Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1372837

LOAN BÁO TIN MỪNG

Loan báo Tin Mừng - Gioan Văn Huy

Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo nên con người và muốn cho tất cả mọi người tham dự vào sự sống của Ngài. Ngài còn muốn liên kết mọi mỗi người thành một đoàn chiên duy nhất.[1] Thật vậy, Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến không chỉ với những con chiên lạc nhà Israel, mà Ngài còn hoà giải cả vũ trụ với Thiên Chúa (x.Cl 1,18-20 ), với dân ngoại, dẹp tan các mối thù địch để tạo ra một nhân loại mới (x.Ep 2,13-18).

Ơn cứu độ của Thiên Chúa mang tính phổ quát (x.Lc 2,30). Máu của Đức Giêsu đổ ra đem lại ơn cứu độ cho muôn người (x.Mc 10,45). Vì vậy, sứ mệnh của Giáo hội được nối kết với sứ mệnh của Chúa Giêsu: “Như Cha đã sai Thầy đến thế gian, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Cho nên, sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai.”[2] Việc loan báo Tin mừng sẽ không trọn vẹn nếu không quan tâm đến mối quan hệ giữa Tin mừng và cuộc sống: cá nhân và xã hội của con người, công lý, hoà bình, phát triển và việc giải phóng con người thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật và những bất công.[3] Giáo hội xem lời của Thánh Phaolô như sứ điệp của mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc âm” (1Cr 9,16).

Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền lại cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). Lệnh đó đã được tiếp diễn trong suốt chiều dài lịch sử từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay và muôn đời sau. Trải qua thời gian, Giáo hội không ngừng ban hành các Tông thư, Tông huấn về truyền giáo, để các tín hữu hiểu rõ hơn và ý thức nhiệm vụ cấp bách này. Qua những dẫn chứng trên, người viết muốn trình bày ba điểm về việc truyền giáo, đó là: Ý thức, thao thức, cách thức truyền giáo.

Thứ nhất: Ý thức việc truyền giáo:

Lời kêu gọi của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng và thúc đẩy chúng ta. Thế nhưng, không ít người Kitô hữu vẫn còn bàng quan cho yên phận, thay vì làm chứng cho Chúa thì chỉ lo giữ đạo, giữ đức tin cho vững là đủ. Là “men”, là “muối”, Giáo hội luôn mang trong mình một “nội lực” nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần để tiếp tục biến đổi sao cho phù hợp với sự phát triển không ngừng của thế giới về mọi lãnh vực khoa học kỹ thuật cũng như xã hội nhân văn. Ý thức về sứ vụ của mình, Giáo hội tại Việt Nam cũng đã minh định qua Thư chung của Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010: “Thay vì coi truyền giáo chỉ như một trong những hoạt động của Giáo hội, thì nay cần nhìn sứ mệnh truyền giáo như nắm men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh đời sống Giáo hội. Do đó, cần dành mọi nỗ lực và hoạt động, từ vật chất đến thiêng liêng và mục vụ, cho mục tiêu này.”[4] Công đồng Vatican II đã mời gọi: “Mọi tín hữu đều có bổn phận rất cao cả là hoạt động để mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc âm cứu độ của Chúa.”[5] Thật vậy, “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo.”[6] Cho nên, ta phải ý thức trách nhiệm phận vụ của mình.

Thứ hai: Thao thức truyền giáo:

Dù muốn dù không, mỗi Kitô hữu đều là tông đồ của Đức Giêsu ngay từ ngày lãnh Bí tích Rửa tội. Bí tích này làm cho chúng ta trở thành chi thể của Chúa Giêsu, thông phần vào vai trò ngôn sứ của Ngài, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa. Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên nhẫn. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tm 4,2). Chúa vẫn luôn mời chúng hãy “ra khơi thả lưới” như các môn đệ xưa kia, vì cánh đồng truyền giáo vẫn còn bát ngát bao la. Muốn vậy, chúng ta phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa và yêu người. Chúng ta mến Chúa và yêu mến tha nhân, nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui và hy vọng với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau hơn. Được kêu gọi trở nên hạt giống hy vọng, bổn phận của chúng ta là tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô trong thế giới. Phạm vi sứ mạng và việc phục vụ của Giáo hội không thuộc lãnh vực vật chất, hay cả những nhu cầu tinh thần giới hạn nơi cuộc sống trần thế, nhưng là ơn cứu độ siêu việt, được hoàn tất trong Nước Thiên Chúa.[7] Sống tinh thần Kitô giáo, nghĩa là không “đóng kín cửa lòng”, mà phải mở ra để trao tặng cho nhân loại ân ban mà ta đã nhận từ Chúa Kitô.

