng ngồi bên nồi bánh vừa chín hoặc tiếc nuối những rổ tôm cá. Thèm thuồng vì rổ bánh chín mà mình muốn ăn nhưng mẹ tôi lại cứ lấy đi phân chia, bảo tôi đem cho người này người nọ, hoặc hối tiếc những con tôm, con cá mà mẹ tôi bắt đem cho các gia đình hàng xóm, những người cần đến. Mỗi lần bảo tôi mang đi cho người khác thì tôi không muốn cho đi, bấy giờ mẹ tôi lại bảo: “Con ạ, mình giữ lại ăn thì hết mà cho người ta ăn thì còn mãi”. Tôi không bao giờ quên lời nói đơn sơ này đi kèm với chính hành động chia bánh, chia cá cho những người xung quanh.

Hôm nay đọc lại đoạn Tin Mừng của lễ Mình Máu Thánh Chúa, kinh nghiệm gia đình tôi đã trải qua và nhất là lời giải thích của mẹ tôi: “Mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn”. Một lần nữa lại xuất hiện và giúp tôi phần nào hiểu thêm kinh nghiệm mà các tông đồ đã trải qua ngày xưa trong biến cố được kể lại trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa đọc qua. Vào thời điểm của biến cố, chắc chắn các tông đồ đã được nhìn thấy nhiều việc làm của Chúa Giêsu để thực hiện tình thương đối với con người. Những lời nhắn nhủ dạy bảo của Chúa đã đánh động các ngài là sẽ không được sống ích kỷ, không được mơ ước vinh quang, danh vọng, địa vị cho bản thân khi theo Chúa. Thế nhưng, khi phải đối diện với một nhu cầu cụ thể của muôn người đang theo Chúa mà bị đói thì các ngài có phản ứng tránh né, thoái thác, không muốn hy sinh làm một cái gì đó để giúp vào. Các ngài đã nhắc khéo Chúa cho đoàn người ra về để họ tự lo giải quyết lấy vấn đề ăn uống. Chúa Giêsu đã làm ngược lại, Ngài ra lệnh: “Các con phải cho họ ăn”. Làm đồ đệ của Chúa, nhất là trong địa vị các tông đồ thì càng không thể chối từ trước lời mời gọi của tình bác ái liên đới. Và không để các tông đồ sống trong một thái độ tiêu cực lâu hơn nữa. Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông cộng tác vào công việc cho đi của Ngài. Trước hết, bằng việc chịu cực một chút, dấn bước hơn một chút để ra khỏi cái tôi ích kỷ, để tổ chức đám đông ngồi xuống bãi cỏ thành từng nhóm cho có trật tự.

Chắc chắn, đây cũng là một công việc khá phức tạp so với phương tiện thời đó. Phức tạp hơn là việc rửa chén quét nhà, rót cho người khách một ly nước, dù chỉ là một ly nước lã, nếu phải ly nước trà lại càng phải hy sinh nhiều hơn nữa: “Con ạ, mình ăn thì hết, người ta ăn mới còn”. Không biết mẹ tôi đã học được lẽ khôn ngoan này nơi đâu? Chắc chắn không phải nơi sách vở, vì mẹ tôi chỉ học xong tiểu học, như vậy có thể là từ Chúa. Tôi không biết. Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ cầm lấy bánh và cá mà Ngài vừa chúc phúc để đem phân phối cho dân chúng. Như mẹ tôi đã bảo tôi đem bánh, đem cá đi cho người xung quanh để họ cũng được hưởng một bữa ăn ngon như nhà tôi lúc tát đìa hoặc làm bánh. Cử chỉ Chúa Giêsu thực hiện và được mô tả trong đoạn Phúc âm của thánh Luca hôm nay loan báo cho các môn đệ là Chúa sẽ thiết lập Bí tích Thánh Thể sau này. Chắc chắn sau kinh nghiệm sống với Chúa, các tông đồ hiểu được bí quyết sâu xa của Bí tích Thánh Thể, hy sinh chính bản thân mình như Chúa để nên của ăn đem lại hạnh phúc vui mừng cho anh chị em.

