Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 44
Tổng truy cập: 1366155
LOAN BÁO LÒNG THƯƠNG XÓT
LOAN BÁO LÒNG THƯƠNG XÓT
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc đời thật vui khi con người sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp người ta sáng tạo ra muôn nghìn cách để làm vui lòng nhau. Mỗi nghĩa cử yêu thương sẽ mang lại cho đời muôn vàn nụ cười của sự mãn nguyện hạnh phúc.
Có một lần đến quán cơm Nghĩa Tình ăn cơm giá 5.000đ với thợ lao động. Tôi nhìn thấy trên khuôn mặt những người nghèo là một nụ cười hạnh phúc vì được ăn ngon và no. Vì ở đây cơm được bao no với cơm thịt, cơm cá thật phong phú. Đặc biệt ở đây còn có "Ngày thứ năm hạnh phúc". Trong ngày này tất cả các món như: phở, hủ tíu, bún bò, bún bò huế... cũng đồng giá là 1.000 đồng/1 tô và mọi người ăn bao nhiêu tùy thích.
Nếu tình cờ đi ngang qua các bệnh viện, các nơi có đông những công nhân nghèo chúng ta cũng thấy rộ lên niềm vui trên khuôn mặt những người nghèo khi nhận được những chén cháo tình thương, những bát cơm nhân ái...
Và như vậy, nếu xã hội có nhiều người thiện tâm làm việc thiện, luôn quảng đại dấn thân cho mọi hạng người cùng đinh là chúng ta đang làm cho xã hội vui lên, nhất là cho những phận người bất hạnh vui lên.
Phụng vụ Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng mời gọi chúng ta cùng vui lên. Vui lên vì Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Vui lên vì giờ hồng phúc đã đến với con người chúng ta. Và niềm vui này càng được nhân lên khi Gioan mời gọi mọi thành phần hãy làm điều gì đó tốt cho anh em. Gioan bảo đám đông dân chúng hãy làm cho xã hội vui lên qua việc thực thi bác ái một cách quảng đại với tha nhân: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy". Xã hội sẽ vui hơn nếu con người biết sống công bình với nhau. Cuộc đời sẽ vui hơn nếu người nghèo được quan tâm, được giúp đỡ. Xã hội sẽ hòa bình trật tự nếu mọi người biết tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của nhau thay cho những hà hiếp, áp bức làm đau lòng nhau...
Có ai đó nói rằng: cuộc sống vốn đầy khổ đau rồi, đừng chồng chất gánh nặng lên nhau. Hãy sống làm vui lòng nhau hơn là đầy đọa nhau. Không ai lại vui khi nhìn thấy người khác khóc. Tại sao chúng ta không đối xử nhân ái với nhau thay vì cứ nói xấu, hay tìm cách loại trừ nhau? Làm đau lòng nhau đâu khiến ta vui lên?
Thế nên, điều quan yếu là hãy làm vui lòng nhau để gây tiếng cười cho nhân thế. Hãy thực thi lòng nhân ái trong Năm Lòng Thương Xót. Hãy thể hiện tình yêu một cách cụ thể chia cơm cho người đói ăn. Hãy tạo tình liên đới khi mời một gia đình nghèo hay di dân cùng ăn cơm với ta. Hãy sống khoan dung khi tha nợ cho những người bất hạnh đang gặp rủi ro, tai nạn trong làm ăn. Hãy sống tình tha thứ thay cho những đố kỵ ghen tương. Hãy xây dựng hòa bình thay cho những xung đột, hiềm khích lẫn nhau...
Đó là cách chúng ta loan báo Lòng Thương Xót Chúa cho anh em. Đó chính là lời chứng hùng hồn cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa mà chúng ta đã được hấp thụ, uốn nắn lên người loan báo tình thương.
Xin cho đời sống của chúng ta luôn mang lại niềm vui cho nhân thế qua việc bác ái, phục vụ. Xin cho lời loan báo tình thương của chúng ta luôn đi đôi với việc làm để muôn dân sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, và cùng ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa. Amen.
62.Thắp sáng đức tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thời gian gần đây, mỗi ngày có hàng trăm cây nến được mang tới nhà thờ làm phép. Các cửa hàng bán nến xem ra “đắt như tôm tươi”. Vì người này rỉ tai người kia phải mua nến để chuẩn bị ngày “tận thế”. Người ta rỉ tai nhau “nếu không có nến được làm phép sẽ chịu cảnh tối tăm bao trùm trong ngày “tận thế”.
Có người còn xác định thật rõ ràng ngày định đoạt đó là ngày 21.12! Xem ra người ta rất sợ ngày đó. Đối với họ, đó không phải là ngày lành. Đó không phải là ngày họ chờ đợi mà là ngày họ không bao giờ muốn xảy đến trong cuộc đời của họ.
Theo niềm tin ky-tô giáo chúng ta vẫn xác tín sẽ có ngày “cánh chung” đối với con người và vũ trụ. Đó là ngày Chúa Ky-tô quang lâm để đưa vũ trụ tới thành toàn viên mãn. Nhưng đây không phải là ngày sợ hãi, mà là ngày tràn ngập niềm vui. Ngày mà muôn dân phải mong đợi. Vì trong ngày đó, Đức Ky-tô sẽ mang đến cho nhân trần niềm hạnh phúc viên mãn và trường cửu. Ngày đó con người sẽ không còn lo sợ chiến tranh, không còn lo âu vất vả, không còn những hỉ nộ ái ố. Ngày đó con người sẽ cùng nhau hát tiếng ca hoà bình. Ngày đó, Thiên Chúa sẽ thiết đãi các dân tộc một bữa tiệc hiệp nhất, một bữa tiệc tràn đầy hoan lạc và bình an.
Trong ngày cánh chung của vũ trụ và cũng là ngày Đức Ky-tô quang lâm lần thứ hai, Giáo hội vẫn nhắc nhở chúng ta phải luôn cầm nến sáng trên tay. Nhưng không phải là cây nến vật chất mau tan biến mà là cây nến tâm hồn chúng ta. Cây nến của đức tin luôn toả sáng giữa thế gian. Cây nến của cuộc đời luôn tràn ngập tình yêu với tha nhân.
Như Gioan đã đề nghị người Do Thái một cung cách sống để đón chờ Đấng Messia. Giáo hội cũng mượn lời Chúa hôm nay để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa hãy có thái độ sẵn sàng chờ đón Chúa. Đối với tín hữu hãy biết sống chia sẻ với nhau. Hãy sống đùm bọc nhau trong tình bác ái chân thành qua việc chia sẻ cơm ăn, áo mặc. Đối với người thu thuế và người giầu có hãy sống công bình bác ái. Đừng cho vay nặng lãi. Đừng chồng chất thêm gánh nặng cho dân bằng sưu cao thuế nặng. Hãy sống bằng một trái tim nhân ái biết xót thương kẻ bần cùng lầm than. Đối với quan quân hãy biết thương dân, đừng hà hiếp bóc lột, đừng sống theo kiểu tham quan vô nại, hãy sống theo chức vụ của mình là để bảo vệ và gìn giữ sự an ninh cho dân làng.
Năm xưa dân Do Thái, nghe lời Gioan ai nấy đều muốn thay đổi lối sống cho đẹp lòng Đấng Messia. Từng đoàn người đến sông Giordan. Trong đó có đủ mọi thành phần già trẻ, lớn bé. Quyền qúy cao sang và đói khổ bần hàn. Tất cả đều cúi mình sám hối. Tất cả đều muốn thay đổi lối sống. Sửa lại những quanh co gian trá của lòng người. Lấp đầy những hố sâu của ngăn cách bằng tình yêu chân thành. Và san bằng núi đồi kiêu căng bằng đời sống hoà hợp mến yêu. Một bầu khí thật vui tươi và an bình trải rộng khắp dòng sông Giordan. Một niềm hy vọng cho một thế giới không còn bất công, không còn hận thù chỉ còn có sự chia sẻ, cảm thông trong yêu thương chân thành. Một bầu khí hứa hẹn những ngày tháng thanh bình như lời tiên tri Isaia đã nói: “sói nằm chung với chiên con. Trẻ con thò tay vào hang rắn độc. Người ta sẽ lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cầy và nhân loại sẽ cùng nhau hát vang tiếng hát hoà bình”.
Thế nhưng, thế giới hôm qua cũng như hôm nay vẫn còn đó những bất công và hận thù, những chia rẽ, dối gian vì con người vẫn chưa dám sống theo niềm tin của mình. Họ tin Chúa, tin đạo nhưng không thực hành đạo. Đức tin của con người chỉ dừng lại nơi đầu môi chóp lưỡi nhưng không mang ra thực hành giữa cuộc đời. Đức tin của con người hôm nay đôi khi chỉ thể hiện trong nhà thờ nhưng không dám thể hiện trong thánh lễ cuộc đời.
Ước gì năm đức tin sẽ là dịp để chúng ta thể hiện đức tin của mình bằng hành động. Đức tin không dừng lại ở lời tuyên xưng nhưng thể hiện bằng cả đời sống tin cậy mến giữa cuộc đời. Ước gì ánh nến đức tin của chúng ta luôn sáng ngời, luôn được thắp sáng giữa thế gian còn đầy bóng tối của nghi nan, bóng tối của bất công và chia rẽ. Và ước gì chúng ta luôn là ngọn nến thắp sáng cho trần gian ánh sáng của tin yêu và hy vọng. Amen.
63.Suy niệm của McCarthy.
Suy Niệm 1. VĨ ĐẠI CỦA GIOAN TẨY GIẢ
Ngày kia, có một người thắp đèn kỳ lạ, tên là ông T. Ông là một người hoàn toàn đáng tin cậy và chính xác như một cái đồng hồ. Mỗi tối, khi trời vừa chập tối, thì các ngọn đèn dầu luôn luôn được thắp sáng lên. Bằng cách nào mà ông đoán biết được giờ giấc mà không một ai biết được, bởi vì ông không hề có đồng hồ.
Người ta thường nhìn ra cửa sổ đằng trước, khi ông đi lên đi xuống trên đường, để lại một vệt ánh sáng phía sau ông. Đối với tất cả mọi người, rõ ràng ông yêu mến công việc của mình. Ông sống chỉ vì một việc duy nhất: đốt lên những ngọn đèn. Cuộc sống của ông không phải là một cuộc sống dễ dàng, nhưng sáng rực một ý nghĩa.
Tất cả mọi người đều yêu quý ông, đặc biệt là các trẻ nhỏ. Khi bóng tối đến đe dọa kết thúc những trò chơi trên đường phố của chúng, thì ông T. đến, cùng với ngọn đèn, và chúng lại được tiếp tục chơi.