Thứ ba: Cách thức truyền giáo:

Có nhiều cách thức truyền giáo, nhưng sau đây là những cách mà người viết nghĩ có thể thể mang lại hiệu quả cao, đó là: Cầu nguyện, sống gương mẫu, bác ái, tiếp xúc các nhân và đối thoại.

Cầu nguyện: Công trình cứu độ là của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là người cộng tác vào công trình ấy. Thật vậy, “nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126,1). Chính Thiên Chúa mới làm cho công cuộc truyền giáo sinh hoa kết quả (x.1Cr 3,6-7). Thánh Phaolô cũng nói: “Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin, và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4,6). Bởi vậy, cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê.

Sống gương mẫu: Truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, như lời căn dặn của Chúa Giêsu: “Mọi người sẽ  nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Thật vậy, không ai có thể loan báo Tin mừng cho người khác, nếu tâm hồn chưa được Phúc âm biến đổi, hay “không ai có thể làm chứng cho Chúa nếu không phản chiếu hình ảnh của Ngài.”[8] Kinh nghiệm của các tín hữu sơ khai cho thấy, đời sống tu đức là căn bản, và là nguồn sinh lực của việc truyền giáo. Mặc dù thiếu thốn và nhiều khốn đốn (1Cr 1,23), nhưng các tín hữu vẫn luôn đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện và siêng năng trong nghi lễ bẻ bánh. Họ sống tình yêu thương chan hòa trong sự chia sẻ với nhau, và nêu cao phẩm chất của đời sống Kitô hữu. Do vậy, họ “được toàn dân thương mến” (Cv 2,46). Nhờ đời sống thánh thiện của các cộng đoàn sơ khai, Tin mừng đã lan tràn khắp nơi.

Bởi vậy, đời sống chứng nhân tốt là cách thức truyền giáo hữu hiệu. Việc làm cụ thể và thiết thực đi kèm với lời nói (rao giảng) mới đủ sức thuyết phục con người thời nay và mới chứng minh được những điều được chúng ta rao giảng là chân thật. Đời sống chứng nhân không chỉ là của các cá nhân, mà còn phải là chứng tá của cả gia đình, cộng đoàn của giáo xứ. Muốn vậy, chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu và với Chúa Thánh Thần như cành nho gắn liền với thân nho (x.Ga 15,1-8), vì không có đời sống siêu nhiên và ơn sủng của Thiên Chúa chúng ta không thể làm được điều gì tốt lành. Sự thánh thiện là dấu chỉ đời sống chứng tá hữu hiệu nhất trong việc truyền giáo. Đức Phaolô VI đã nói: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dạy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng.”[9] Kitô hữu là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12). Một khi được Ngài chiếm đoạt, Chúa Thánh Thần sẽ thúc đẩy làm chứng nhân cho Chúa.

Sống bác ái: Hoạt động tông đồ của Giáo hội phải khởi đi từ đức ái, bởi vì đức ái, theo thánh Phaolô, là một điều gì đó còn lớn lao hơn là một hoạt động: “Giả như tôi có đem hết tài sản mà bố thí, hay nộp thân thể tôi để chịu thiêu đốt, mà không có lòng mến, thì cũng không ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Cũng vậy, thánh Matthêu cho biết: “Anh sáng của anh em phải chiếu toả trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Mục đích của truyền giáo không dừng lại ở việc “cứu các linh hồn”, nhưng đúng hơn là sống đời sống của một Kitô hữu, sống theo Tin mừng và dấn thân làm cho thế giới trở thành một ngôi nhà chung: “Sự hiện diện của các Kitô hữu giữa các nhóm người phải được sống động bằng chính tình bác ái mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và muốn chúng ta cũng yêu thương nhau bằng tình bác ái đó. Bác ái Kitô giáo thực sự lan tràn tới mọi người không phân biệt chủng tộc, hoàn cảnh xã hội hay tôn giáo.”[10] Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (x.Lc 10,25-37) mang đến cho chúng ta tiêu chuẩn để đo lường lòng bác ái. Giới răn yêu thương phải vượt qua những ranh giới địa lý vùng miền, để mở rộng ra cho tất cả những ai cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Giáo hội muốn mọi người biết thế giới thật sự là một ‘ngôi làng chung’, ở đó người ta cảm nhận được mình là thành phần của gia đình nhân loại. Với gia đình này người ta chia sẻ với nhau những niềm vui và những đau khổ, những hy vọng và thử thách. Thật vậy, Giáo hội là cộng đoàn chỉ có một nền tảng duy nhất đó là tình yêu, tình yêu là nội dung và là phương thức về sự hiện diện và sứ vụ của Giáo hội. “Thiên Chúa là tình yêu. Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm như lời Đức Bênêđíctô XVI đã nói: “Việc bảo vệ Thiên Chúa và con người cách tốt nhất nằm ngay trong tình yêu.”[11]

