Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 47

Tổng truy cập: 1371383

LOAN BÁO

Loan báo.

Kinh nghiệm đời thường cho chúng ta thấy: mỗi khi nhận được một tin vui, chúng ta thường chạy đi nói cho người khác được biết, để cùng chia sẻ niềm vui ấy với chúng ta. Chẳng hạn như khi nhận được tin mình vừa mới thi đỗ, thế là lập tức, chúng ta vội chạy về nhà để loan báo cho những người thân yêu cùng biết. Cũng vậy, trong phạm vi đức tin, việc Chúa sống lại là một tin mừng. Một khi đã đón nhận tin mừng Phục sinh thì chúng ta cũng có bổn phận phải loan báo tin mừng ấy cho những người chung quanh.

Trước hết, đây chính là ý muốn của Chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại. Ý muốn này được Ngài nói lên qua những lần hiện ra.

Thực vậy, thiên thần đã nói với những người phụ nữ đi viếng mồ vào buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần rằng: Các bà đừng sợ chi cả, ta đã hiểu. Các bà tìm Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Nhưng Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại như lời Ngài đã phán. Hãy đến mà xem chỗ Ngài nằm. Vậy hãy về mau báo cho các môn đệ Ngài biết. Ngài đã sống lại, Ngài sẽ đến xứ Galilêa trước các ông. Nơi đây các ông sẽ xem thấy Ngài.

Rồi hôm nay, khi hiện ra với các môn đệ, Ngài cũng bảo: Có lời Kinh Thánh chép rằng Đấng Messia sẽ phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại. Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con sẽ làm chứng về những điều này.

Và sau cùng, trước khi về trời, Ngài cũng đã long trọng truyền cho các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều Thày đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Cũng trong Phúc âm, chúng ta thấy: những người đã được diễm phúc đón nhận Tin Mừng Phục sinh, đã mau mắn thực hiện lệnh truyền của Chúa, đó là loan báo Tin Mừng ấy cho người khác.

Thực vậy, những người phụ nữ đã trở về loan báo cho các môn đệ hay: Chúa đã sống lại. Hai môn đệ trên đường Emmaus cũng vậy, sau khi nhận ra Chúa lúc Ngài bẻ bánh, lập tức các ông đã chổi dậy, trở về Giêrusalem, và loan báo cho các môn đệ khác được hay: Chúa đã sống lại.

Và sau cùng, khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ đã lên đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho mọi dân mọi nước. Và các ông sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng ấy. Còn chúng ta thì sao? Chung ta đã làm được những gì để loan báo Tin Mừng Phục sinh cho những người chung quanh. Chúng ta đã làm được những gì để bản thân chúng ta trở thành chứng nhân cho tin mừng tuyệt vời ấy.

Hãy cầu nguyện cho mỗi người chúng ta, biết dùng lời nói và việc làm, nhất là đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để loan báo tin mừng Phục sinh và trở nên những chứng nhân sống động cho Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.

 

57. Didymo.

Thánh Tôma, còn được gọi là Didymo, đã không hiện diện với các tông đồ khác khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến. Vì thế, khi các tông đồ khác nói với các ông rằng họ đã thấy Chúa hiện ra với họ, thì ông không tin. Ong Tôma nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Thánh Tôma giống như những người đời nay vẫn thường nói: “Khi nào thấy, tôi mới tin”.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại hiện đến với các tông đồ một lần nữa ở Giêrusalem. Khi thấy Người, họ kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây”? Như vậy, Chúa Giêsu đang sống. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Người. Đức tin là lòng tin tưởng và phó thác. Chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã bị kết án tử hình và chịu đóng đinh nhưng ngày thứ ba Người đã sống lại từ cõi chết.

Lòng tin của tôi vào Chúa Giêsu đa bị thử thách nhiều lần trong suốt mười năm tôi làm linh mục, nhưng cơn thử thách nặng nhất xảy ra khi tôi đã là linh mục được bảy năm.

Tôi thụ phong linh mục năm 1993, tại Maasim, tỉnh Sarangani. Trong bài giảng của lễ truyền chức linh mục cho tôi, Đức giám mục Gutierrez nói với dân chúng rằng trong các lễ truyền chức do ngài chủ phong thì chỉ lễ này là có đông phụ nữ tham dự như vậy. Mọi người nghe thế thì cười ồ lên. Đức Giám mục nói tiếp: “Vậy, những ai không muốn nghi thức truyền chức này được tiếp tục, xin hãy tiến lên đây và cho tôi biết lý do”. Một lần nữa mọi người lại cười ồ lên.