Điều gì làm cho ông T. trở nên lạ lùng đến thế? Rốt cuộc, có nhiều người yêu mến công việc của mình, và làm một cách trung thành. Tính cách vĩ đại của ông T. hệ tại ở sự kiện rằng ông bị mù lòa. Con người quá trung thành trong việc đem ánh sáng đến cho những người khác, nhưng lại không bao giờ nhìn thấy bản thân mình.
Cuối cùng, khi có đèn điện, và hiện nay, theo năm tháng, ông T. đã già yếu rồi, thì ông trở nên một người thừa. Cuộc sống của ông đột nhiên bị mất đi ý nghĩa. Ông cảm thấy mình vô dụng và không còn ai mong mỏi nữa. Thật đáng buồn. Những người đã từng quý mến ông, thì nay đã quên lãng ông. Ánh sáng mới vượt xa ánh sáng cũ quá nhiều, đến nỗi không còn ai tiếc nuối ánh sáng cũ nữa.
Ông T. nhắc nhở chúng ta về thánh Gioan Tẩy Giả. Tương tự như ông T., thánh Gioan Tẩy Giả đã làm việc cần cù, để mang đến cho mọi người ánh sáng của bản thân ngài. Ngài đã một nhân vật nổi tiếng, thống trị cả một vùng. Nhưng ngài luôn ý thức rằng có một ánh sáng vĩ đại hơn sắp đến, một ánh sáng mà bản thân ngài không được tiền định để đi vào. Khi ánh sáng đó xuất hiện qua con người của Đức Giêsu, thì ngài đứng sang một bên, để dọn đường cho Đức Giêsu. Đó là một tính cách vĩ đại.
Không một người nào đến, để làm nổi bật hoặc đạt được sự nổi tiếng cho bản thân mình. Bạn sẽ luôn luôn nhận thấy rằng ở sau hậu trường, có một người tạo điều kiện thuận lợi. Công việc của người đó là giúp đỡ, hướng dẫn và khích lệ bạn. Nói cách khác, để chuẩn bị đường cho bạn. Khi bạn đạt được sự nổi tiếng thì không ai nhìn đến người dọn đường nữa, và thường bị rơi vào quên lãng.
Để dọn đường, hoặc thậm chí chỉ để dọn phòng cho người khác, thì đòi hỏi phải có tinh thần khiêm tốn và quảng đại. Thật vậy, công việc này đòi hỏi một kiểu chết đi về bản thân mình. Khi rút lui khỏi một chức vụ cao, là chết đi một chút, thậm chí lại còn hơn cả một chút nữa. Một số người làm hư việc, khi nắm quyền lực trong một thời gian quá lâu dài.
Các bậc cha mẹ luôn dành ra những năm tháng tốt đẹp nhất cuộc đời mình, để chuẩn bị đường cho những đứa con của họ, theo ý nghĩa là mở lối cho chúng đi vào cuộc đời. Nhưng đến một thời điểm nào đó, cha mẹ phải rút lui, để con cái họ có thể tự đi trên đôi chân của chúng. Một khi đã đem cuộc sống đến cho con cái, thì cha mẹ cũng phải cho phép chúng được sống cuộc sống đó.
Tất cả chúng ta đều có khuynh hướng thích được nổi tiếng. Có lẽ một cách đầy bất ngờ, chúng ta thường thống trị người khác, và loại bỏ họ vào bóng tối. Chúng ta phải cố gắng chiếu tỏa hết khả năng của mình ra, trong khi vẫn phải cẩn thận, để không ngăn cản đường đi của người khác. Và chúng ta cũng phải ý thức về món nợ đối với người khác, đó là những người đã chuẩn bị đường cho chúng ta.
Suy Niệm 2. BÍ QUYẾT CỦA HẠNH PHÚC
Một trong những chủ đề của các bài đọc hôm nay là chủ đề về hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều mong muốn có hạnh phúc. Nhưng bí quyết của hạnh phúc là gì?
Lần kia, có một người chăn chiên gửi con trai của ông đến với một người khôn ngoan, để học hỏi bí quyết của hạnh phúc. Khi tới tòa lâu đài đẹp đẽ, nơi sinh sống của con người khôn ngoan đó, người con trai đó nói với ông ta rằng anh mong muốn được biết về bí quyết của hạnh phúc. Tuy nhiên, thay vì giải nghĩa cho anh về bí quyết này, con người khôn ngoan đó lại đưa cho anh một cái muỗng chứa đầy dầu, nói rằng: “Con hãy nhìn khắp chung quanh tòa lâu đài. Trong đi vòng quanh, con hãy mang theo cái muỗng này, mà không được làm chảy dầu ra”.
Anh thanh niên bắt đầu đi vòng quanh tòa lâu đài. Trong khi đi, anh liên tục nhìn vào cái muỗng. Sau hai giờ, anh trở lại căn phòng, nơi có nhân vật khôn ngoan đó.
Người khôn ngoan hỏi “Tốt, thế con nhìn thấy cái gì?”.
Anh thanh niên tỏ ra bối rối, và thú nhận rằng anh không hề nhìn thấy gì cả. Mối quan tâm duy nhất của anh là không làm chảy dầu ra, theo như người khôn ngoan đã tin tưởng vào anh. Người khôn ngoan nói: “Vậy thì con hãy đi trở lại, và quan sát những quang cảnh tuyệt vời trong thế giới của ta. Con không thể tin tưởng vào một người nào, nếu con không biết gì về ngôi nhà của người đó”.
Trong tâm trạng khuây khỏa, anh thanh niên cầm lấy cái muỗng, và trở lại với công việc đi khám phá tòa lâu đài, lần này, anh quan sát tất cả những đồ đạc đẹp đẽ và những tác phẩm nghệ thuật trang trí các căn phòng của tòa lâu đài. Sau đó, anh thăm viếng khu vườn, với vòi nước nguy nga, những bông hoa và những bụi cây xinh đẹp, thưởng thức thị hiếu thẩm mỹ mà tất cả mọi đồ vật được bố trí theo đó. Khi trở về với nhân vật khôn ngoan, anh tường thuật lại từng chi tiết mọi thứ anh đã nhìn thấy.
Người khôn ngoan hỏi: “Nhưng những giọt dầu mà ta đã tin tưởng giao phó cho con đâu rồi?”. Anh thanh niên nhìn xuống cái muỗng, và nhận thấy không còn chút dầu nào cả.
Người khôn ngoan nói “À, ta chỉ có thể cho con một lời khuyên mà thôi: Bí quyết của hạnh phúc hệ tại ở khả năng nhìn thấy tất cả những điều tuyệt vời của thế giới, không bao giờ quên lãng những giọt dầu trong cái muỗng”.
Ngay tức khắc, anh thanh niên hiểu được điều mà nhân vật khôn ngoan đang nói. Người chăn chiên có thể ưa thích đi đây đi đó, nhưng người đó không bao giờ được quên đàn chiên của mình. Bí quyết của hạnh phúc bao gồm sự trung thành với những lời cam kết của mình và có tinh thần trách nhiệm, trong khi đồng thời vẫn thưởng thức được hương vị cuộc sống. Thật dễ dàng có hạnh phúc, khi chúng ta đang làm công việc mà mình mong muốn. Nhưng để tìm thấy hạnh phúc trong những công việc mà chúng ta phải làm, chứ không đơn giản là trong công việc mà chúng ta muốn làm, thì đây là một ân sủng của Thiên Chúa.
Hạnh phúc không phải là một cảm giác tự mãn nông cạn. Chúng ta không thể có hạnh phúc, nếu những công việc chúng ta làm đều khác hẳn so với những điều chúng ta tin tưởng. Và không thể có hạnh phúc, mà không có tình yêu. Khi chúng ta khước từ tình yêu, thì một cảm giác buồn phiền sẽ thấm nhập vào tâm hồn chúng ta.
Chúng ta cũng không được đánh giá sự vui mừng và lạc thú ngang hàng với nhau. Lạc thú thuộc về cơ thể, còn sự vui mừng thuộc về tinh thần. Bạn có thể nhanh chóng ngán ngẩm lạc thú, nhưng bạn không bao giờ chán ngán niềm vui.
Cuối cùng, chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng được trọn vẹn những giấc mơ của chúng ta. Sự hiện diện của Thiên Chúa chính là nguyên nhân đưa đến niềm vui cho chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói với dân chúng “Anh em hãy vui mừng lên”. Nguyên nhân của niềm vui đó là gì? Bởi vì “Thiên Chúa đang ở giữa anh em”. Và thánh Phaolô cũng nói với dân thành Philipphê: “Tôi mong muốn cho anh em được hạnh phúc”. Tại sao vậy? Bởi vì “Chúa rất gần rồi”. Niềm vui mà thế gian này không thể nào mang lại được, chính là niềm vui phát xuất từ ý nghĩ về Thiên Chúa và tình yêu của Người đối với chúng ta.
64."Làm" - Lm. Vũ Xuân Hạnh
Làm! Một động từ rất ngắn gọn: chỉ có một tiếng, nhưng lại là một con đường dài, khởi đi từ suy nghĩ đến cái miệng hoặc cái tai rồi mới đến bàn tay. Làm! Một động từ mà bản thân nó chẳng nói lên điều gì tốt hay xấu. Nhưng khi nó trượt hết con đường dài đến được bàn tay, thì kết quả của nó có thể là hoa trái của tình yêu, nhưng cũng có thể gây ra không biết bao nhiêu hận thù, chết chóc. Làm! Đơn giản là thế, nhưng cũng phức tạp không ít. Vì chỉ một hành vi nào đó, có khi thể hiện ra bên ngoài là một nghĩa cử rất yêu thương, lại ẩn chứa bên trong nó là một thái độ mua chuộc, mưu lợi, tệ hơn: trả thù. Có khi nó là một sự che đậy giả tâm của một ai đó.
Những năm qua, khi mà nhân loại còn đang bắt đầu thời gian khai mạc ngàn năm thứ ba, cứ tưởng rằng, với mọi nỗ lực đi đến hòa bình của bao nhiêu tâm hồn thiện chí, sẽ mang lại bình an cho thế giới. Nào ngờ, hòa bình trên thế giới vẫn bị đe dọa và thách thức từng ngày.
Tại Đất Thánh, quê hương của Chúa Giêsu, người ta đổ máu nhau gần như mỗi ngày. Sự thù hận làm cho người ta trở nên những kẻ điên cuồng. Hết đánh bom cảm tử đến càn quét, cày xới nhà cửa, đất đai của nhau. Năm 2003, cũng tại Đất Thánh, người ta dựng lên bức tường ngăn cách. Nếu phải gọi tên cho bức tường này, có lẽ phải gọi nó là sự thất bại của con người cho một mơ ước rất đơn giản: hòa bình! Đơn giản là thế, vậy mà bao nhiêu năm rồi vẫn cứ giằn co, máu vẫn cứ thay nhau mà đổ, mà chảy, đỏ thắm cả niềm đau.