Chúng ta có thể nói, mừng lễ kính Mình Máu Chúa hôm nay như là ôn lại một kinh nghiệm gia đình, kinh nghiệm đại gia đình Giáo Hội của chúng ta. Bí tích Thánh Thể là trung tâm trong đời sống của mỗi người chúng ta cũng như là trung tâm của sinh hoạt Giáo Hội. Mỗi người chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội đều được mời gọi ôn lại kinh nghiệm gia đình mà Chúa Giêsu đã thực hiện với các tông đồ ngày xưa, Ngài mời gọi các tông đồ hãy cộng tác với Ngài để cho đi, cho đi chính Ngài, cho đi chính bản thân của họ. Mỗi người chúng ta hôm nay cử hành lễ Mình Thánh Chúa, chúng ta cũng được mời gọi cho đi chính mình như Chúa đã cho đi. Chúng ta tôn thờ sự hiện diện của Chúa không đủ, chúng ta còn phải để cho Chúa sống trong chúng ta, để Chúa cho đi trong chúng ta và chúng ta được mời gọi cho đi như Ngài. Xin Chúa củng cố đức tin cho chúng ta, để chúng ta cho đi trong tình thương bác ái, để chúng ta được sống như Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể mỗi ngày như Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

13. Bánh Hằng Sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

 

 

Ông tổ Abraham đi cứu người cháu là ông Lot bị bắt giữ, khoảng 1850 năm trước khi Chúa Giêsu giáng trần. Trên đường trở về đi qua Salem, ông Abraham đã gặp ông Melchizedek vừa là vua và là tư tế. Melkizedek đã dâng bánh và rượu cho Abraham. Bánh và rượu là biểu tượng của Bí tích Thánh Thể sau này được hiến dâng bởi tư tế theo dòng Melkizedek: Ông Melkizedek, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao (Stk 14,18). Từ thuở xa xưa, con người đã biết biến chế hạt miến, hạt mì thành bánh và ép những trái nho ủ lên men thành rượu. Đây là một tiến trình hòa lẫn biến đổi bánh rượu thật tuyệt vời. Tất cả mọi loài vật khác trên địa cầu đều ăn tươi nuốt sống theo luật tự nhiên. Riêng con người, bánh và rượu là căn cốt thực phẩm được chế biến để đáp ứng nhu cầu ăn uống của con người mọi thời và mọi nơi.

Trong ba năm rao giảng, phúc âm kể lại hai lần Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Trước khi Chúa làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều, Chúa đã dạy dỗ và an ủi chữa lành bệnh tật cả tâm linh lẫn thể xác. Chúa yêu thương đoàn dân như chiên không có người chăn dắt. Người ta mải mê nghe lời Chúa quên cả ngày giờ. Chúa cảm thông mọi nỗi khát khao của họ. Chúa cho họ các món ăn cả tinh thần lẫn thân xác. Hôm nay, Chúa muốn các tông đồ lo liệu thức ăn cho đám đông. Thật là bối rối, của ăn đâu cho đủ để nuôi cả mấy ngàn người: Đức Giê-su bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này” (Lc 9,13). Chúa muốn thử thách các các tông đồ một chút. Với lòng cảm thương sự đói khát của đoàn dân, Chúa đã sẵn sàng dùng bánh và cá như dấu chỉ của trời cao trao ban: Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông (Lc 9,16).

Có thể chúng ta cũng cảm thấy hơi lạ, dân chúng ăn bánh với cá. Bánh là thức ăn chung của nhiều dân tộc nhưng với cá khô nướng hay cá kho. Mỗi dân tộc có những món ăn riêng biệt làm nên căn tính con người. Thức ăn nuôi dưỡng con người cả tinh thần lẫn thể chất. Thức ăn đi đôi với suy tư, quan niệm và triết sống. Đại khái thức ăn biểu trưng của người Việt Nam là cơm gạo, người Căm Bốt có mắm Bồ hóc, người Ấn Độ có món Cari, người Đại Hàn có Kim chi, người Trung Hoa có Mì phở, người Ý có Pizza, người Hoa Kỳ có Hamburger và người Mễ Tây Cơ có Taco, đỗ đậu… Thức ăn làm nên căn tính của mỗi dân tộc. Chúng ta tôn trọng sự khác biệt trong vấn đề văn hóa thực phẩm. Món ăn của các Kitô Hữu trên toàn thế giới, không phân biệt mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, chúng ta cùng ăn chung một thứ bánh và uống chung một chén rượu. Bánh và Rượu của Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã chọn lựa. Khi chúng ta được ăn bánh và uống chén của Chúa, chúng ta trở nên chi thể mầu nhiệm của Chúa Kitô.