Tiếp xúc cá nhân: Chúng ta không được diễm phúc như các Tông đồ là rao giảng lời Chúa một cách hùng hồn và làm nhiều phép lạ. Sống trong thời đại ngày nay, chúng ta chỉ có thể loan báo Tin mừng cho người khác bằng tiếp xúc cá nhân qua đời sống hằng ngày. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari (Ga 4,1-42) là một minh chứng. Việc Đức Giêsu muốn làm là xây dựng lòng tin tưởng. Tin nhau mới có thể cộng tác với nhau, mới có thể chia sẻ mọi sự cho nhau. Một trong những cách Đức Giêsu xây dựng lòng tin nơi người khác là thể hiện sự quan tâm. Đức Giêsu quan tâm đến chị, thấu hiểu hoàn cảnh của chị và cảm thông với nỗi khổ tâm của chị. Thật vậy, một khi người khác lấy được niềm tin nơi chúng ta, lúc ấy chúng ta sẵn sàng chia sẻ niềm tin và hy vọng của chúng ta nơi Đức Kitô. Muốn cho việc tiếp xúc cá nhân đạt được thành quả, điều cốt yếu là sự cầu nguyện và hi sinh. Ta nói với Chúa về người bạn trước khi nói với bạn về Chúa. Sự học hỏi trau dồi kiến thức thần học giáo dân là một khía cạnh cần cố gắng. Thái độ khiêm cung, nhã nhặn, lịch thiệp, vồn vã và chân tình là những đức tính cần có của chúng ta mỗi khi giao tiếp, để qua đó, mọi người cùng nắm tay nhau phục vụ anh chị em và phụng sự Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới cho lớn lên” (1Cr 3,6). Chúng ta hãy gieo niềm tin và hy vọng nơi những người mà chúng ta gặp gỡ, việc còn lại, hãy để Chúa Thánh Thần tác động nơi họ. Muốn thế, ta phải biết cách đối thoại.

Đối thoại: Đối thoại là một phần thiết yếu trong sứ mạng của Giáo hội, “vì nó xuất phát từ chính sự đối thoại yêu thương ban ơn cứu độ của Chúa Cha với nhân loại qua Chúa Con và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.”[12] Đối thoại là để mở lòng, đón nhận, sống với, phục vụ mọi người bằng tình yêu thương theo gương Chúa Giêsu. Đó là ơn gọi của mỗi Kitô hữu, một ơn mời gọi phải tích cực đi đến với mọi anh chị em để lắng nghe, chia sẻ, hiểu biết, cảm thông, và loan báo Tin mừng bằng chính đời sống mình. Đức Phanxicô kêu gọi: “Tôi muốn thấy một Giáo hội bị bầm giập, tổn thương và lấm lem trên đường dấn thân, chứ không phải là một Giáo hội ‘xanh xao vàng vọt’ vì sống đóng khung và bám víu vào chu vi hàng rào an toàn của riêng mình…”[13] Đối thoại là khiêm tốn nhận ra sự hiện diện kín đáo của Thiên Chúa trong cuộc tranh đấu của người nghèo, trong sự phong phú về văn hóa, trong sự đa dạng về truyền thống tôn giáo và trong thẳm sâu cõi lòng mỗi người. Ðối thoại như thế là lối sống và phương cách truyền giáo của chúng ta. Ðối thoại trở thành nền tảng cho nền linh đạo hiệp thông nhằm canh tân sứ giả Tin mừng.[14]

Tóm lại, lời kêu gọi của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho muôn loài thọ tạo” (Mc 16,15) đang thúc bách chúng ta. Nhìn cánh đồng truyền giáo vẫn còn bát ngát bao la đang chờ đợi mỗi người chúng ta. Vì vậy, chúng ta phải thao thức, ý thức và tìm cách cách thức truyền giáo là bổn phận và nghĩa vụ của của chúng ta. Chúng ta phải tận dụng mọi cơ hội, trong mọi hoàn cảnh để đưa Tin mừng của Chúa đến cho mọi người. Sứ mạng truyền giáo là nhiệm vụ ưu tiên của Giáo hội, như lời Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Nhìn vào số đông nhân loại chưa biết Chúa cũng đủ cho thấy rằng sứ mệnh này mới chỉ đang ở những bước đầu tiên và chúng ta còn cần phải dồn hết mọi nỗ lực của mình cho công trình này.”[15] Vì vậy, lòng nhiệt thành truyền giáo luôn là dấu chỉ sức sống của các Giáo hội chúng ta.

________________________

[1] Cf. Ad Gentes, số 2 trong Công đồng Vaticanô II, (Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972 – Đà Lạt dịch).

[2] Ad Gentes, op. cit., 2.