Tại Iraq, những cuộc đánh bom giết người, tàn phá tài sản liên tục xảy ra, mặc cho thế giới lên án, căm phẫn, mặc cho những bên có liên quan, những người trong cuộc, các nhà lãnh đạo và tất cả những ai yêu hòa bình lo sợ. Đã nhiều năm nay, nguy cơ vũ trang nguyên tử Bắc Triều Tiên vẫn chưa có lối mở nào giải quyết khả dĩ. Người ta vẫn chưa quên được sự xách động của thế giới Hồi giáo làm ồn ào và gây nhiều nguy hiểm cho nền hòa bình thế giới khi hô hào chống lại lời phát biểu của Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI…
Đó mới chỉ là những con sự kiện nổi cộm. Nếu ước tính những vụ khủng bố và bạo động trong một năm qua hay xa hơn nữa, chắc không ai dám nghĩ tới, vì nó sẽ làm ta rùng mình khiếp sợ. Thật là trái ngược, trái ngược đến mức mâu thuẫn hoàn toàn, vì tận trong tâm, ai cũng yêu hòa bình, ai cũng muốn sống niềm vui và hạnh phúc. Nhưng tại sao khi hành động, thì việc làm của con người lại có quá nhiều nguy hiểm, đe dọa và giết chóc. Lòng người sao tàn nhẫn đến thế!
Người ta nhân danh sự lớn mạnh, sự giàu có của quốc gia mình để trút bao nhiêu bom đạn và huênh hoan rằng, sẽ dẹp yên bạo động, trừ vạ khủng bố. Không biết người ta đã trừ, đã dẹp đến đâu, đạt được những thành quả nào, chỉ biết rằng, hôm nay nhân loại vẫn đang mất bình an, thế giới càng đầy dẫy hận thù, nguy cơ của những cái chết tập thể không ai lường hết được.
Con người dường như không ngăn nổi sự điên cuồng của bản thân, hay cũng đã trở nên điên cuồng. Tất cả những điều đó đều gói trong một động từ duy nhất: LÀM. Và sử dụng động từ làm như thế, đã biến con người ta thành những kẻ say máu đến độ thèm khát giết chóc, lao mình vào giết chóc. Những kẻ đánh bom cảm tử là một điển hình.
Cũng cùng một động từ làm, nhưng đối với thánh Gioan Tẩy Giả, nó lại quásức thân thương, đáng yêu và đáng học đòi. Thánh Gioan đề nghị mọi người động từ LÀM, mà nếu ai sống như thế, chẳng những bản thân bình an, cuộc sống của mọi người xung quanh cũng sẽ hưởng bình an lớn lao.
Đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, ta sẽ cảm nhận tất cả tình cảm đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng của động từ làm mà thánh Gioan đề nghị: Dân chúng hỏi thánh Gioan, “Chúng tôi phải LÀM gì?” Thánh Gioan trả lời cho họ biết phải làm gì bằng những việc làm thật cụ thể, thật gần gũi, dính kết ngay trong bổn phận của mỗi một người. Và tùy từng đấng bậc, nhiệm vụ mà thánh Gioan dạy họ làm:
Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.
Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.
Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.
Nếu ở thời đại chúng ta, chắc chắn thánh Gioan cũng không đề nghị một cái gì khác hơn, nhưng vẫn chỉ là một động từ làm kết dính vào bổn phận của từng người, của chính bạn và chính tôi.
Điều cần chú ý ở đây là những gì thánh Gioan nói cũng chính là những gì Chúa Giêsu dạy. Trong Tin Mừng, động từ LÀM được nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần. Chẳng hạn trước câu hỏi của người thanh niên giàu có: “Tôi phải làm gì để sống đời đời”, Chúa dạy: “Ngươi hãy bán tất cả của cải và phân phát cho người nghèo, rồi đi theo Ta”. Như vậy, điều cần làm ở đây, đó là sự trút bỏ để nên nghèo khó, là lòng bác ái với anh chị em nghèo.
Hay ở nơi khác, Chúa dạy người luật sĩ bằng dụ ngôn về người Samari tốt bụng, giúp đỡ người bị nạn trên đường đi. Và Chúa kết luận: “Anh hãy đi và LÀM như vậy” (Lc 6, 46). “Làm như vậy”, nghĩa là nếu người Samari trong dụ ngôn tốt bụng thế nào, thì người luật sĩ và cả chúng ta cũng hãy tốt bụng như thế. “Làm như vậy” còn là cúi xuống để nâng dậy những anh chị em khốn cùng, bất hạnh, đói rét… “Làm như vậy”, nghĩa là chấp nhận xóa mình, chấp nhận hao mòn sức lực, thời giờ, để hiến thân như chính Chúa đã hiến thân cho ta.
Dẫu biết rằng con đường dài nhất là con đường đi từ nói hoặc nghe đến làm. Đó là một con đường khó đi. Nhưng khó không có nghĩa là không thể thực hiện được. Chỉ cần chúng ta học lấy mỗi ngày một chút, chú ý thêm mỗi ngày một chút, chắc chắn không có gì khó đến mức không thể làm được. Đó là chưa kể tới ơn Chúa trợ giúp. Với ơn Chúa, chúng ta vững tin rằng, lòng mình sẽ được biến đổi để trở nên mềm mại hơn, đáng yêu hơn và dễ đến với anh em hơn. Bởi vậy động từ làm mà hôm nay thánh Gioan đề nghị sẽ là một từ ngữ đẹp hơn hết mọi thứ mà ta có thể cho là đẹp.
Chúng ta nói tới những việc làm gây chấn động thế giới bằng sự giết người tàn bạo. Nhưng cụ thể nơi tâm hồn mỗi người thì sao? Có lẽ bạn và tôi không ai dám nghĩ tới việc hãm hại anh chị em quanh mình, nhưng cách này cách khác, bằng sự đố kỵ, bằng thái độ chấp nhất, không tha thứ, không bao dung, nói không tốt về người khác, hoặc có khi trả đũa một người nào, không phải bằng giết người, nhưng bằng một hành động, một việc làm nào đó..., ta đã không LÀM tốt, không LÀM như Tin Mừng dạy. Vì thế, nhiều lần bản thân mỗi người đã xúc phạm đến anh chị em, gây đổ vỡ trong tình yêu, trong những mối tương thân tương ái, và làm mất bình an trong lòng người khác, nặng hơn: đào sâu thêm mối oán hận, thù nghịch nào đó…
Không biết có phải bi quan quá không, khi nói rằng: Nếu đi từ suy nghĩ đến hành động đã khó, thì từ suy nghĩ đến suy nghĩ đúng, lan rộng tới hành động: làm đúng, lại càng khó. Bởi thế, đứng trước mọi hiểm họa do lòng người độc ác đã tàn nhẫn gây nên, người Kitô hữu được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy sống những gì Tin Mừng dạy và làm những gì hợp Thánh ý Thiên Chúa để thế giới hòa thuận hơn, cuộc sống con người bình an hơn. Khi môi trường xung quanh có bình an, mỗi người cũng sẽ tràn ngập bình an.
65.Vui lên anh em.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Gần đến lễ Giáng Sinh, người ta thấy hình ảnh ông già Noel đủ cỡ xuất hiện khắp nơi. Các em thắc mắc không biết ông già Noel là ai? Và có thật không?
Tháng 9 năm 1987, một bé gái tên là Virginia đã viết cho một tờ báo Công giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không?
Vài ngày sau, trên mục quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau: “Virginia yêu dấu của bác. Điều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu đã bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.
Virginia ạ! Ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại, nhờ đó cuộc sống của cháu sẽ trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào?...”.
Được biết ông già Noel là một nhân vật lịch sử có thật. Người Pháp gọi là Cha Noel (Le père Noel). Người Anh gọi trực tiếp là Thánh Nicola (Santa Claus). Thánh Giám mục Nicola nầy được mừng lễ ngày 6/12 mỗi năm, trước lễ Giáng Sinh gần 20 ngày. Người Pháp thân mật gọi ngài là Cha Noel, vì ngài liên hệ nhiều với lễ Noel, nhất là với trẻ em. Các em mộ mến ngài như một ông già Noel. Các em được kể rằng nếu chúng ngoan, ông già Noel sẽ chui vào lò sưởi, vào phòng của chúng, bỏ bánh kẹo vào những chiếc giày các em để ở bên lò sưởi hay bỏ vào những chiếc vớ các em treo ở chân giường…
Ông già Noel sẽ tiếp tục làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc. Cũng vậy, lời Chúa của Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay mời gọi chúng ta hãy vui lên. Không phải vui vì có ông già Noel, vì quà tặng, vì những thiệp chúc mừng, vì đèn sao, máng cỏ… Những niềm vui hời hợt bên ngoài ấy sẽ qua mau nhưng niềm vui đích thực sẽ còn mãi, cả trong lúc lo âu, thất bại. Niềm vui đó bén rễ sâu trong lời cầu nguyện và đó là dấu chỉ của người Kitô hữu.
“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa!”
Qua bài đọc thứ nhất, Tiên tri Sôphônia cất lên những tiếng kêu đầy lạc quan: “Hỡi Israel, hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nhảy mừng. Chúa đã rút lại lời kết án. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi sẽ không còn sợ tai hoạ nữa”.
Thưa anh chị em,
Lời đó có an ủi được chúng ta hay không, khi mỗi ngày tai chúng ta nghe sang sảng từ trong đài phát thanh những tin tức bi đát của một thế giới đang còn nhiều điểm nóng chiến tranh, còn những cuộc tranh chấp vì bất công, vì đói khổ; khi mắt chúng ta còn thấy nhan nhản những chiếc khăn sô chít trên đầu, những đàn con mất cha mất mẹ; còn chứng kiến biết bao bệnh nhân trong các bệnh viện rên la đau đớn…
Khi nghe, khi nhìn các điều đó, có phải chúng ta là người ngoài cuộc không? Chúng ta thấy hoà bình và hạnh phúc trộn lẫn những mối nguy đang đe doạ chúng ta. Trong thực tế, chúng ta vẫn lo lắng và đau khổ, mà chính những cơn bão táp trong lòng, những cái mâu thuẫn giữa con tim, giữa lý trí, làm chúng ta xao xuyến băn khoăn. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm điều đó trong bản thân và ngài đã thốt ra những lời chân thành của một con người chân đạp đất: “Sự lành tôi muốn thì tôi không làm; còn sự không muốn thì tôi lại làm”.
Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể mỉm cười trong đau khổ và vui tươi trong thử thách, khi chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện trong đau khổ của chúng ta. Niềm xác tín này làm nảy sinh và gia tăng niềm hy vọng hân hoan. Nhưng làm sao để nhận thấy “Đấng đang đến” gần kề? Làm thế nào để nhận ra “Đấng đang ở giữa ngươi?” Gioan Tẩy Giả đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho những người hỏi ông: “Chúng ta phải làm gì?” – “Ai có hai áo thì hãy chia cho người không có. Ai có cái ăn thì cũng làm như vậy” – “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định” – “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”. Nói chung, Gioan đưa ra những hướng đi cụ thể: bác ái, chia sẻ, chấp nhận thực tại, sống hiền hoà, công bình, chính trực trong các mối tương quan xã hội. Sống như vậy là chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế, là đặt mình vào trong hàng ngũ những kẻ bé mọn của Thiên Chúa. Chính những người bé mọn này mới cảm thấy vui mừng và hy vọng, vì nhận ra Chúa sắp đến, đang đến… Ngài sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới và xã hội.
Chính vì thế mà trong Mùa Vọng, Chúa Nhật III bao giờ cũng nổi bật nét hân hoan: “Anh em hãy vui lên!”. Hãy hoan hỉ vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang quy tụ muôn nước thành một dân một nước: Dân Chúa, Nước Trời. Không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ, nhỏ nhen, bất chính; bằng cách sống liên đới yêu thương, chia cơm sẻ áo; bằng cách sống công bình, chính trực và chan hoà với mọi người.
Anh chị em thân mến,
Có phải là điều viễn vông không, khi chúng ta nhắc lại lời mời gọi của Phụng vụ: “Anh em hãy vui lên!”. Vui làm sao được khi đông đảo dân chúng đang nghèo đói, đau khổ? Phải chăng là để nhạo cười những người này mà Giáo Hội cứ lập lại những lời cũ rích, không gắn liền với cuộc sống thực tế lúc này? Bởi vì, hơn bao giờ hết, vấn đề cơm áo, phát triển, quyền con người đang là những vấn đề nóng bỏng trên hành tinh này cũng như trong xã hội hiện tại của chúng ta.
Lời Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước đều cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng của những kẻ tin, đâu là lý do hân hoan của những người bé nhỏ của Thiên Chúa: Thiên Chúa Cứu Độ, đó là tất cả động lực của cuộc sống và cuộc chiến đầu của người tin theo Chúa Kitô. Thiên Chúa nhập thể và cứu độ là căn bản để giải quyết mọi vấn đề: Thiên Chúa nhập thể để chúng ta được sống như con cái, nghĩa là, như những con người tự do và trách nhiệm, những con người tự nguyện cống hiến cho anh em, cho xã hội. Vì vậy, trong bất cứ một hoàn cảnh bế tắc khó khăn nào, người có lòng tin rằng mọi phấn đấu của mình và của loài người đều mang một ý nghĩa cứu độ: ý nghĩa dọn đường cho Nước Trời, cho Đức Giêsu của Thiên Chúa ngự đến.
Muốn hoà mình vào niềm vui của Phụng vụ, người Kitô hữu và Giáo Hội không thể không liên đới với những người đang khao khát đổi mới, đang khát vọng phẩm giá con người. Hơn thế nữa, Giáo Hội Chúa Kitô không thể đứng ngoài những cuộc đấu tranh cho hoà bình, bình đẳng, tôn trọng con người, phát triển xã hội mà loài người đang theo đuổi. Sống Mùa Vọng là sống liên đới với người nghèo, là sống công bình với tha nhân, là sống hoà giải với hết mọi người, là sống yêu thương, an bình trong mọi hoàn cảnh, là đấu tranh cho tình huynh đệ và khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa.
Vui lên anh em! Hãy vui lên trong niềm vui của Chúa!
66.Hạnh phúc trong việc bác ái
(Suy niệm của Lm Hà Ngọc Đoài)
Suy Niệm: "Sau khi nghe Gioan giảng, dân chúng hỏi ông rằng: Vậy chúng tôi phải làm gì? Ông trả lời: Ai có hai áo hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậỵ"(Lk 33:10-11) Chuyện kể rằng thánh Martin of Tours xưa là một viên sĩ quan thuộc quân đội Pháp. Một hôm, sau chuyến công tác mệt mỏi trở về, ông gặp một người ăn mày ngồi xin ở cổng thành. Hôm đó trời lạnh làm cho vạn vật co ro, lòng người tê tái, nhìn người ăn mày run rẩy xin bố thí, ông động lòng thương. Vì không có tiền trong túi, ông liền nhảy xuống khỏi lưng ngựa, lấy dao cắt áo choàng của ông làm hai phần và trao cho người ăn mày một nửa. Đêm hôm đó, trong giấc ngủ ngon ông thấy Chúa Giêsu mặc miếng áo choàng mà ông cho người ăn mày nghèo khổ hôm qua. Chúa Giêsu rất vui vẻ giữa các thiên thần đang ca hát. Có một thiên thần hỏi Chúa Giêsu là tại sao Ngài mặc miếng áo bẩn như vậy. Chúa Giêsu khoe là đêm qua tôi tớ của Ngài là Martin, sau khi đi công tác mệt mỏi trở về, quần áo lẫm bụi đường, mà vẫn không làm ngơ trước những đau khổ của những người bất hạnh, nghèo đói. Để thử lòng Martin, thì chính Chúa Giêsu đã cải dạng người ăn mày xin ở vệ đường. Chúa Giêsu khen ngợi Martin là tôi tớ trung thành của Ngài đã sống đúng tinh thần bác ái Kitô hữu.
Có nhiều quan niệm thật sai lầm trong cuộc sống! Người thì nghĩ rằng chỉ có quyền hành, danh vọng, của cải trần thế đem lại hạnh phúc. Kẻ khác cho rằng phải làm những việc to lớn mới xứng đáng là làm việc thiện. Nhưng tâm tình của Kitô hữu thì khác. Vì có Chúa sống trong họ nên họ rất hạnh phúc. Bất cứ việc gì, dù nhỏ, dù to đều đem cho họ niềm vui vì họ làm với Chúa. Điều này được tiên tri Isaiah loan báo từ xưa: "Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Đấng Thánh của Israel thật cao cả."(Is 12:6) Là Kitô hữu, chúng ta sống trong hạnh phúc, vì Chúa hiểu lòng ta. Mọi cử chỉ, lời nói to nhỏ đều có gía trị trước tôn nhan Chúa.
Thực Hành: "Anh Chị Em thân mến, hãy vui lên trong Chúa."(Phil 4:4) Lạy Chúa xin dạy con biết an vui và biết sống trước tôn nhan Chúa. Xin soi sáng cho con biết rằng khi cho đi là lúc con nhận được hạnh phúc trong tâm hồn. Chúa là nguồn hạnh phúc thật của đời con.
67.Vui luôn trong Chúa! - Lm. Phạm Quốc Hưng
Trong niên lịch Phụng Vụ của Hội Thánh, Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Vui Mừng” hay “Chúa Nhật hồng trong mùa áo tím.” Màu hồng được dùng trong Phụng Vụ để diễn tả niềm vui đang dâng tràn nơi tâm hồn của những người mừng đón Chúa. Vì vậy, thật thích hợp để chúng ta suy nghĩ về niềm vui trong cuộc sống đức tin.
Hồi còn là chủng sinh, một anh bạn cùng lớp với tôi mỗi khi gặp các linh mục thường hay hỏi các ngài: “Điều gì trong đời sống linh mục làm cha vui nhất?” Tôi thấy câu hỏi này thật ý nghĩa, vì nó giúp anh em chủng sinh chúng tôi hiểu biết hơn về ơn gọi linh mục mà mình đang theo đuổi. Nếu đời sống linh mục không có gì làm cho mình vui thì làm sao mình có thể trung tín và thăng tiến trong ơn gọi linh mục được?
Câu hỏi trên cũng có thể áp dụng cho mọi người: “Điều gì trong cuộc sống hiện nay làm bạn vui nhất?” Hay nói khác đi: “Điều gì đem lại niềm vui lớn nhất cho bạn?” Thành thật trả lời cho câu hỏi này sẽ cho chúng ta biết mình là ai?
Trong đời sống con người, bất cứ ai cũng ước mong có được niềm vui. Ai cũng ham vui! Ai cũng kiếm tìm niềm vui! Thật vậy, chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về những niềm vui và có thể nhận ra những niềm vui khác nhau:
Trong chiều kích tự nhiên, trước hết, ai trong chúng ta cũng biết đến những thú vui giác quan mà chúng ta có chung với mọi loài vật khác: đói ăn, khát uống, mặc ấm, mệt nghỉ, “buồn ngủ gặp được chiếu manh”, nhìn cảnh đẹp, nghe tiếng nhạc êm tai, ngửi mùi hương thơm tho, nếm vị ngọt bùi, được vuốt ve chiều chuộng và thích cảm thấy an toàn.
Kế đến là những niềm vui thích hợp tương hợp với trí tuệ con người: chúng ta thưởng thức được những tác phẩm văn chương, triết học, thi phú, hội họa, âm nhạc, phim ảnh hay những phát minh kỳ diệu của khoa học kỹ thuật hiện đại.
Rồi phải kể đến những niềm vui từ sinh hoạt tình cảm xã hội của chúng ta: sự thân mật trong tương giao vợ chồng, tình gia đình êm ấm, được bạn hữu chấp nhận, giúp đỡ, yêu mến, ngưỡng mộ, yêu thích công việc, thăng tiến trong nghề nghiệp.
Trong chiều kích luân lý thuộc bản tính tâm linh của con người, chúng ta phải nói đến những niềm vui của nhân đức đối nghịch với thú vui tội lỗi:
Người nhân đức vui với việc thực hành các nhân đức như yêu thương phục vụ, hy sinh xả kỷ vị tha, tận tâm với nghĩa vụ, trong sạch, ngay thẳng…Rất nhiều khi để có được niềm vui nhân đức, người ta phải hy sinh những thú vui tự nhiên. Đó là lý do của việc thực hành việc hy sinh hãm mình đền tội. Niềm vui nhân đức này hoàn toàn phù hợp và hài hòa với đức tin Công giáo; đồng thời niềm vui này được kiện toàn nhờ ánh sáng đức tin và mẫu gương nhân đức tuyệt hảo của Chúa Kitô.
Người xấu nết tìm thú vui nơi tội lỗi, nơi những việc nghịch với lương tâm và lề luật Chúa: đam mê rượu chè, cờ bạc, trai gái, ngoại tình, ghen tương, hút sách, tham lam hà tiện, bất chính, lật lọng… Thông thường, vì đam mê những thú vui giác quan quá đáng, người ta không biết tự chủ để sẵn sàng bất tuân luật Chúa.
Trong chiều kích đức tin Công giáo dưới ánh sáng Tin Mừng Chúa Kitô, chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã dựng nên con người để họ được chia sẻ niềm vui trong tình thương và sự hiệp thông với Thiên Chúa nhờ ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần. Niềm vui này bị phá vỡ bởi tội lỗi và được phục hồi nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô.