Khi hoàn tất việc rao giảng Tin Mừng, trước khi Chúa Giêsu từ giã thế gian, Ngài đã để lại cho Giáo Hội một gia bảo quý giá vô cùng. Cũng bánh đó, rượu đó mà chúng ta được dưỡng nuôi hằng ngày. Chúa Giêsu đã chọn lựa bánh rượu trong muôn ngàn loại thực phẩm để hiến thánh. Trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng, Chúa Giêsu đã cử hành một nghi thức hết sức nhiệm mầu: Trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy (1Cor 11,24). Và Chúa đã chọn rượu nho để thánh hiến trở thành Máu Chúa. Chất rượu trong chén thánh là giá máu của giao ước mới. Chúa Giêsu dùng cả bánh và rượu biến đổi thành thịt và máu thánh Chúa: Cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cor 11,25).

Đây là mầu nhiệm đức tin. Các tín hữu tuyên xưng sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Niềm tin vượt trội trên tất cả mọi việc cử hành phụng vụ. Người không thuộc trong đạo Công Giáo, không thể nào hiểu nổi, tại sao người tín hữu lại tin vào tấm bánh bé mọn và chén rượu nho đó là Mình Máu Thánh Chúa. Không có một tôn giáo nào trên thế giới có niềm tin vào sự biến đổi bản thể của một sự vật như thế. Trong cử hành thánh lễ, qua lời truyền phép của linh mục, bánh và rượu trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa. Một sự biến đổi lạ lùng qua quyền năng của Chúa Thánh Thần. Mọi người tuyên xưng niềm tin và phủ phục tôn thờ Bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh hình rượu. Và khi trao Mình Máu Thánh, linh mục hay thừa tác viên xác tín: Mình Thánh Chúa Kitô, Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Có nghĩa là chúng ta tin thật Chúa hiện diện đó.

Các linh mục thay mặt Chúa và Giáo Hội dâng thánh lễ mỗi ngày. Giám mục và linh mục đều là con người yếu đuối, tội lỗi và mỏng dòn chứa đầy tham thân si. Qua sứ vụ, Chúa đã chọn gọi những con người tầm thường để thi hành việc thánh. Thật ra, không ai là người xứng đáng đại diện đứng trước bàn thánh để dâng thánh lễ. Trong lễ hiến tế, Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa bị lột trần, bị đòn đánh nát thân, mồ hôi cùng vết thương rướm máu chảy lan, chân tay bị đóng chặt vào thánh giá, chịu đói chịu khát, quằn quại đớn đau và máu cùng nước từ cạnh sườn đã chảy ra tới giọt cuối cùng. Vì đuối sức, Chúa bị nghẹt thở và đã chết trên thánh giá để cứu độ nhân loại. Chén Máu đã đổ ra lập giáo ước mới không chỉ trong bữa tiệc ly mà là chén máu châu báu đang hứng từng giọt từ châu thân của Chúa trên thánh giá. Chén Máu của nhục hình khổ đau và chết.

Trên gian cung thánh, trước bàn thờ dưới chân thánh giá Chúa, các chủ tế mặc áo lễ thiệt đẹp, có khi rước sách linh đình, chén vàng bát kiểu, bàn thờ đá quí và hoa nến trang trọng. Các linh mục cử hành thánh lễ trong không gian rộng rãi, thoáng mát và chẳng phải chịu nắng nôi đớn đau và khổ sở như Chúa Giêsu trên thập giá xưa. Mỗi linh mục cần ý thức vai trò đại diện quan trọng của mình trong khi cử hành thánh lễ. Các linh mục có trọng trách giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người. Chúa Giêsu là vai chính. Chúng ta biết rằng thánh lễ hy tế là trung tâm của tất cả niềm tin Kitô Giáo. Cử hành thánh lễ tưởng niệm sự hiện diện của Chúa Kitô chịu chết và sống lại. Thánh lễ là cử hành Bí tích tình yêu dâng hiến. Thánh Phaolô lãnh nhận giáo lý từ chính Chúa Giêsu phục sinh và truyền lại cho các thế hệ, Ngài nhắc nhớ: Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết (1Cor 11,26). Chúng ta ăn Bánh và uống Chén hằng tuần, chúng ta tiếp tục loan truyền Chúa chịu chết và sống lại. Mỗi lần lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta được biến đổi nên giống Chúa hơn.

Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con Bí Tích Thánh Thể là nhiệm tích vô cùng cao quí, chúng con cùng phục bái tôn thờ. Chúa hiện diện trong Thánh Thể để an ủi và cảm thông những gánh nặng cuộc đời: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,28). Hơn nữa, Chúa còn dưỡng nuôi chúng con bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa, xin cho chúng con được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt trong ân tình Chúa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

14. Bánh của hiệp thông chia sẻ

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

 

 

Hôm nay thật là một ngày hồng phúc đối với người Kitô hữu, vì ngày Thứ Năm Tuần Thánh, sau khi Giáo hội đã cử hành kỷ niệm ngày Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể vì yêu chúng ta, giờ muốn suy tôn Bí tích cực thánh này mọi nơi mọi lúc để muôn đời tưởng nhớ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng tạo dựng đất trời đã ẩn mình nơi tấm bánh nhỏ mọn này, một sự hạ mình khó tin, tự ban chính thân mình làm của ăn cho chúng ta. Bánh các thiên thần nay phàm nhân được hưởng, và thưởng thức dồi dào như xưa Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng: “Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại” (Lc 9,17).

Sự việc xảy ra: Khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: “Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn” (Lc 9,12).

Đám đông dân chúng đang đói, Chúa Giêsu đứng giữa họ và quan tâm đến từng người, mạc khải cho họ thấy lòng thương xót của Thiên Chúa, loan báo mầu nhiệm Thánh Thể. Nhóm Mười Hai Tông Đồ Chúa chọn, nay được đặt vào trong tình trạng khó xử là cho đám đông ăn, khiến họ thưa: “Xin Thầy giải tán dân chúng”, với lý do họ chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, chẳng thấm vào đâu cho chừng ấy người ?

Đó là tình trạng hằng ngày của chúng ta, chúng ta không thể đáp ứng nhu cầu của một đám đông đã được giao phó bằng các phương tiện nhận loại mà ta đang có. Dù các tông đồ chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá trong túi xách thôi. Từ những chiếc bánh ít ỏi ấy, Chúa sẽ biến đối cái nghèo thực tại của các ông.

Hôm nay Chúa Giêsu muốn biến đổi nhận thức của chúng ta và yêu cầu chúng ta phải hướng về Cha trên trời. Người muốn biến đổi nhân tính của chúng ta để nhân tính ấy không dựa vào chính mình, nhưng tin cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa luôn hành động.

“Các con hãy cho họ ăn đi” (Lc 9,13). Đám đông theo Chúa cả ngày, trời lại gần tối. Lời Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ trong khoảnh khắc ấy làm thỏa mãn đám đông, từ đây họ được nuôi sống bằng bánh sự sống và được no lòng thỏa dạ. Bằng cách lắng nghe Lời Chúa, rước Mình và Máu Người, Chúa Giêsu dẫn chúng ta từ đám đông đến hiệp nhất với cộng đoàn.

Bí tích Thánh Thể là Bí tích của sự hiệp thông, làm chúng ta ra khỏi cái chủ nghĩa cá nhân để sống với nhau theo Chúa Kitô, tin cậy vào Người. Đây đã là tình trạng của Giáo hội đang bất lực trước nhu cầu của các tổ chức trên thế giới. Thiên Chúa mang trên mình tất cả những ưu tư lo lắng của của con người, và muốn chăm sóc Giáo hội với sự cộng tác của con người. Nếu mỗi người chia sẻ những gì mình có, cho dù nhỏ mọn, Thiên Chúa sẽ làm lên những điều không thể cho toàn thế giới.

“Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại.” (Lc 9,16-17). Trước đám đông dân chúng, các ông thất vọng về sự bần cùng và phương tiện, cũng như thiếu khả năng để nuôi đám đông. Năm chiếc bánh và hai con cá đặt vào tay của Chúa Giêsu, cả đám đông được no nê.

Chúng ta ngày nay cũng thế, nếu biết đặt vào tay Chúa khả năng khiêm tốn, cái mà chúng ta có, thì, trong sự chia sẻ, đời sống chúng ta sẽ phong phú. Thiên Chúa ở gần chúng ta, nhờ lễ hy sinh trên Thánh Giá, Người đã hạ mình xuống cho đến chết để ban sự sống mình cho chúng ta, Người đã chiến thắng sự dữ, ích kỷ, cái chết. Trong Thánh Thể, Chúa Giêsu dẫn chúng ta đi trên con đường phục vụ, sẻ chia, cho đi một chút để chúng ta trở nên giầu có. Quyền năng của Thiên Chúa là tình yêu, đổ xuống và biến đổi cái nghèo của chúng ta.

Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là Suối Nguồn hằng sống của Giáo hội. Giáo hội sống nhờ và trao ban sự sống thần linh này cho những người đã chịu phép Rửa tội cách dồi dào.

Ðiều này rõ ràng trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi các tông đồ muốn giải tán dân vì thấy bất lực trước nhu cầu của đám đông. Nhưng được Chúa gợi ý cho dân ăn, bảo họ ngồi xuống thành từng nhóm. Người trao bánh, cá cho họ… cuối cùng còn thu được mười hai thúng miếng vụn, đúng số Mười Hai Tông Đồ.

Những điều ấy há không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Mình Máu Người còn trao cho chúng ta, huống hồ là của cải vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta không phải chia sẻ những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi, không thấy cuối cùng còn thu lại được mười hai thúng miếng vụn đó hay sao?

Chắc chắn Hội Thánh ban đầu đã hiểu rằng, bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ vật chất. Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên Phaolô đã phải nhắc lại (x. 1 Cr 11,23-26). Lời thánh Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta, chúng ta sốt sắng tôn thờ Thánh Thể nhưng có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để không một ai phải thiếu thốn, đang khi những người khác thì no đầy?

Vì thế, chúng ta phải suy nghĩ về ba bài đọc, để khi long trọng tôn thờ Chúa trong Thánh Thể, chúng ta ý thức về nhiệm vụ bác ái, để mỗi lần cử hành bàn tiệc của Chúa, chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn thánh chúng ta nhận được từ nơi Chúa thì cũng phải chia sẻ với anh em, để khi trở lại dâng lễ chúng ta có bánh rượu là hoa màu ruộng đất và lao công của con người dâng lên Chúa để trở thành bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta. Amen.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

15. Này là Mình Ta. Này là Máu Ta

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

 

 

Thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành lễ của Chúa, kính Mình Máu Thánh Chúa. Liền sau lễ là kiệu trọng thể Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên đường trải thảm, có các em rắc hoa, vừa đi vừa hát: “Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê” (Ca nhập lễ – lời của thánh Tôma Aquinô). Để loan truyền cho mọi người biết rằng: Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Hy tế của Người là ơn cứu độ cho toàn thế giới.

Khởi đi từ một thị kiến, nữ tu Juliena de Mont-Cornillon được Chúa cho biết, hàng năm phải cử hành lễ Mình Máu Thánh Chúa và tôn sùng Mình Máu Thánh Chúa trên bàn thờ. Vì thế, lễ này được cử hành lần đầu tiên tại Liège vào năm 1247. Đến ngày 11 tháng 8 năm năm 1264, Đức Giáo hoàng Urbainô IV thiết lập và truyền phải cử hành trọng thể việc tôn sùng Bí tích Mình Thánh, nhằm nhắc lại việc cử hành đầy ý nghĩa trong Bữa Tiệc Ly của Chúa, giúp các tín hữu sống lại bầu khí trang nghiêm ấy với lòng biết ơn Thiên Chúa Cha cách sâu xa, có lúc dừng lại trong thinh lặng trước mầu nhiệm Ðức Tin để chiêm ngắm sự cao cả của Bí Tích vô cùng cao quí với trọn con người và tình thương của Chúa Giêsu.

Cử hành Thánh Thể

Giáo hội công khai cách long trọng Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa, mầu nhiệm được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được tưởng nhớ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho hết mọi người, bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn.

Trên Bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh và Rượu lại có thể là Mình Máu Chúa Kitô được ?

Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích cần thiết để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, dẫn chúng ta trên đường về về với Chúa!

Giáo hội quả quyết rằng: Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta phải tôn thờ. Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.

Theo thánh Tôma Aquinô: Con độc nhất của Thiên Chúa muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, đã làm người. Để cứu chuộc chúng ta, Người đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.

Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là Máu Châu Báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và Rượu trở nên Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Người đối với chúng ta: “Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta” Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người” (Mc 14,22-24).

Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Người lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Người kết hợp chúng ta với Người, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy”. (Thánh Gioan Kim Khẩu)

Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: “Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Người đã sinh ra thì Người nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Người làm cho ta vững tin rằng Người đã mang lấy chính xác thân của ta”. Người tan biến trong chúng ta, “làm một với chúng ta, làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài” (Thánh Gioan Kim Khẩu).

Việc biến đổi Bánh và Rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa.