Sau nghi thức truyền chức linh mục, nhiều người vỗ tay chúc mừng tôi, tặng quà cho tôi, hôn bàn tay của tôi. Nhưng tháng 6/ 2000, nghĩa là bảy năm sau ngày chịu chức linh mục, những tiếng vỗ tay đã mờ nhạt đi. Người ta cư xử với tôi rất lạnh nhạt như thể tôi là thứ muối đã mất vị man, mặc dù tôi vẫn sống tốt, làm nhiều điều tốt. Rồi tôi đã đánh mất lòng nhiệt thành ban đầu. Thậm chí, đôi khi tôi đã nghĩ đến chuyện rời bỏ chức vụ linh mục.

Tuy nhiên, sau một cuộc hồi tâm phản tỉnh sâu xa, tôi nhận ra rằng sứ vụ linh mục của tôi không nên dựa vào những tiếng vỗ tay của dân chúng, những lời ca tụng và khen ngợi của họ. Điều cần nhất là phải dựa trên đức tin, lòng phó thác, sự vâng phục và tình yêu của tôi vao Thiên Chúa. Tôi cũng nói điều này với bạn. Nếu bạn muốn phục vụ Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người thì bạn đừng làm vì những tiếng vỗ tay và những lời khen ngợi của dân chúng, nhưng hãy làm vì niềm tin và tình yêu của bạn đối với Chúa và chỉ vì bạn khao khát thực hiện thánh ý của Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy con biết tập trung vào một mình Chúa mà thôi.

 

58. Làm chứng

Việc Chúa sống lại không phải là một chuyện bịa đặt, một chuyện hoang đường, nhưng đây là một sự kiện lịch sử, vì có những chứng nhân bằng tai bằng mắt: lịch sử đã ghi lại việc Chúa chết thật và được tẩm liệm đàng hoàng, lịch sử đã ghi lại ngày Chúa Phục sinh, các thân hữu và cả những kẻ thù đã thấy mộ Chúa trống rỗng, lịch sử đã ghi lại sau khi Phục sinh, Chúa đã hiện ra nhiều lần.

Nếu muốn biết chắc chắn, rõ ràng những điều đó, chúng ta hãy mở sách Tin Mừng, đọc kỹ đoạn 28 của thánh Matthêu, đoạn 16 của thánh Marcô, đoạn 14 của thánh Luca và đoạn 20 của thánh Gioan. Tất cả bốn thánh sử này cùng quả quyết: Chúa đã chết trên thập giá, đã được tháo xác xuống tẩm liệm, đã được táng trong mộ và trước cửa mộ được che bằng một tảng đá lớn, rồi tất cả đều quả quyết: ngày thứ nhất trong tuần, tức là ngày Chúa nhật, Chúa đã sống lại.

Quả thực, Chúa Giêsu chết vào chiều Thứ Sáu, và ngày thứ bảy cuối tuần qua đi, rồi đen sáng sớm ngày đầu tuần lễ tiếp theo, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện ngôi mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong đó, ai cũng tưởng thi hài Chúa đã bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế, nhưng chính hôm ấy, Chúa đã đến gặp các ông khiến các ông sửng sốt và sợ hãi, không tin nổi là Chúa đã sống lại. Nhưng sự thực là như vậy, các ông đã nhìn thấy tận mắt và sờ tận tay than xác Phục sinh của Chúa, chẳng hạn như câu chuyện kể lại trong bài Tin Mừng.

Trong khi các môn đệ còn đang hoang mang, lo lắng, tụ họp nhau trong phòng đóng kín, bàn tán về những chuyện đã xảy ra và đang xảy ra xoay quanh van đề Chúa chết và hiện ra với các phụ nữ và bà Maria Mađalêna vào sáng sớm hôm nay, tức là sáng sớm Chúa nhật Phục sinh, thì Chúa Giêsu hiện ra, đứng giữa các ông và chúc bình an cho các ông. Các ông hoảng hốt, sợ hai, tưởng là ma. Cảnh Chúa hiện ra này không khác gì cảnh một thủ lãnh trước các đảng viên phản bội và đào ngũ, thế mà không một lời than phiền, không một lời trách móc, ngay cả một lời bóng gió ám chỉ sự hèn nhát của các ông cũng không nốt, Chúa vẫn chúc lành cho các ông. Hơn nữa, Chúa còn làm mọi cách để giúp các ông tin chắc là Ngài đã sống lại, Ngài đang ở giữa các ông, đó là ba bằng chứng sau:

Trước hết, Chúa thuyết phục các ông bằng cách cho các ông nhìn xem tay và chân Ngài còn mang vết đinh để các ông thấy đúng là Ngài đang đứng trước các ông chứ không phải ai khác, rồi Chúa còn bảo các ông sờ vào thân thể Ngài và nhìn cho kỹ để thấy rằng Ngài không phải là ma quái hiện hình hay là do ảo tưởng của các ông. Tiếp đến, Chúa đã đưa thêm bằng chứng để thuyết phục các ông. Ngài hỏi các ông có gì ăn không? Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng, Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mắt các ông. Với cử chỉ này, Ngài muốn họ tin chắc rằng: Ngài không phải là ma hiện hình. Sau cùng, Chúa thuyết phục các ông bằng một bằng chứng khác nữa, đó là lời Sách Thánh, Chúa nhắc lại cho các ông nhớ Sách Thánh đã báo trước: “Đức Kitô phải chịu đau khổ và chết nhục nhã, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại”. Thế nghĩa là những lời Sách Thánh đã nói đều ứng nghiệm nơi Ngài. Sau khi đã đưa ra tat cả những bằng chứng cần thiết chứng minh Ngài đã sống lại thật sự, Chúa bảo các ông hãy đi làm chứng về tất cả những điều ấy cho mọi người.

Như vậy, các tông đồ, các môn đệ đã có kinh nghiệm bản thân về cuộc đời cũng như về mầu nhiệm Phục sinh của Chúa, nên các ông là những chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về Chúa, nên Chúa bảo các ông hãy làm chứng về những điều ấy, tức là việc làm của Ngài đã hoàn tất, bây giờ đến lượt các ông phải nối gót Ngài hoàn thành công tác cứu chuộc nhân loại. Nhân loại cần được nghe biết và tin vào Chúa để đạt ơn cứu độ, các môn đệ phải làm chuyện đó và lịch sử đã cho thấy các ông đã thực thi vượt mức vai trò chứng nhân ấy.

Từ đó đến nay, luôn có những lớp chứng nhân mới, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng Chúa đã chết và sống lại. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta không tin Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta thì chúng ta không phải là Kitô hữu, và một khi chúng ta đã tin thì đồng thời chúng ta phải loan báo cho người khác niềm tin đó nữa, đó là mục đích và lý tưởng cuộc đời Kitô hữu của chúng ta.

Nói rõ hơn, chúng ta phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh than đức tin, tinh thần Tin Mừng vào trong cuộc sống qua những việc làm hàng ngày, qua nghề nghiệp, qua các giao tiếp với người khác, và qua cả những lúc vui chơi, giải trí. Nói tóm lại, chúng ta phải làm chứng cho Chúa, cho đao bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người, một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, chúng ta cần thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả. Xin mỗi người hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa và cho đạo không?

 

59. Đau khổ.

Chớ thì Đức Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồ mới được vinh quang. Đức Kitô đã đi con đường đau khổ để tiến tới vinh quang, đã đi con đường thập giá để tiến tới Phục sinh. Là môn đệ của Ngài, chúng ta cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường đau khổ và thập giá, nếu như chúng ta muốn được cứu độ.

Đúng thế, đã là người thì ai cũng phải đau khổ và thập giá không bao giờ thiếu vắng trong cuộc đời chúng ta. Người xưa đã nói:

- Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,

Đời có vui sao chẳng cười khì.

Giáo lý nhà Phật thì diễn tả thân phận con người như một cánh bèo trôi dạt trên bể khổ.

Vậy thì đâu là những nguyên nhân gây nên đau khổ?

Trước hết, đau khổ có thể là bởi thiên nhiên.

Chẳng hạn như lụt lội, bão táp, hạn hán, mất mùa… Bất kỳ ở đâu và bất kỳ thời buổi nào cũng có. Khoa học và kỹ thuật chỉ làm giảm đi phần nào, chứ không thể chặn đứng được tất cả.

Tiếp đến đau khổ có thể do lòng gian tham độc ác của con người.

Đau khổ có thể do bởi người khác, chẳng hạn như bỏ vạ cáo gian, ăn trộm ăn cắp mà gây nên. Đau khổ còn có thể do bởi chính bản thân mình, chẳng hạn vì đam mê cờ bạc, rượu chè chơi bời mà sinh ra nghèo túng bệnh tật, vì bất cẩn trong lời nói và trong việc làm mà sinh ra tai nạn.

Và sau cùng đau khổ cũng có thể do chính Thiên Chúa.

Sở dĩ như vậy vì Ngài muốn thử thách để con người chúng ta được trưởng thành và đem lại những lợi ích siêu nhiên, như tục ngữ cũng đã bảo:

- Lửa thử vàng, gian nan thử đức.

Hay như một câu danh ngôn đã bảo:

- Khi yêu thương ai chúng ta thường trao tặng họ những bông hồng, còn Thiên Chúa khi yêu thương ai, Ngài thường gửi đến cho họ những đau khổ và thử thách.

Đúng theo kiểu:

- Yêu cho roi cho vọt,

Ghét cho ngọt cho bùi.

Hẳn rằng trong chúng ta chẳng ai muốn cho mình bị đau khổ, chính Chúa Giêsu trong vườn cây dầu cũng đã cầu nguyện:

- Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con, nhưng không theo ý con, một theo ý Cha mà thôi.

Tuy nhiên nhiều khi chúng ta đã đề phòng cẩn thận mà vẫn không tránh khỏi tai ương. Trong những trường hợp như thế, chúng ta chỉ còn một cách, đó là cúi đầu chấp nhận. Nhưng làm thế nào để dễ dàng chấp nhận, để tìm được niềm an ủi trong những giờ phút đen tối ấy?

Trước hết hãy nhớ rằng không phải chỉ có một mình chúng ta bị đau khổ. Đang lúc chúng ta bị thử thách thì cũng có biết bao nhiêu người bị đau khổ.

Hãy vào một bệnh viện, giữa những tiếng rên la, chúng ta cảm thấy mình còn được hạnh phúc và may mắn hơn rất nhiều.

Nhất là hãy nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ thấy chính Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.

Khi phải đối mặt với những đau khổ, nếu chúng ta hậm hực tức tối, thì đau khổ vẫn phải chịu mà chẳng đem lại lợi ích chi cả, nó còn là nguyên nhân gây nên những tội lỗi khác nữa.

Trái lại, nếu chúng ta can đảm chấp nhận và nhất là chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, thì những đau khổ ấy sẽ đem lại lợi ích cho chúng ta. Biết đâu, nhờ những đau khổ mà chúng ta sẽ ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Thiên Chúa.

Đau khổ là một lưỡi kéo của người thợ, cắt tỉa những cành cây để nhờ đó chúng sẽ được sai trái hơn. Đau khổ là như một nhát búa của người nghệ sĩ đập xuống cuộc đời chúng ta để biến nó trở nên một tác phẩm nghệ thuật.

Đau khổ là như một lưỡi cày, xới tung tâm hồn chúng ta đe nó trở nên màu mỡ và dễ dàng hấp thụ ơn sủng của Thiên Chúa.

Đức Kitô đã đi con đường thập giá để tiến tới Phục sinh, thì chúng ta cũng vậy, muốn tiến tới vinh quang, chúng ta cũng phải tôi luyện trong đau khổ.

 

60. Làm chứng.

Chúa Giêsu chết vào chiều thứ sáu, rồi cả ngày thứ bảy cuối tuần qua đi yên tĩnh, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đến sớm ngày đầu tuần kế tiếp, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện mo của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong mộ. Ai cũng tưởng thi hài Ngài bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế. Nhưng liền sau đó và cả ngày hôm ấy, Ngài hiện ra với người này người kia và cả với các môn đệ. Tất cả đều được kinh nghiệm tay sờ, mắt thấy, tai nghe. Tất cả đều xác nhận: Chúa Giêsu đang sống.Cụ thể như câu truyện kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Dien tiến cảnh Chúa hiện ra này gồm có hai phần: Phần thứ nhất, Chúa dùng những hành động cụ thể để minh chứng Ngài đã sống lại thật sự. Phần thứ hai, Chúa trao cho các môn đệ một sứ mệnh mới: hãy làm chứng về việc Chúa Phục sinh cho mọi người. Về việc Chúa sống lại, chúng ta đã tìm hiểu nhiều lần rồi, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu phần thứ hai: các tông đồ đã thi hành sứ mệnh làm chứng cho Chúa Phục sinh thế nào? Làm chứng là gì?

Lam chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xảy ra, một sự kiện có thật mà chính mình đã thấy, đã trải qua. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.Hiểu như vậy, các tông đồ là nhưng chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về cuộc đời của Chúa Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa. Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Chúa Giêsu đều bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh. Phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chua có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.Sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu Thế… các tông đo đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và đã sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngai thường hiên ngang tuyên bố: “Chúng tôi xin làm chứng”. Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa: “Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe”.Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 tông đồ, lại có biết bao lớp tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, nhất là phép thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa. Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Anh chị em nghĩ sao về câu nói: “Tôi đã đọc Tin Mừng, cuốn sách hay quá. Đức Giêsu là một vị đáng khâm phục. Nhưng tôi sẽ không bao giờ trở nên người tín hữu của ông ta, vì nhiều người Công giáo tôi gặp, họ không thực hiện bác ái Đức Kitô, họ không tuân giữ những điều Ngài dạy, và họ chỉ mang danh là Công giáo chứ không phải là người Công giáo thực sự”. Chúng ta có vào số những người Công giáo đó không? Chúng ta có phải là một tông đồ, một chứng nhân cho Chúa không?

 

home Mục lục Lưu trữ