Các ngôn sứ trong Cựu Ứơc đã không ngừng mời gọi Dân Chúa đón nhận niềm vui vì được Chúa yêu thương, được Chúa tuyển chọn, được Chúa tha thứ, được Chúa cứu thoát, được Chúa hướng dẫn, được Chúa bênh vực, được Chúa chăm lo. Lời Chúa trích sách Tiên Tri Xôphônia trong bài đọc một của Phụng Vụ hôm nay đầy những lời hứa dịu ngọt ấy: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem. Hãy hân hoan, hãy nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa. Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng” (Xp 3:14-18a).
Chính vì nhằm mục đích giúp con người phục hồi niềm vui trong Chúa mà Thánh Gioan Tiền Hô đã rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Cũng chính vì cùng mục đích ấy, Chúa Giêsu cũng lập lại lời mời gọi phải sám hối và tin vào Tin Mừng. Tin Mừng ở đây chính là việc Thiên Chúa đã hứa ban tặng ơn tha thứ, ơn cứu độ, cũng là sự sống đời đời hay niềm vui khôn tả và vô tận cho những ai tin nhận Chúa Giêsu Kitô và sống theo giáo huấn của Người, như đã được ghi nhận trong Thánh Kinh theo sự hướng dẫn của Hội Thánh nhờ sức mạnh của Thánh Thần.
Hội Thánh không ngừng tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô, mời gọi mọi người đón nhận niềm vui của Chúa, niềm vui trong Chúa, và tiếp tục lập lại lời Thánh Phaolô trong bài đọc hai trong Phụng Vụ hôm nay: “Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên! Đức ôn hòa của anh em phải sáng tỏ trứơc mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4:4-7).
Như vậy, câu hỏi “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3:10) trong Tin Mừng hôm nay mà dân chúng đã đặt ra cho Thánh Gioan Tiền Hô cũng chính là câu hỏi chúng ta phải đặt ra chính mình trước mặt Chúa hôm nay: “Chúng con phải làm gì?” Phải làm gì để có được vui đích thực, niềm vui trọn vẹn, niềm vui bất diệt? Chắc hẳn câu trả lời vẫn không gì khác hơn là lời rao giảng của Thánh Gioan như một sự nhắc lại truyền thống của các ngôn sứ, được tóm gọn nơi lời ngôn sứ Mikha: “Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi: tức là ngươi hãy thực hiện công bình, quý mến lòng nhân lành, và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa của ngươi” (Mk 6:8), cùng với lời mời gọi sống theo niềm tin vào Chúa Kitô, thực thi đức ôn hòa, chuyên chăm cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa của Thánh Phaolô trên đây.
Thiên Đàng hay Nước Trời-mục đích cuối cùng của chúng ta là tín hữu Công giáo-không gì khác hơn là Vương Quốc của Chúa Kitô, nơi chúng ta sẽ được vui luôn trong Chúa, trong sự yêu thương kết hiệp trọn vẹn với Chúa Ba Ngôi. Để xứng đáng vào Nước Trời, chúng ta phải tập trở thành những người biết vui luôn trong Chúa. Thật vậy, Thánh Giuse-Maria Escriva từng nhận xét: “Nếu bạn không sống vui với Chúa trở dưới thế, thì làm sao bạn có thể mong được sống vui với Chúa trên trời?”
Vậy nên, chúng ta phải coi lời mời gọi “Hãy vui luôn trong Chúa” (Pl 4:4) của Thánh Phaolô trong Phụng Vụ hôm nay như một lệnh truyền của chính Chúa! Chúa truyền chúng ta phải vui luôn trong Chúa qua việc yêu mến và tuân giữ Lời Chúa và Luật Chúa!
Vui luôn trong Chúa hay niềm vui trong Chúa vì vậy không phải chỉ là vấn đề của một giác cảm mau qua, nhưng phải là một chọn lựa kéo dài cả đời, một quyết định của niềm tin hướng đến chung cánh đời đời!
Lạy Mẹ Maria, “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy,” xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con luôn được yêu mến gắn bó với Chúa Giêsu Con Mẹ và luôn sống theo ơn Chúa Thánh Thần để chúng con được “vui luôn trong Chúa”. Amen.
68.Mừng vui lên - JM. Lam Thy ĐVD.
Sứ vụ của thánh Gio-an Tiền Hô là loan báo Tin Mừng Đấng Cứu Độ sắp đến và kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn để đón tiếp Người. Ngay ở thời điểm khai mạc sứ vụ, đã có kết quả là một tin vui: “dân chúng lũ lượt đến xin ông Gio-an làm phép rửa và họ hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10). Khung cảnh bên bờ sông Gio-đan lúc ấy không còn là nơi sa mạc hoang vu nữa, mà chỉ thấy người người từ khắp nơi kéo đến như một ngày hội. Và như vậy thì lời rao giảng của Thánh Gio-an không còn là “tiếng hô trong hoang địa” (theo nghĩa chiểu tự) nữa. Mọi người chen vai thích cánh để được thánh nhân làm phép rửa và để được hỏi thánh nhân xem mình phải làm gì để có thể “tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. “Chúng tôi phải làm gì?”, đó là câu hỏi chung của tất cả những ai đến xin thánh Gio-an cho họ một lời khuyên để họ thực hiện sám hối và sẵn sàng đón nhận Đấng Cứu Thế.
Có một điều đáng lưu ý là nếu đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Mat-thêu có cùng chủ đề (“Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng”), thì thấy trong đám đông có cả những “người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa” và thánh Gio-an Tẩy Giả đã nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối … Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 7-8). Đón Chúa đến nếu chỉ nghe những câu như vừa dẫn, thì tưởng chừng như một việc làm quá khó khăn, quá nặng nhọc, khó lòng thực hiện được. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay của thánh Lu-ca, thì sẽ thấy cũng đơn giản thôi, và chắc chắn sẽ làm được. Câu trả lời của thánh Gio-an cho từng người thật là ngắn gọn nhưng đầy đủ. Với thường dân thì "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy." Với người thu thuế thì "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." Còn với binh lính thì "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình."
Cứ kể lời dạy của thánh Gio-an Tẩy Giả ("Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy") cũng đơn giản thật. Bình thường, một con người sống trên đời, dù có nghèo kiết xác đi chăng nữa, cũng đâu đến nỗi chỉ có một áo, hoặc chỉ có một chén cơm, mà phải nhường hết cho anh em, còn mình thì cởi trần, nhịn đói. Thậm chí, đến như kẻ thù đã đoạt áo ngoài thì cũng sẵn sàng nhường luôn áo trong cho nó ("Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong" – Lc 6, 29), hoặc như bà goá sẵn sàng dâng cúng vào đền thờ 2 đồng tiền kẽm cuối cùng của mình ("còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình" – Lc 21, 4). Quả thật, Chúa không đòi hỏi những gì quá sức của con người, nhưng dù là không vượt quá sức của con người, thì cũng vẫn có thể không thực hiện nổi, nếu không có một ý chí hướng thiện, một tấm lòng quảng đại, một niềm tin vững vàng vào mục đích nhắm tới của công việc, cùng với một quyết tâm thực hiện. Đúng như vậy, "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông" (Nguyễn Bá Học).
Chung quy, vấn đề đặt ra là phải có lòng tin vững vàng về Tin Mừng Đấng Cứu Độ sắp đến, và phải sống niềm tin ấy bằng cuộc sống chan hoà đức ái. Ấy mới là biết dọn đường cho Chúa đến. Vâng, hãy mạnh dạn nhìn thẳng vào lòng mình, lấp cho đầy những thung lũng tị hiềm, bạt cho thấp mọi núi đồi kiêu căng, uốn cho ngay khúc quanh co hiểm ác, san cho phẳng những lồi lõm bất minh; tắt một lời, với một niềm tin sắt đá, hãy sửa lối đi tâm hồn cho ngay thẳng, công chính. Đồng thời hãy thể hiện đức tin của mình bằng những “chứng tá bác ái” (Tông thư “Porta Fidei”, số 14) trong đời sống thường nhật với tất cả anh em, nhất là những kẻ thấp cổ bé miệng khó nghèo, tật bệnh, lao tù. Ấy cũng bởi vì, vào ngày chung thẩm, Đức Vua Tình Yêu sẽ thẩm định hành trình đức tin của mọi tín hữu rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25, 34-36).
Một nhân chứng sống là thánh Phao-lô đã thấy được ơn cứu độ mà ngôn sứ Xô-phô-ni-a loan báo (Xp 3, 14-18). Hơn thế nữa, chính ngài đã thấy và đã nhận được phép rửa trong Thánh Thần và lửa như thánh Gio-an Tiền Hô đã báo trước (“Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” – Lc 3, 16). Đó chính là biến cố Đa-mát. Vì thế, ngài nhắc nhở mọi người: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả.” (Pl 4, 4-6). Theo ngài, ngày Chúa quang lâm lần thứ hai có những hiện tương kinh hoàng báo trước, nhưng đừng sợ hãi lo lắng thái quá, mà phải mừng vui lên vì Chúa đã gần đến. Ngài còn lặp lại một lần nữa lời kêu gọi “mừng vui lên” để nhấn mạnh tinh thần “sống hiền hoà rộng rãi”. Đó phải chăng là những chứng tá sống động trong “hành vi bác ái” của mỗi Ki-tô hữu? Vâng, nếu quả thực mỗi tín hữu đều “sống hiền hoà rộng rãi” trong hành trình đức tin của bản thân, thì đâu còn sợ hãi lo lắng gì nữa mà chẳng “mừng vui lên chờ đón Chúa quang lâm”?
Là con người, Ki-tô hữu chúng ta nhiều khi hoang mang lo sợ trước viễn cảnh tương lai vĩnh cửu và không ý thức mình đang trên con đường được Thiên Chúa cứu độ. Từ chỗ mất niềm tin ấy, chúng ta có thể dần dần đi tới tình trạng buông xuôi, phó mặc cho số phận đẩy đưa, không còn sống theo những điều Chúa và Giáo Hội dẫn dắt nữa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thắp lại ánh sáng đức tin và niềm hy vọng vào ơn cứu độ Đức Ki-tô đem đến cho chúng ta. Mà cũng “Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5, 2). Quả thật “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Hãy nhìn vào đích điểm của hành trình đức tin là niềm vui được cứu độ và sống “kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” như thánh Phao-lô dạy. Đó chính là điều giúp ta nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc sống trần gian và vững lòng tiến bước trong tinh thần “mừng vui lên” vì ngày Chúa quang lâm đã gần kề.