Rước kiệu Mình Thánh Chúa

Sau lễ này, Giáo hội kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ, tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà của Chúa, đường đời ta là đường của Chúa, xin Chúa hiện diện hằng ngày trong đời sống chúng ta! Có Chúa Giêsu là Bánh ban sự sống, Bánh của các thiên thần, Bánh của của kẻ hành hương cùng đi, chúng ta sẽ không cô đơn.

Khi đặt Mình Thánh vào Mặt nhật, dưới dạng mặt trời, ngụ ý rằng Chúa Giêsu là “Mặt Trời”: Ngài là ánh sáng của lòng ta (đó là ý nghĩa của từ “mặt nhật”)

Bình khói hương thơm nghi ngút vừa đi vừa xông, tượng trưng cho lời nguyện cầu của chúng ta tỏa bay lên trước tòa Chúa.

Các em bé rắc hoa trên đường nhắc lại cuộc rước Chúa Giêsu vào Thành Thánh, và những lời tụng ca của các em rất làm Chúa hài lòng.

Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người già và trẻ; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

16. Tình yêu tột cùng – Cố Lm Hồng Phúc

 

 

 

Ở trong nhà tiệc ly chiều hôm thứ năm thánh ấy, Chúa Giêsu đã cầm bánh và rượu lập nên phép Thánh Thể. Bánh đã trở nên mình Chúa, rượu đã trở nên máu Chúa. Thì cách đó độ 300 thước, trên sân đền thờ người Do-thái cũng giết con chiên lấy máu rẩy lên bàn thờ, họ dâng bánh thánh theo luật Môisen dạy. Ngài cũng làm một nghi lễ, nhưng mặc cho nghi lễ ấy một ý nghĩa sâu xa: Ngài vừa là Thầy cả vừa là của lễ hiến tế dâng lên Đức Chúa Cha, vừa là của nuôi linh hồn ta.

Trong bài đọc I, Kinh Thánh kể lại việc Môisen làm hy lễ giao hòa bằng cách lấy máu bò tơ tưới lên bàn thờ. Người xưa coi máu là sự sống, cấm đổ máu người ta là cấm hại mạng sống người vì mạng sống thuộc quyền của Chúa; người xưa lấy máu để tỏ tình đoàn kết giao hòa. Hai bộ lạc dễ tỏ tình đoàn kết thì cho hai vị thủ lãnh gặp nhau, lấy dao rạch máu ở tay, và đôi bên uống máu nhau. Bằng nghi thức ấy, họ cho rằng hai bên đã uống nguồn sống của nhau và đã trở nên anh em, đã giao hòa mãi mãi với nhau. Môisen đã làm nghi lễ ấy khi lấy máu bò tơ, đại diện cho toàn dân để tưới lên bàn thờ Thiên Chúa: giữa Thiên Chúa và dân đã có một cuộc giao hòa vĩnh viễn.

Khi lập nên phép Thánh Thể, Chúa Giêsu đã hoàn tất việc giao hòa giữa ta với Thiên Chúa. Máu thánh của Ngài chảy trong huyết quản của ta, làm cho ta giao hòa nơi Thiên Chúa, Ngài ở trong ta như ta ở trong Ngài. “Này là chén máu Ta, máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được khỏi tội”. “Nếu các con không ăn thịt và uống máu Ta thì các con không có sự sống đời đời”.

Thánh Thể là một cuộc giao hòa – Thánh Thể là một lễ tế.

Chúa Giêsu biết giờ sau hết của Ngài đã gần đến thì Ngài yêu thương ta đến tận cùng. Ngài đã làm gì? Ngài diễn tình yêu ấy ra trước cuộc tử nạn của Ngài sẽ xãy ra ngày mai; Ngài cầm bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán: “NÀY LÀ MÌNH TA”. Bánh ấy đã trở nên mình Ngài, mà ngày mai sẽ bị roi đòn đánh đập, bẻ gẫy như chiếc bánh hôm nay, đã hiến tế dâng lên Đức Chúa Cha và làm của ăn nuôi linh hồn ta. Hai việc ấy là hiến dâng và nuôi sống linh hồn ta, chính là một cuộc lễ hiến tế và Ngài muốn chúng ta phải làm đi làm lại: “Chúng con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.

Vậy phép Thánh Thể là cuộc giao hòa chúng ta với Chúa, là việc tế lễ ta với Chúa. Hôm nay mừng mầu nhiệm ấy, chúng ta hãy dâng tất cả để tôn vinh và cảm tạ Chúa, vì đã ban cho chúng ta phép Thánh Thể.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