[3] Cf. Paul VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, no. 29-38 (8 December 1975).

[4] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, số 31.

[5] Apostolicam Actuositatem, số 3 trong Công đồng Vaticanô II, (Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972 – Đà Lạt dịch).

[6] Ad Gentes, op. cit., 2.

[7] Cf. Paul VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, op. cit., 27.

[8] John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio, op. cit., 87.

[9] Francis, Evangelii Nuntiandi, op. cit., 41.

[10] Ad Gentes, op. cit., 12.

[11] Benedict XVI, Encyclical Letter Deus Caritas Est, no. 31 (December 25, 2005): AAS 98 (2006), 245.

[12] John Paul II, Ecclessia in Assia, op. cit., 29.

[13] Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium, no. 49 (24 November 2013): AAS 105 (2013).

[14] Cf. Sứ điệp Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội đồng giám mục Á châu, số 5.

[15] John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio, op. cit., 1.

 

6. Khánh Nhật truyền giáo – Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ năm 2015, , Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong Tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii): “ Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.

Truyền giáo là lên đường.

Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hy sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..( Lc 9,3). Vì vậy, truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín năm 2015, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: “ Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.

Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.

Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv 10, 38; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.

Truyền giáo là bản chất của Giáo hội

Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: “ Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là:‘Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: “ Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: “ Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức “ ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.

Chứng nhân hơn là thầy dạy

Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: “ Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: “ Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.

Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: “ Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”

Kết luận: Chứng tá Tin mừng

Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng, nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”

Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.

 

7. Rao Giảng Tin Mừng với Lòng Thương Xót

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Suy niệm Khánh nhật Truyền giáo (Is 1, 1-5; 1 Tm 2, 4 - 6; Lc 24,44-53)

Tháng 10, tháng truyền giáo

Tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cho cầu thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo. Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho những công cuộc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong cuộc hành trình Ðức Tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi Mân Côi và là Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn đưa tất cả chúng ta đến với Chúa Kitô, và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.

Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.

Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa... trong ngày sau hết” (x. Is 1, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết rằng: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo. Nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gửi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.

“Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 46-48).

Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình...nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của toàn thể Giáo hội, vốn bởi bản chất là thừa sai (x.Ad gentes, số 2). Trích dẫn lời Chân phước Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”

Lòng thương xót là linh hồn của truyền giáo

Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Lòng Thương Xót. Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn xót thương đến thí mạng để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa. Nơi Ngài, tình yêu và lòng thương xót chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy Vọng cho toàn thế giới.

Trong sứ điệp nhân ngày thế giới truyền giáo lần thứ 90 với chủ đề “Giáo hội thừa sai, chứng nhân lòng thương xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Khi đón nhận và theo Chúa Giêsu qua Tin Mừng và các bí tích, nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta trở thành một món quà nhưng không, dấu chỉ lòng nhân lành của Ngài” (Misericordiae Vultus 3).

Nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao vai trò của phụ nữ và các gia đình trong việc biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa rằng “Có bao nhiêu người nam nữ thuộc mọi lứa tuổi và giai tầng xã hội, đã và đang làm chứng về tình yêu thương xót của Chúa, như trong thời kỳ đầu qua kinh nghiệm của Giáo Hội. Dấu chỉ hùng hồn về tình yêu thương từ mẫu của Thiên Chúa là sự hiện diện gia tăng đáng kể của nữ giới trong thế giới truyền giáo, bên cạnh sự hiện diện của nam giới. Các phụ nữ, nữ giáo dân và các người nữ thánh hiến, và ngày nay cũng có nhiều gia đình, đang thực thi ơn gọi truyền giáo của họ dưới nhiều hình thức khác nhau: từ việc trực tiếp rao giảng Tin Mừng cho đến các dịch vụ bác ái.”

Đức Thánh Cha thêm: “Bên cạnh hoạt động loan báo Tin Mừng và cử hành các bí tích do các nam thừa sai đảm nhận, cũng có các phụ nữ và các gia đình hiểu biết một cách thích hợp hơn các vấn đề của dân chúng và biết đương đầu với các vấn đề ấy một cách thích hợp, và đôi khi một cách ”chưa từng có”: qua sự chăm sóc cuộc sống, đặc biết chú ý đến con người hơn là các cơ cấu, tận dụng mọi tài nguyên nhân bản và tinh thần để xây dựng sự hòa hợp, các quan hệ, hòa bình, liên đới, cộng tác và tình huynh đệ, trong lãnh vực các tương quan giữa con người với nhau, cũng như trong lãnh vực rộng hơn lớn của đời sống xã hội và văn hóa, nhất là việc chăm sóc người nghèo”.

Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà của tình yêu và thương xót mọi người; một người mẹ xót thương cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.

 

8. Nhân chứng Phúc Âm – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

(Bài giảng Lễ Khánh nhật truyền giáo của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình.

Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình. Sau mỗi Thánh lễ, vị chủ tế tuyên bố với cộng đoàn tham dự: “Lễ xong, chúc anh em đi bình an!”. Đây không chỉ là lời chào tạm biệt trước lúc chia tay. Đây chính là lời sai đi, mang nội dung và ý nghĩa như lời Chúa nói với các tông đồ trước khi về trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo…” (Mc 16,15). Như vậy, vào lúc thánh lễ trong phụng vụ kết thúc, cũng là lúc khởi đầu cho một cuộc lên đường mới để loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu.

Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa tổ chức Đại hội tại Trung tâm Mục vụ Sài-gòn từ ngày 7 đến ngày 12 tháng 10-2013. Trong Thư Chung gửi cho cộng đoàn Dân Chúa, các Giám mục đã chọn đề tài Tân Phúc-Âm-Hóa như một định hướng cho Giáo Hội công giáo tại Việt Nam. Đó cũng là thao thức của các vị Giáo Hoàng trong thời hiện đại này. Có một nghịch lý hiện nay, đó là ngày càng có nhiều hiệp hội truyền giáo ở cấp quốc tế cũng như cấp địa phương, nhưng số tín hữu công giáo thực hành Đức tin lại ngày càng giảm. Phải chăng đó là hậu quả của não trạng cho rằng việc truyền giáo là của các linh mục và tu sĩ. Chính vì vậy, Giáo Hội luôn khích lệ người tín hữu tham gia cộng tác trong sứ vụ cao cả này, với hy vọng công cuộc truyền giáo sẽ đem lại nhiều kết quả tích cực.

Thế nào là Phúc-Âm-hóa? Đó là “mang Tin Mừng đến mọi môi trường nhân loại và, nhờ sự tác động này, làm biến đổi từ bên trong, đổi mới chính nhân loại:”Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5; ĐGH Phaolô VI,Tônghuấn Loan Báo Tin Mừng, 18). Phúc-Âm-Hóa là làm cho tinh thần của Phúc Âm được thấm nhuần trong mọi lãnh vực của cuộc sống, từ việc giải trí đến việc lao động; từ đời sống gia đình đến xã hội; từ người già đến người trẻ… Tân Phúc-Âm-Hóa là một cách thức canh tân để loan báo Phúc Âm có hiệu quả hơn. Đức Chân phước Gioan Phao-lô II đã giải thích khái niệm Tân Phúc-Âm-hóa trong bài diễn từ tại Đại hội lần thứ 19 của HĐGM Mỹ Châu năm 1983: “Tân Phúc-Âm-Hóa không phải là loan báo một Phúc Âm mới, nhưng là mới trong nhiệt thành, trong phương cách, trong cách diễn đạt”’. Như thế, mọi thành phần Dân Chúa, từ giáo sĩ đến giáo dân phải kiểm điểm lại cách thức truyền giáo của mình. Phải chăng phương pháp truyền giáo của chúng ta không còn hợp thời, hoặc thiếu lửa truyền giáo nên không đem lại những kết quả như chúng ta mong muốn.

Trong nhiều định nghĩa về truyền giáo, chúng ta thường hay nghe nói đến một khái niệm: truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Chúng ta dành ít phút để suy tư về khái niệm này.

“Làm chứng” chính là lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi Chúa về trời: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Trong cuộc sống đời thường, nhiều khi chúng ta đã được mời làm chứng về một vụ việc xảy ra hoặc một tranh chấp quan trọng. Người làm chứng là nhân vật trung gian giữa hai bên. Muốn làm chứng, chúng ta phải biết rõ nội dung vụ việc đã xảy ra, với những chi tiết quan trọng có liên quan. Người làm chứng cũng phải là người có cuộc sống tốt, có uy tín, đáng tin đối với cả hai bên đang tranh chấp.

Truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Để làm chứng cho Chúa, trước hết chúng ta phải hiểu Chúa, biết Chúa và tin vào Chúa. Một người không tin Chúa hoặc có một đức tin sơ sài thì không thể “kể về Chúa” được. Tiếp đến, người làm chứng phải có một cuộc sống tốt lành thì chứng của người đó mới đáng tin và có giá trị thuyết phục người khác. Một người nói về Chúa mà chính bản thân họ không sống những lời Chúa dạy thì không thể thuyết phục người khác theo Chúa, thậm chí họ còn làm biến dạng giáo huấn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội.