Ôi! Lạy Chúa! Như xưa dân chúng đã đến với Thánh Gio-an Tiền Hô để hỏi “Chúng tôi phải làm gì”, thì ngày hôm nay, chúng con cũng xin thưa với Chúa: Chúng con phải làm gì để dọn lòng đón Chúa đến trong dịp Lễ Giáng Sinh này? Chúng con phải làm gì để luôn sẵn sàng đón Chúa đến với chúng con trong bất cứ biến cố nào xảy ra trong cuộc đời chúng con; nhất là khi Chúa đến gọi chúng con ra khỏi cuộc đời này? Cúi xin Chúa ban Thánh Linh soi sáng và dẫn dắt cho chúng con hiểu được rằng chúng con phải làm gì để được mừng vui khi đón Chúa quang lâm. Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.” (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật III mùa Vọng).
69.Suy niệm của R. Gutzwiller.
NHỮNG LỜI GIẢNG CỦA VỊ TIỀN HÔ (3, 7-20)
Những lời khuyến cáo của Gioan, hoàn toàn phù hợp với sứ mạng của ông trong việc sửa dọn đường cho Chúa sắp đến. Những lời giảng đó bao gồm hai giáo huấn:
1. Sửa dọn.
Như các vị ngôn sứ xưa, Gioan coi nước cứu độ như quà tặng ban một lần hay tất cả. Ý niệm về một Đấng Messia đến hai lần, lần đầu là lần sửa soạn, rồi trong ngày thế mạt là lần quyết định để hoàn tất nước Thiên Chúa, còn là cái gì xa lạ với Ngài. Vì thế Ngài đã nhìn Đấng Messia như vị Thẩm phán sẽ đến. Những lời cảnh cáo đánh dấu đặc tính quan hệ và cấp bách của cuộc sửa soạn được đòi hỏi ở đây.
‘Cuộc thẩm phán trong thịnh nộ’ sẽ đến và chẳng ai tránh được. Cái rìu đã được đặt ở gốc cây, người ta sẽ chặt những cây cằn cỗi và gỗ của nó sẽ bị vứt vào lửa. Cây nào cũng phải sai trái: đối với Israel hoa quả này là thống hối, thay đổi tâm trí, nhận biết tội riêng của mình. Nhưng những người Do thái chưa sửa soạn đủ: họ cậy mình thuộc đòng dõi huyết tộc của Abraham, và vẻ bên ngoài thuộc về dân Thiên Chúa. Thực ra, đó là tình trạng tâm trí hoàn toàn sai lầm, vì trước Đấng có thể biến hòn đá thành con cháu Abraham, thì nó chẳng có nghĩa gì.
Thay vì liên hệ huyết tộc, sẽ xuất hiện liên hệ thiêng liêng. Thay vì thuộc về dáng vẻ bên ngoài, là thuộc về bên trong, thuộc về Thiên Chúa.
Trong phạm vi tôn giáo, ai chỉ liên kết với yếu tố bên ngoài, với cơ chế hữu hình của Giáo Hội, với một chức vụ hay với một nhiệm sở chính thức hoặc với những công tác bên ngoài, với những hoạt động cá nhân mà chẳng thêm vào đó: những tình cảm, sám hối, sự nhận thức về tình trạng tội lỗi của mình và lòng ao ước chân thành một cuộc hoán cải sâu xa, thì đó chưa thể được kể là con cháu Abraham, huống nữa là con cái Thiên Chúa. Họ thuộc về ‘loài rắn độc’. Vậy ra họ là con ma quỉ chứ không phải con Chúa.
Sự cải thiện thực sự kéo theo những hoa quả hữu hiệu về sám hối, hẳn sẽ biểu lộ rõ khi con người bắt đầu làm những việc lành cách vô vụ lợi. ‘Kẻ có hai áo, hãy chia cho người không có, và kẻ có của ăn, cũng hãy làm như vậy’.
Thời nào cũng vậy, các ngôn sứ, vẫn đặt ưu tiên phong hoá trên lễ nghi, hay ít là đòi hỏi phải có những chuẩn bị về luân lý và hành vi nhân đức như yếu tố bất khả kháng của các cuộc lễ. Chính vị tẩy giả cũng đòi phải việc từ thiện không tính toán, đòi phải giúp nhau, mở rộng bàn tay như dấu chỉ của một tâm hồn quảng đại.
Hoa quả của sám hối là đức ái hoạt động phát xuất từ sự hoán cỉa nội tâm. Cái nhìn hướng lên Thiên Chúa phải làm dội lại sâu xa hơn cái nhìn hướng về tha nhân; quay về với Thiên Chúa mà không biến đổi những liên hệ với đồng loại thì chỉ là một việc đạo đức giả.
Bản văn Tin mừng còn đặc biệt nhắc tới những người thu thuế và lính tráng. Đối với dân Israel, những phần tử của hai hạng người này coi như đã hỏng vì họ tiếp xúc với dân ngoại (tự bản chất là dơ dáy) và vì nghề nghiệp của họ mang đến những hành vi bất nhân và làm giàu cách bất chính. Vị tẩy giả nghĩ khác. Ngài quảng đại đối với họ, chỉ đòi hỏi họ những cái nhỏ bé nhất: với những người thu thuế, Ngài nói: “Chớ đòi gì quá mức đã định cho các anh’. Họ phải giữ tiết độ đúng mức. Vượt quá kích thước đã định mới là điều không hợp với lòng đạo đức chứ không phải vì nghề nghiệp. Những người lính đã nhận đươc một mệnh lệnh tương tự: ‘đừng xách nhiễu, đừng vu khống cho ai, hãy bằng lòng với số lương bổng của mình’. Đó lại là một sự khuyến khích giữ giới hạn của mình. Binh nghiệp tự nó đâu phải là xấu, mà cũng chẳng có gì là đáng chê trách khi phục vụ cho thế quyền. Nhưng chắc chắn phải tố giác việc dùng sức mạnh theo sở thích, sử dụng quyền hành và khí giới cách đáng trách và sự bất mãn, là nguồn mọi tham vọng.
2. Đức Messia đến.
Dân chúng coi Gioan như Đấng Messia. Nhưng vị tiền hô cũng không phải là Vua; nên Ngài nói: ‘không phải ta đâu, mà là Đấng khác’. Vị tiền hô hướng họ tới Đức Kitô. Đó không phải là người ích kỷ, vì người ích kỷ thì vẫn muốn chiếm đoạt tha nhân, nhưng đây là người của Chúa, một người bất vụ lợi đưa đường tha nhân về với Thiên Chúa. Phải, giữa Đấng Messia và Ngài có một sự cách biệt quá lớn lao như người đầy tớ nghĩ mình không đáng cởi giây giày cho chủ mình.
Cả hai phép rửa cũng khác nhau như vậy. ‘Tôi, tôi rửa anh em trong nước, sẽ có Đấng quyền năng hơn tôi: Ngài sẽ rửa các ông trong Thánh Thần và trong lửa’. Phép rửa của Gioan chỉ là bên ngoài, như nước chảy trên thân xác, còn phép rửa của Chúa Giêsu, bên trong, như lửa thiêu huỷ tất cả, như Thánh Thần mà sức nóng của Ngài ăn sâu vào tận đáy lòng và biến đổi tất cả.
Để hoàn tất lời giảng, Gioan còn nhấn mạnh tới việc hệ trọng của giờ đã đến. Phải có vị trí nào với Chúa Kitô. Phải quyết định, vì Đức Kitô sẽ đến thi hành một cuộc phân cách. Ngài sẽ sảy sạch lúa sân Ngài, thu lúa vào lẫm, và đốt hết trấu.
Sứ điệp của Gioan đã bắt đầu bằng những lời giảng về phán xét thì cũng bằng những lời đó Ngài kết thúc. Người ta, một khi bị gọi trình toà, hẳn phải nhận thức được tầm quan trọng của lúc đó. Họ còn được tuỳ ý sắp xếp công việc, để có thể tự biện hộ cho mình. Nhưng ở đây đã thực cấp bách. Sự phân cách và phán xét đã đang xảy ra rồi: sau cùng, trình thuật Tin mừng đã ám chỉ việc này.
Thực ra dân chúng có đón nhận ‘Tin mừng’ mà họ biết nhận ra dưới những lời lẽ long trọng và có tính cách đe doạ đó. Tin mừng đã bắt đầu. Nhưng nó lại là khởi sự của một chống đối. Hêrôđê mà liên hệ tội lỗi với chị dâu bị lời Chúa cảnh cáo đã lợi dụng quyền hành của mình để bắt giam vị tẩy giả. Sự phân cách các tâm trí bắt đầu, và cùng với sự phân cách đó là sự phán xét.
70.Chúng tôi sẽ phải làm gì?
Bài Tin Mừng hôm nay nối kết với bài Tin Mừng Chúa nhật 2 mùa vọng, một lần nữa, Luca nói với chúng ta về Gioan Tẩy giả, vị tiền hô của Chúa Giêsu, và về lời rao giảng của ông.
Bản văn gồm hai phần: Trong phần thứ nhất, Gioan trả lời câu hỏi của thính giả về những gì họ phải làm để hưởng ứng sứ điệp căn bản của ông – sứ điệp loan báo về cuộc xét xử sắp xảy đến và nêu đòi hỏi người ta phải triệt để đổi đời. Trong phần thứ hai, Gioan Tẩy giả phân trần rằng ông không phải là Đấng Mêsia, và rằng ông không thể hành động như trung gian chuyển giao Thánh Thần của Vương Quốc đang đến.
Phần thứ nhất không phải là cái gì đáng ngạc nhiên lắm. Bao giờ cũng có những cám dỗ để người ta phớt lơ những bổn phận luân lý được nêu ra ở đây, xem chúng là quá rõ ràng, thậm chí quá bình thường. Nhưng nếu xét kỹ hơn, ta sẽ thấy những bổn phận luân lý ấy đầy thúc bách.
Gioan được nhìn nhận là người mà Ngôn sứ Isaia đã loan báo trước; là tiếng kêu trong hoang địa, là người loan báo sự cứu độ đang đến của Thiên Chúa, là ngôn sứ của cuộc xét xử cuối cùng sắp xảy đến, là ngôn sứ của cơ hội cuối cùng để hoán cải tận căn, của sự thực rằng người ta không thể làm hài lòng Thiên Chúa bằng bất cứ gì khác hơn là thực hiện một cuộc hoán cải dứt khoát trong đó thay đổi toàn bộ và tận nền tảng cuộc sống của mình, bứt mình ra khỏi tình trạng của mình hiện tại. Và giờ đây người ta đến hỏi vị giảng thuyết này về một cuộc thay đổi tận căn và một sự bắt đầu mới. Điều gì họ thực sự phải làm nếu họ muốn hưởng ứng sứ điệp không khoan nhượng ấy? Câu trả lời xem ra chỉ là một chuỗi những huấn dụ đạo đức sáo mòn mà người ta có thể gặp thấy ở bất cứ chỗ nào khác – và đó là những huấn dụ không cần phải được dẫn trước bởi bất cứ sự cảnh báo thế mạt nào để làm cho nó trở nên dễ hiểu. Các nhân viên thuế vụ không được đòi hỏi người ta thái quá; các binh lính phải trở nên những con người đàng hoàng, không doạ nạt người khác và phải biết hài lòng với lương bổng của mình. Dĩ nhiên, Gioan không đặt vấn đề về động cơ hay công việc của các nhân viên thuế vụ và binh lính làm tay sai cho chính quyền đô hộ – công việc mà những người có vẻ đạo đức sẽ đánh giá là rất tồi tệ và đáng khinh bỉ.
Ngay cả khi Gioan tiếp tục nói rằng họ phải chia sẻ thực phẩm và áo quần (nếu họ có đủ phần mình) cho người thiếu thốn xung quanh, ông cũng đã không đi quá điều xem ra được thấy chỉ là những mệnh lệnh luân lý phổ quát và hiển nhiên của con người. Nếu chúng ta làm một liệt kê dài hơn về những lời khuyên tương tự cho những người thuộc các nghề nghiệp và hoàn cảnh khác, thì sự tương phản bên ngoài sẽ vẫn còn giữa một bên là mệnh lệnh triệt để đòi người ta đổi đời và bên kia là những chuẩn mực đạo đức rất thông thường mà chắc chắn các thính giả của Gioan đã hiểu rõ – và đã thi hành hay đã không thi hành – trước khi nghe ông rao giảng; và nếu gạt chuyện thiện chí qua một bên thì chắc hẳn là các thính giả của Gioan cũng đã không chu toàn các chuẩn mực ấy một cách hữu hiệu hơn mấy kể từ lúc họ nghe ông kêu gọi trong bối cảnh đặc biệt này.
Điều ấy có nghĩa gì? Bài Tin Mừng không hề cung cấp câu trả lời trực tiếp. Chúng ta chỉ biết rằng những tương phản mặt ngoài này lại ăn nhập với nhau một cách nào đó và làm bật ra ý nghĩa.
Chắc chắn ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm rằng những đòi hỏi đạo đức xem ra thông thường ấy không hề là những đòi hỏi dễ dàng chút nào – miễn là chúng ta đừng lập lờ đánh lận con đen để chỉ xếp vào các nguyên tắc đạo đức những gì phù hợp và dễ dàng đối với mình. Cuộc sống hằng ngày tự nó đòi hỏi người ta rất nhiều. Sống được cuộc sống đơn điệu nhạt nhẽo hằng ngày thường khó hơn là thực hiện một hành vi phi thường nào đó mà tính anh hùng của nó dễ làm cho ta tự mãn.
Giá trị đạo đức và tôn giáo không duy chỉ là tổng số ý nghĩa của các khoảnh khắc dồn lại; giá trị ấy hình thành một toàn thể với đặc tính riêng của nó là một toàn thể – ngay cả khi giá trị ấy được nhận ra xuyên qua các hành vi riêng lẻ. Nếu không phủ nhận điều đó thì ta sẽ nghĩ gì về một đời sống được kết dệt trong các bổn phận, trong ý chí mới mẻ mãi muốn trung thực và tốt lành đối với người khác; một đời sống không cho phép mình sa vào bạc nhược chán chường do bởi sự vô nghĩa của hiện tại; một đời sống với tinh thần lành mạnh sáng suốt vốn là một ân huệ và là nhân đức Chúa ban …? Một đời sống như vậy đâu có còn đối lập với lời kêu gọi hoán cải của Gioan nữa! Một đời sống đạo đức xem ra thông thường như thế thực sự cho thấy rằng sự hoán cải không phải là một cái gì đó xảy ra vào một khoảnh khắc nhất định trong thời gian – nhưng là một nguyên động lực giấu ẩn thấm nhuần vào bản chất trông có vẻ bình thường của đời sống xét như một toàn thể.
Nhưng không phải chỉ vậy. Đó không phải là tất cả ý nghĩa rút ra được từ sự tương phản ngoại tại nói trên. Còn một ý nghĩa gì đó khác nữa – (có lẽ không thể cảm nhận được ít là trong một số trường hợp) – hàm chứa trong việc chúng ta thi hành những bổn phận hằng ngày của mình, kể cả những bổn phận thuộc loại tiện ích cho chính mình.
Trong cuộc sống thường ngày, nhiều lúc chúng ta bị đẩy vào những tình huống trong đó ta bỗng thấy các công việc lặt vặt buồn tẻ của mình chẳng có nghĩa lý gì, hoặc thậm chí phi lý. Có những lúc bất chợt tính chất đạo đức thông thường trở nên chẳng đáng gì. Ý nghĩa đạo đức thông thường bỗng biến mất, hoặc đổi thành một cái gì hoàn toàn khác. Tính hiệu dụng của một hành vi bỗng tiêu ma, hoặc đã chuyển vào cõi thiêng thánh! Đó là những lúc mà ta phải làm việc bổn phận chỉ vì đó là bổn phận chứ không cảm nhận được một sự tưởng thưởng nào; đó là những lúc mà ta thấy bổn phận giống như một thứ hình phạt.
Một kẻ đang có danh giá bỗng không còn được trọng vọng trước mặt người ta nữa, nhưng trở thành một kẻ khờ dại vụng về bước đi giữa đời. Đột nhiên, thiên hạ triệt để lợi dụng tấm lòng vị tha; thiên hạ không còn nể trọng sự thành thực mà thậm chí sử dụng nó như một thứ vũ khí để chống lại chính kẻ thành thực!
Có cả ngàn cách trong đó tính chất đạo đức thông thường có thể trở thành một điều hết sức mỉa mai, trong tất cả tính hiển nhiên của nó và chẳng thấy ở nó ý nghĩa gì là đặc biệt anh hùng. Nó không còn cần thiết nữa; nó không còn sảnh sinh ra kết quả rõ ràng mà chính người thực hiện mong muốn nhận được …
Song nếu như người ta vẫn kiên thủ thi hành các việc đạo đức thông thường ấy ngay cả khi nó không còn có lợi nữa, ngay cả khi nó trở thành dường như vô nghĩa – thì điều gì xảy ra? Những việc thi hành như thế sẽ trở thành một loại “tiền hô” của Thiên Chúa, Đấng là nguồn ơn cứu độ và là nguồn mạch tự do. Từ “Thiên Chúa” ở đây không được hiểu một cách mơ hồ chung chung. Từ “Thiên Chúa” ở đây mang một ý nghĩa trực tiếp. “Thiên Chúa” ở đây được cảm nghiệm trong chính cuộc biến đổi lặng lẽ nhưng phi thường này, cuộc biến đổi làm hoàn thành trọn vẹn ý nghĩa cho hành vi đạo đức thường ngày của chúng ta.
Khi chúng ta dám điên rồ, khi chúng ta từ chối tranh chấp dù mình có cơ hội giành phần thắng, khi chúng ta nhất mực yêu thương dù ngay từ đầu mình không nắm chắc sẽ được yêu thương đáp lại, khi chúng ta vẫn trung thực với những xác tín của mình – thậm chí với sự bất lợi của mình dù sự bất lợi đó không phải chỉ là một giai đoạn trong cuộc chiến mà ta chắc chắn sẽ đạt chiến thắng chung cuộc, tóm lại – khi chúng ta không lập lờ với lương tâm mình và không còn nhập nhằng lẫn lộn những đòi hỏi của lương tâm với tính hiệu dụng và ý nghĩa vật chất hiển nhiên được chủ yếu hàm chứa (và hoàn toàn có thể biện minh) trong tính chất đạo đức thường ngày… đó là những khi mà chúng ta gặp gỡ chính Thiên Chúa, dù có lẽ chúng ta không gọi tên Ngài và dù ta không ý thức rằng mình đang gặp Ngài.
Để cho sự đòi hỏi của lương tâm chuyển hoá ý nghĩa của những hành vi đạo đức thường ngày đằng sau vẻ bên ngoài của chúng – đó là một thách đố, và nếu chúng ta từ thác sự thách đố này (nhiều khi một cách rất khéo léo), thì đó chính là lúc Thiên Chúa đang xét xử chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta hưởng ứng tiếng gọi bất chợt ấy, chúng ta sẽ được chính Thiên Chúa là nguồn mạch tự do và là nguồn ơn cứu độ. Tất cả điều này có thể diễn ra một cách thật âm thầm lặng lẽ chính khi ta chu toàn các bổn phận hằng ngày. Chúng ta dường như cũng ứng xử theo khuôn mẫu thông thường của con người, hết mực kính trọng người khác (ngay cả dù mình đang ở vị trí thượng phong trên họ). Nhưng rồi bất chợt, trong nháy mắt, chúng ta ở trong sa mạc – sa mạc cứu độ của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta trân trọng giương cao nguyên tắc đạo đức thường ngày và không lập lờ quẳng bỏ nó khi nó không đem lại lợi ích cho mình, đó là chúng ta đang thật sự tiến tới một sự biến đổi tận căn trong tâm hồn, cho dù chúng ta không thể xác định rõ sự biến đổi ấy diễn ra chính xác vào lúc nào. Bấy giờ chúng ta cầu khẩn và tán dương ân sủng Chúa, ân sủng lấp đầy các chiều sâu mà những nẻo bước của cuộc sống bình dị hằng ngày chúng ta thực sự vẫn hướng về, vươn lên tới điểm mà ở đó chúng ta không chút hãi sợ để cho chính mình rơi vào cõi sâu thăm thẳm ấy.
Chúng tôi sẽ làm gì? Dường như bị khiếp sợ, người ta đã nêu câu hỏi ấy sau bài giảng đầy tính đe doạ của Gioan Tẩy giả về tội lỗi và về sự xét xử tất yếu sẽ xảy đến, về cuộc hoán cải toàn diện. Gioan đã trả lời họ. Và thật bất ngờ, câu trả lời của ông đặt chúng ta vào ngay chính chỗ hiện tại của mình, yêu cầu ta sống một cách hết sức bình thường, yêu cầu ta tiếp tục nhẫn nại sống cuộc sống thực tế của mình. Câu trả lời ấy cho thấy rằng chính ở đây và chính lúc này ta có thể cảm nghiệm Nước Thiên Chúa đang đến, chỉ cần chúng ta thực sự muốn cảm nghiệm, và chỉ cần chúng ta chịu nhìn nhận – trong niềm cậy trông – ý nghĩa ẩn giấu và năng lực nội tại thâm sâu của cuộc sống thường ngày.
71.Những hành vi thống hối.
Bài Tin Mừng hôm nay Gioan Tẩy giả đưa ra lời kêu gọi thống hối đầy khó khăn, theo văn phong tiên tri của Cựu Ước: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối”.
Nhiều người nhanh chóng phản ứng và hỏi: “Phải làm gì đây?”. Đây là bài học quý giá của bài Tin Mừng này: đừng bao giờ để nhiệt tình thống hối ở trong sự mập mờ, không có sự thống hối. Có những hành vi chứng tỏ rằng chúng ta muốn thống hối và những hành vi đó cụ thể hoá tức khắc sự quay lại của con tim: “Phải làm gì đây?”