Trở lại với Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Các Giám mục kêu mời các thành phần Dân Chúa, nhất là các linh mục, cộng tác nhiệt thành để truyền giáo theo những sáng kiến và phương pháp hợp với thời đại, được thúc đẩy bởi nhiệt tình mới, nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ đem đến cho Giáo Hội Việt Nam những mùa lúa chín dồi dào. Một cách cụ thể, trong năm 2014 sắp tới, các vị chủ chăn mong muốn chúng ta dành thời giờ và tâm huyết cho việc “Phúc-Âm-hóa gia đình”, tức là việc học giáo lý hôn nhân đối với các bạn trẻ; là trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái; là việc cầu nguyện chung thường xuyên trong gia đình. Những việc làm đó nhằm củng cố tình yêu gia đình và giáo dục Đức tin cho các thế hệ tương lai.

 

9. Liên lỉ quấy rầy - JM. Lam Thy ĐVD.

Trước đây, Đức Ki-tô đã kể dụ ngôn “Người bạn quấy rầy” (Lc 11, 1-13) nói về một người bạn đến xin bạn bánh vào nửa đêm. Trong bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXIX/TN-C – Lc 18, 1-8), Người lại kể một dụ ngôn về “quấy rầy”. Chuyện lần này không phải là bạn bè ngang vai phải lứa quấy rầy nhau, mà là chuyện một bà goá quấy rầy một ông quan toà. Quan hệ hai bên là quan hệ giai cấp, giữa một bên là giai cấp thống trị và bên kia là giai cấp bị trị. Không có chuyện bạn bè nể tình nhau, và đối tượng bị quấy rầy lại là kẻ “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (Lc 8, 2). Vậy mà cuối cùng cũng đành thua cái đức “lì” của bà goá.

Trong xã hội Do thái thời đó, các bà goá thường bị xã hội đối xử bất công, bị ức hiếp, bóc lột tàn tệ. Chạy đến với quan toà vì bà nghĩ quan toà là những người chuyên xử án công minh và sẵn sàng bênh vực những kẻ cô thế, cô thân. Nhờ niềm tin ấy, bà hy vọng sẽ đạt được ước nguyện, vì thế, bà kiên trì đến cầu xin người mà bà tin sẽ cứu giúp mình. Bà đã thành công nhờ đã hết lòng tin tưởng vào quan toà và liên lỉ “quấy rầy”. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này: Với một quan phụ mẫu bất lương như thế, nhưng nhờ lòng tin và nhất là sự bền lòng liên tục “quấy rầy” của bà goá, việc bà kêu xin rốt lại cũng được giải quyết. Ngụ ý trong dụ ngôn này đã nổi bật: "Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?” (Lc 18, 6-7).

Cả hai dụ ngôn (“Người bạn quấy rầy” và “Quan toà bất chính và bà goá quấy rầy”) đều ngụ ý răn dạy: "Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho" (Mt 7, 7-8). Quả thật, khi xin ai một điều gì thì phải biết nhìn lại mình xem có thực sự là thiếu thốn, nghèo đói hay không và nhất là có thực sự tin tưởng vào người mà mình muốn cầu xin hay không. Một cách cụ thể khi cất tiếng cầu xin Thiên Chúa thì không những cần phải có đức tin vững mạnh, mà đồng thời còn phải biết nhìn lại con người tội lỗi, bất toàn của mình, mà cầu xin ơn tha thứ trước khi xin những ơn khác. Ấy là chưa kể khi cầu xin thì không chỉ cầu xin cho bản thân mà còn phải biết cầu cả cho những “người thân cận” trong khắp tứ phương thiên hạ.

Nói cầu xin Thiên Chúa tức là nói đến cầu nguỵên. Thật vậy, phải hết lòng tin tưởng vào Đấng Công Chính mới liên lỉ cầu nguỵên. Dạy môn đệ phương cách kiên trì cầu nguyện, nhưng đến câu kết thúc, Đức Giê-su lại nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Thật chua xót khi Người nói câu này lại là Người hiện diện trên mặt đất với mục đích thắp sáng lại niềm tin đã bị lu mờ của nhân loại. Con Người ấy, từ cuộc sống vật chất đạm bạc nơi một làng quê hẻo lánh, đến cuộc sống tinh thần vô vàn phong phú bởi những Lời giảng dạy, những câu chuyện kể, những việc làm, thậm chí đến hy sinh cả tính mạng, chỉ nhằm mục đích củng cố lại niềm tin cho loài người để tiến tới mục đích tối hậu là cứu độ nhân loại cho khỏi sự chết đời đời. Con Người kỳ vĩ ấy chính là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, đã đến thực thi sứ mệnh như vậy đó, nhưng những người được gặp, được tiếp xúc, được dạy dỗ… đã đón tiếp như thế nào, để đến độ Người phải thốt lên câu nói chua xót như vậy? Và quả nhiên đó là một lời tiên tri, bởi cho đến ngày hôm nay, số người được nghe lời chân lý vẫn chỉ là một thiểu số khiêm nhường so với con số người chưa được nghe rao giảng. Ngay trong số những người đã được nghe, được biết Tin Mừng cứu độ, thì chẳng hiểu những người thực lòng tin tưởng có được là bao nhiêu phần trăm?

Rõ ràng, Đức Giê-su Ki-tô đã dùng những hình ảnh thật quen thuộc, thật gần gũi và rất hiện thực trong cuộc sống đời thường để dạy dỗ các tín hữu, nên mới nói đến sự quấy rầy khi cầu xin để đạt hiệu quả. Thiên Chúa không phải là người bị quấy rầy trong dụ ngôn “người bạn quấy rầy”, lại càng không phải là nhân vật quan toà bị quấy rầy trong dụ ngôn “quan toà bất chính và bà goá quấy rầy”. Tấm lòng Người Cha Nhân Hậu luôn rộng mở đối với con cái, chưa cần nghe lời cầu xin thì Người đã sẵn lòng minh xét, ban phát ân huệ. Thật vậy, “Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người goá bụa” (Hc 35, 14).

Duy chỉ có một điều là con cái tội lỗi, bất toàn, có thực lòng ăn năn, thực lòng tin, thực lòng cầu xin hay không, mà thôi. Lời dạy “kiên trì quấy rầy” của Người là muốn các tín hữu kiên trung trong đức tin và liên lỉ trong việc “nâng tâm hồn và trí khôn lên với Thiên Chúa” (cầu nguỵên). Bởi cuộc sống trần thế có muôn vàn khó khăn, thử thách lòng tin của con người, nên phải vững vàng trong đức tin trước đã, nhiên hậu mới nói đến kiên trì cầu nguyện. Và như thế thì còn lo gì “Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?” (Lc 18, 7), chẳng lẽ con cái lâm cảnh khốn cùng đến cầu xin mà Người Cha Nhân Hậu lại ngoảnh mặt làm ngơ không ban những của tốt lành sao? (Lc 11, 13).

Bài học về “kiên nhẫn cầu xin” đã sáng tỏ, nhưng còn vấn đề tại sao Giáo Hội lại để bài Tin Mừng này vào Chúa nhật Truyền Giáo? Cũng đã có những ý kiến cho rằng không lẽ Truyền Giáo lại là đi cầu xin những người “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (Lc 8, 2) sao? Mới nghe qua vấn nạn này thì thấy có lý, nhưng suy nghĩ cho thấu đáo thì sẽ thấy ngụ ý trong dụ ngôn hôm nay mới thực sự là vấn đề cốt tuỷ của Truyền Giáo. Truyền giáo ư? Chắc cũng không cần phải định nghĩa lại việc truyền giáo, vì nó là sứ vụ duy nhất, nhất quán của Giáo Hội, của mỗi Ki-tô hữu (“Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần thế và trong lịch sử thế trần, chính trong lịch sử này mà Thiên Chúa hoàn thành lịch sử cứu rỗi một cách rõ rệt nhờ việc truyền giáo.” – Sắc lệnh “Truyền Giáo”, số 9)

Sứ vụ chỉ có một, nhưng thể hiện ra bằng việc làm, bằng hành động thì muôn màu muôn vẻ, không nhất thiết phải cứ thế này hay thế khác. Hoạt động truyền giáo không chỉ giới hạn trong việc "giảng đạo" (như trước đây ở Việt Nam vẫn có quan niệm như vậy, và do đó mà cho rằng chỉ có các linh mục, tu sĩ, các vị thừa sai... mới được giảng đạo, còn giáo dân thì chỉ việc nghe và chấp hành). Công việc truyền giáo cũng ví như các cành nho (Ki-tô hữu) hút nhựa từ thân cây nho (Đức Giê-su Ki-tô) và có bổn phận phải trổ sinh hoa trái. Chính vị sứ giả truyền giáo vĩ đại Giê-su Ki-tô cũng nhiều lần răn dạy môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15, 5), "Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 13-14). Là cành nho mà không trổ sinh hoa trái, là muối mà nhạt nhẽo, là ành sáng mà lu mờ (như “đèn để trong thùng”), thì liệu công việc có đạt hiệu quả không?

Với nhãn quan truyền giáo đó, nhìn lại dụ ngôn “Quan toà bất chính và bà goá quấy rầy” sẽ thấy nổi bật 2 điểm: Kiên trì cầu nguyện và khiêm nhường chịu lụy. Cầu nguyện là nâng tâm hồn và trí khôn lên với Thiên Chúa (“tâm hồn” chính là tấm lòng “mến Chúa yêu người”, còn “trí khôn” là phải xét xem mình sẽ xin những gì, những điều xin ấy có lợi cho riêng mình đã đành, nhưng có mưu ích cho người khác hay lại làm hại người khác (“ích kỷ hại nhân”)? Ngoài ra, nếu đời sống tâm linh của người truyền giáo được cắm rễ sâu trong hoạt động cầu nguyện hy sinh (khiêm nhường chịu luỵ), thì mọi việc làm đều có giá trị truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Nhờ thế, nhìn thấy gương cầu nguyện, gương hy sinh của những người truyền giáo, người ta sẽ được đánh động, được cảm hoá.

Cứ nhìn lại gương các Tông đồ trong Giáo Hội tiên khởi thì đủ rõ. Trước ngày lễ Ngũ Tuần, hoạt động truyền giáo của các ngài vẫn chưa thật sự thăng hoa. Sau khi Chúa về Trời, “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.” (Cv 1, 14), và đến ngày Lễ Ngũ Tuần thì Thần Khí Chúa hiện xuống và kết quả là các ngài đã trở thành những nhà Truyền Giáo kiệt xuất. Các ngài không chỉ trở nên những người loan báo Tin Mừng Cứu Độ bằng phong cách rao giảng tuyệt vời, mà còn bằng cuộc sống khiêm nhường chịu luỵ đến độ hy sinh cả tính mạng mình làm chứng nhân anh hùng cho Cứu Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh.

Trên cánh đồng Truyền Giáotoàn cầu, các Tông đồ tiên khởi đã minh chứng rõ ràng đức tính căn bản của truyền giáo là kiên trì cầu nguỵên và khiêm nhường nhẫn nhục. Cách riêng, trải dài theo lịch sử Giáo Hội Việt Nam, các giáo sĩ và giáo dân trong vai trò rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, đã gặp không ít những đối tượng cỡ như viên quan toà “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Nếu các ngài không kiên trì nhẫn nhục, thì liệu có được cánh đồng màu mỡ như ngày nay không? Nếu các ngài không liên lỉ cầu nguyện và hy sinh thì có được kết quả 130.000 anh hùng tử vì đạo với 117 vị được tuyên phong hiển thánh hay không?

Tóm lại, tính chất “duy nhất, thánh thiện và tông truyền” của Giáo Hội Công Giáo đã có được vì noi gương truyền thống các Tông đồ tiên khởi (TÔNG TRUYỀN) sống hịêp thông (DUY NHẤT) trong tôn chỉ cầu nguyện (THÁNH THIỆN), nên có thể khẳng định Giáo Hội là “một-cộng-đồng-hiệp-thông-và-truyền-giáo”, vì “Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông. Chính một Chúa Thánh Thần kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội và sai Giáo Hội đi rao giảng Phúc âm "khắp trên mặt đất" (Acts. 1, 8).” (Tông Huấn “Ki-tô hữu Giáo dân” – Ch. III, số 32).

Ôi! Lạy Chúa Ki-tô! Xin cho con trưởng thành trong việc cầu nguyện. Xin đừng để đời sống tâm linh của con bị xói mòn, kém phát triển vì cách cầu nguyện ấu trĩ và nhất là đầy ích kỷ của con. Xin dạy con biết cầu nguyện, biết sống khiêm nhường nhẫn nhục trước mọi nghịch cảnh như những thử thách trui rèn cho sứ vụ Truyền Giáo mà Chúa đã trao cho con khi con được nhận lãnh Bí tích Thánh Tẩy (tham dự vào 3 chức vụ của Chúa: “ngôn sứ, tư tế, vương giả”). Ôi! Lạy Chúa!

Cúi xin Chúa ban Thần Khí Tình Yêu cho con để con không chỉ cầu nguỵên cho riêng mình, mà là cầu cho cả những “người thân cận” của con trên khắp năm châu bốn biển, như xưa Chúa đã dạy con cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha. Amen.

 

10. Truyền lửa yêu thương – Mt 28, 16-20

Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường bảo vệ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!

Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ.” Nhưng thử hỏi: nếu ai cũng cầu xin thế nầy, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.

Vậy thì lời cầu nguyện thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải dâng lên Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”

Dù muốn dù không, chúng ta cũng là ngôn sứ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thánh tẩy. Bí Tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.

Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, …dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)

Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).

Vì đây là bổn phận của mọi chi thể Chúa Giêsu nên chỉ khi nào chúng ta tự tách lìa mình ra khỏi Hội Thánh là Thân Thể Chúa, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.

Truyền giáo là truyền lửa yêu thương

Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.

Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giêsu thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần phải được tiếp nối không ngừng.

Thánh Têrêxa Calcutta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.

Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian (mà ta cần yêu thương trọn vẹn) trong giây phút đó.”

Với tâm tình nầy, Mẹ Tê-rê-xa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!

Theo gương Mẹ Tê-rê-xa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.

Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Ki-tô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh.

 

home Mục lục Lưu trữ