Trong khi suy niệm Tin Mừng Máccô, chúng ta thấy có điều gì đó làm thất vọng trong sự “thống hối” của chúng ta. Tâm tình của một sự biến đổi tuyệt diệu làm chúng ta hứng khởi: “Giờ đây, tốt lắm, cuộc sống của tôi sắp thay đổi”. Chúng ta nghĩ đây là bước đầu vĩ đại hướng tới lý tưởng, hướng tới sự thánh thiện. Nhưng chúng ta hầu như luôn luôn bị mắc bẫy, chúng ta ở trong “tình cảm” nồng nhiệt này (không đến) vài ngày, không nhanh chóng khai thác ơn thống hối này, và sự hứng khởi hạ xuống, cuộc sống tái diễn như trước.
Có một ranh giới khó vượt qua mà chúng ta thường kinh nghiệm: đi từ tình cảm tới hành động. Để chúng ta tức khắc đi cho đúng đường, bài suy niệm đầu tiên về sự thống hối nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đức tin và lời cầu nguyện. Đừng láu cá, đừng chỉ dựa vào sức mình mà thôi, cầu xin sự giúp đỡ của Thiên Chúa.
Lần này lại chú trọng đến lòng can đảm của chúng ta, cũng phải tự tin nữa! Và do đó nhanh chóng tự hỏi “phải làm gì đây?”, một câu hỏi đơn sơ nhưng dứt khoát, trong khi hướng về cái đời thường nhất của cuộc sống chúng ta.
Những lời khuyên của Gioan Tẩy giả có thể xa vời với những vấn đề của chúng ta, nhưng chúng ta hãy ghi nhận lời mời gọi yêu thương, công bằng và bất bạo động. Một số nhiệt tình thống hối thúc đẩy chúng ta hướng về cầu nguyện hoặc thờ phượng, hay nỗ lực tạo tính cách: “Tôi sẽ tỏ ra dễ thương hơn đối với x…”. Tốt, nhưng chúng ta hãy nhìn xem chung quanh chúng ta một chút. Chúng ta sẽ đi đến chỗ chia sẻ như thế nào? “Ai có hai áo hãy cho bớt một áo”. Thật giản dị… và hiệu quả hơn là giấc mộng anh hùng cho mười cái áo mà điều này sẽ chỉ là một giấc mơ và sau đó sẽ là biết bao lần thống hối thất bại. Chúng để lại cho chúng ta vị đắng chát.
“Đừng ép buộc quá!”, Gioan Tẩy giả nói như thế với những người thu thuế. Thật là một sự xem xét lại rất cụ thể cách cư xử của chúng ta trong công việc, việc kinh doanh, sự giao dịch!
“Đừng làm khổ ai cả!”. Thậm chí không phải binh sĩ cũng không phải Trung tâm nghiên cứu khoa học, có lẽ chúng ta ảnh hưởng quá mạnh trên con cái chúng ta, trên các nhân viên, trên các thành viên của một cộng đồng mà chúng ta có trách nhiệm. Có rất nhiều cách để làm khổ, làm tay anh chị. Chúng ta càng nỗ lực để trở nên sáng suốt trong lãnh vực tế nhị này, sự thống hối của chúng ta càng sẽ đi từ giấc mơ đến thực tế.
Và điều mà Gioan Tẩy giả đã không nói, chúng ta phải tìm cho ra, trong khi vẫn ở trong đường lối thực tiễn này: - Làm gì đây? – Cứ làm một điều gì đó!
72.Hãy sống trong niềm vui!
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Lc 3: 10-18: Bài Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả đã chỉ ra cho dân chúng thấy đâu là niềm vui thật và đâu là niềm vui giả tạo! Muốn có được niềm vui thực sự thì phải làm gì!
Lúc còn sinh thời, Mẹ Têrêxa Calcutta đã được thế giới biết đến nhờ vào lòng bao dung qua tình thương của Mẹ dành cho người nghèo! Tuy nhiên, điều mà thế giới ít biết đến, đó là món quà thiêng liêng mà mẹ dành tặng cho bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là: nụ cười.
Đã có nhiều cá nhân, đoàn thể, với những đối tượng khác nhau, họ đã xin Mẹ lời khuyên để sống bình an, hạnh phúc và tốt đẹp hơn! Khi được đề nghị như vậy, Mẹ đã nói: "Quí vị hãy về và ban tặng cho nhau những nụ cười... Hãy cười tươi với tất cả mọi người, bất luận người đó là ai! Với những nụ cười tươi như thế, quí vị sẽ lớn lên trong tình yêu hỗ tương”.
Còn đối với người Việt Nam, chúng ta cũng thấy mẫu gương này của Đấng Đáng Kính - Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận: ngài đã cười với mọi người, kể cả kẻ thù; ngài cười lúc bình an; khi chịu đau khổ; hiểu lầm, thử thách; ngài cười lúc tự do; nhưng cũng không thiếu những nụ cười ngay khi bị tù đầy khốn cùng nơi nhà lao... lý giải cho điều này, ngài đã chia sẻ trong sách Đường Hy Vọng như sau: “Vui với người thương con.Vui với người ghét con.Vui lúc con hớn hở.Vui lúc lòng con đau khổ tê tái. Vui lúc mọi người theo con.Vui lúc con cô đơn bị bỏ rơi. Vui tươi và làm cho mọi người đến với con cũng cảm thấy bầu khí vui tươi, mặc dù lòng con tan nát. Đó là thánh thiện hơn mọi sự ăn chay, hãm mình” (ĐHV. số 539), bởi lẽ: một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn.
Và ngài khuyên: “Con không có tiền? Con không có quà để tặng? Con không có gì cả. Con quên tặng họ niềm vui, tặng sự bình an mà thế gian không thể cho được, kho tàng vui tươi của con phải vô tận” (ĐHV. số 540).
Qua những mẫu gương đó, chắc hẳn chúng ta không khỏi thắc mắc rằng: tại sao các ngài có được niềm vui như thế? Thưa! Đơn giản: vì các ngài có Chúa trong mình và làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa và con người.
Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng hôm nay còn được gọi là Chúa Nhật của niềm vui, hay Chúa Nhật Hồng. Phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vui lên trong Chúa; hãy cảm nghiệm được tình thương và sự giải thoát của Thiên Chúa trong cuộc đời, nhất là tình thương cứu chuộc qua con của Người là Đức Giêsu. Tuy nhiên, để làm sao có được niềm vui cứu độ! Đây là điều chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Khi nói về niềm vui, chúng ta không thể chấp nhận một niềm vui giả tạo, nhưng niềm vui phải khởi đi từ chính nội tâm. Tâm tình này đã được tiên tri Sôphônia cảm nghiệm trong thời của Ngài.
Khi đối diện với cảnh nhiễu nhương, loạn lạc, cướp bóc, trả thù, tất cả những cái đó đã làm cho dân chúng thời bấy giờ rơi vào tình trạng hoang mang, sợ hãi và làm hao mòn thể xác, héo hon tinh thần... Hơn nữa, khi sống trong thảm trạng cơ cực, nhục nhã, đắng cay, bên trong thì suy đồi đạo đức, bên ngoài thì họa xâm lăng tứ phía.... Điều này đã làm cho dân Chúa luôn khao khát, mong chờ từng ngày với hy vọng được giải thoát khỏi cảnh khổ đau sầu thương họ đang chịu...
Tuy nhiên, ngay thời điểm đó, tiên tri Sôphônia đã tìm được niềm vui khi nhận ra sự tha thứ của Thiên Chúa, nên ngài hân hoan kêu gọi cũng như loan báo cho dân tin vui mừng: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa” (Xp 3, 14-15).
Niềm vui ấy cũng được thánh Phaolô diễn tả qua bài đọc 2 trong thư gửi giáo đoàn Philipphê khi mời gọi và loan báo về ơn giải thoát qua sự kiện Chúa gần đến, ngài nói: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến” (Pl 4,5).
Sang bài Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả đã chỉ ra cho dân chúng thấy đâu là niềm vui thật và đâu là niềm vui giả tạo! Muốn có được niềm vui thực sự thì phải làm gì!
Giáo huấn của Gioan Tẩy Giả được bắt đầu bằng câu hỏi của dân chúng sau khi nghe ông rao giảng và kêu gọi sám hối để được hưởng trọn niềm vui của ơn cứu độ qua Đấng Cứu Thế: “Chúng tôi phải làm gì?”.
Để giúp cho mọi thành phần được ơn cứu độ, và hưởng trọn niềm vui đích thực, Gioan đã mời gọi họ dân chúng sống tình huynh đệ, sẻ chia: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy"; với những người thu thuế, ngài dạy họ: "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi"; còn với quân nhân, Gioan lên tiếng dạy họ cách dứt khoát: "Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình".
Những lời dạy của Gioan thật chí lý, thấu tình và thiết thực, không vòng vo, không trừu tượng, cũng như không quá khó! Những đường lối mà Gioan định hướng cho dân, ai cũng có thể làm được, nếu họ có đủ lòng khiêm tốn, sám hối và chân thành, nhất là nếu họ đặt mục đích tối hậu của cuộc đời mình nơi Chúa.
Khi dạy như thế, Gioan đã không buộc họ phải thay đổi nghề nghiệp, nhưng nếu để được hưởng trọn niềm vui đích thực thì phải thay đổi lối sống và cung cách hành xử.
2. Sống Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta: hãy sám hối để thay đổi lối sống cho phù hợp với thánh ý Chúa.
Nếu lối sống cũ là một lối sống ích kỷ, nhỏ nhen, ưa sống hào nhoáng, hình thức bên ngoài, thì từ nay, hãy sống quảng đại, bao dung, tha thứ, nhất là tình thương ấy được ưu tiên cho người nghèo.
Nếu trước kia, chúng ta sống kiểu bề trên kẻ cả, lộng quyền, gian tham, bóc lột, thì từ nay, chúng ta phải sống trong tinh thần phục vụ, mình vì mọi người, chứ không phải mọi người vì mình, xây dựng sự công bằng, bác ái với nhau.
Nếu trước kia, chúng ta thường hay nói hành, nói xấu, vu vạ cáo gian, nhất là nhân danh điều tốt để làm chứng gian hại người, thì từ nay, chúng ta hãy sống trong sự thật, đơn sơ, chân thành...
Sống được như thế, chúng ta sẽ có niềm vui Tin Mừng đích thực, bởi tất cả những điều thiện hảo đó chính là hoa trái của sự sám hối.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có được niềm vui sâu xa từ bên trong tâm hồn bằng việc thay đổi lối sống cho phù hợp với tinh thần của Chúa. Có được niềm vui đó, chúng con mới xứng đáng trở thành con của Chúa. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam