Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1367600

LỜI KINH CỦA MỖI CÁ NHÂN

Lời kinh của mỗi cá nhân.

Sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với cá nhân mỗi người chúng ta.

Trước hết tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể. Năm 1507, ông Valentinô bị một bọn cướp bắt cóc để tống tiền. Chúng đã xiềng chân và khóa tay ông, rồi giam ông trong một ngọn tháp cao, tối tăm, bẩn thỉu và hôi hám. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, ông và gia đình vẫn tin tưởng và lần hạt kính Đức Mẹ. Rồi một lần kia, khi đã cầu nguyện xong, ông vô cùng bỡ ngỡ vì bỗng thấy xiềng xích đều mở ra. Tay chân được thong dong, ông bắt đầu lần mò trong bóng tối, gõ khắp lượt vào tường tháp, đến một chỗ ông nghe bục bục và ọp ẹp. Ông đẩy mạnh và viên đá nhúc nhích. Ông vội cậy viên đá để tìm lối thoát thân và thế là ông chạy trốn được bình an vô sự. Phải chăng Đức Mẹ đã cứu chữa ông và ban xuống cho gia đình ông niềm an ủi.

Kinh Mân côi không phải chỉ cứu chữa phần xác, mà nhất là nó còn cứu chữa phần hồn. Hélène là một nàng kỹ nữ đã làm cho bao nhiêu người say đắm. Ngày kia nàng theo chị em bạn vào trong một nhà thờ, gặp lúc vị linh mục đang giảng về kinh Mân côi. Về nhà, nàng mua một cỗ tràng hạt, và thỉnh thoảng cũng lần trộm vì sợ thiên hạ trông thấy và chê cười. Ít lâu sau, nàng được Đức Mẹ ban ơn sốt sắng khi lần hạt. Rồi từ đó, nàng ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời, quyết tâm dâng mình cho Đức Mẹ, sống một cuộc sống nghèo khó và nhân đức.

Có một thiếu phụ khác, thuộc gia đình quí phái, chẳng may bị bệnh nặng và đang trong cơn hấp hối. Đức cha Dupanloup được mời đến viếng thăm. Ngài nhận thấy bệnh nhân rất bình thản khi hỏi: Thưa Đức cha, liệu con có được lên trời hay không? Cha hy vọng là có. Bệnh nhân đáp lại: Còn con, con tin đó là một điều chắc chắn. Sao con có thể tin chắc chắn như thế? Thưa Đức cha, từ nhỏ cho đến nay, mỗi ngày nhiều lần con đã kêu xin Mẹ giúp con trong giờ lâm tử, lẽ nào Mẹ lại bỏ rơi con.

Qua những chứng tích sống động ấy, chúng ta nhận thấy kinh Mân côi đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều cả về phần hồn lẫn phần xác. Bởi đó từ xưa cho đến nay, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc với người tín hữu.

Tuy nhiên, chúng ta phải lần hạt như thế nào để việc đạo đức này thực sự đem lại những lợi ích cho bản thân chúng ta? Tôi xin thưa vừa đọc, chúng ta vừa phải suy gẫm về những mầu nhiệm kinh Mân côi đã gợi lên cho chúng ta, và nhất là chúng ta phải sống tinh thần kinh Mân côi, thực hiện những nhân đức mà chúng ta van xin ở mỗi ngắm. Có như thế, kinh Mân côi mới trở nên là như hơi thở của tâm hồn, cũng như trở nên là như những cánh hồng tươi xinh dâng kính Mẹ, để Mẹ ban xuống cho bản thân chúng ta những ơn lành hồn xác.

 

14. “Kết nối” với Chúa Giêsu qua Đức Mẹ.

(Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh)

“KẾT NỐI” VỚI CHÚA

  1. Đôi dòng lịch sử hình thành kinh Mân côi.

Kinh mân côi nguyên tiếng Latinh là Rosarium, tiếng Anh, tiếng Pháp là Rose, nghĩa là hoa hồng. Ý muốn nói rằng, những kinh Kính mừng mà chúng ta đọc và suy gẫm kết thành chuỗi Hoa Hồng thiêng dâng kính Đức Mẹ.

Xưa kia, khi tràn chuỗi chưa ra đời, người ta đếm kinh bằng hạt sỏi, dần dần người ta kết những hạt khác thành chuỗi Mân côi gọi là Rosary.

Trong Hội Thánh, có thói quen cầu nguyện bằng Thánh vịnh, nhưng đối với đại đa số người, 150 Thánh vịnh dài quá không thể đọc được. Từ thế kỷ XII, người ta thay thế bằng việc đọc 150 kinh Lạy Cha. Dần dần người ta đọc 150 kinh Kính Mừng thay 150 kinh Lạy Cha. Do đó Thánh Đaminh gọi là “Thánh vịnh Đức Mẹ”.

Ban đầu, kinh Kính mừng chỉ có lời chào của thiên thần Gabriel: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Sau đó, người ta thêm lời chào của bà Elizabeth: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và Con lòng Bà gồm phúc lạ” (Lc 1, 42). Cũng trong thế kỷ XII, Đức Mẹ hiện ra trao tràng hạt Mân côi cho Thánh Đaminh và dạy thánh nhân phổ biến tràn hạt này, như là phương thế cầu nguyện để cải hoá bè rối Albigensê đang tung hoành ở phía nam nước Pháp. Sang thế kỷ XIII, Đức Urbanô IV thêm vào lời chào của bà Elizabeth Thánh Danh “Giêsu”. Từ đó, chúng ta đọc là “…Và Giêsu Con lòng Bà…”.

Thời đó, người ta đọc 150 kinh Kính mừng cùng với 150 kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi kinh Kính mừng một kinh Lạy Cha. Đến thế kỷ XIV, thầy Henry Kalkar (1328-1408), dòng Carthusian do Thánh Brunô sáng lập, chia 150 kinh Kính mừng thành từng chục 10 kinh, đầu mỗi chục kinh là một kinh Lạy Cha.

Thế kỷ XV, Cha Đaminh Prussia (1384-1460) cũng dòng Carthusian chia 150 Kinh Kính mừng thành 3 chỗi 50. Cũng trong thế kỷ này, Chân phước Alanô de la Roche thêm phần suy niệm các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng trong khi lần chuỗi. Từ nay tràng kinh Mân côi gọi là “Vòng hoa hồng”.

Chân phước Alanô nhiệt thành phổ biến kinh Mân côi mà Đức Mẹ đã truyền cho Thánh Đaminh. Ngài cũng thành lập Hội Mân côi năm 1480 và được Đức Mẹ hứa ban 15 ơn cho những ai trung thành đọc kinh Mân côi.

Năm 1521, linh mục Albertô da Castello, sửa lại: trước mỗi kinh Lạy Cha và chục kinh Kính mừng được kết vào một mầu nhiệm. Năm 1569, Đức Thánh Cha Piô V cho thêm phần thứ hai của kinh Kính mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời…” và kinh Sáng danh ở cuối mỗi chục.

Tháng 10.2002, thánh Gioan Phaolô II mở năm kinh Mân côi và thêm vào chuỗi Mân côi truyền thống năm mươi kinh Kính mừng đi liền với năm mầu nhiệm về cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, gọi là năm mầu nhiệm sự Sáng.

Với việc thêm này, chuỗi Mân côi từ nay có đến 200 kinh Kính mừng. Kể từ đó, kinh Mân côi có hình thức như chúng ta đọc ngày nay.

  1. “Kết nối” với Chúa Giêsu qua Đức Mẹ.

Chuỗi Mân côi, chuỗi hoa hồng. Người tín hữu đọc kinh Mân côi với ý nghĩa là từng lời kinh mà họ đọc được ví như từng đóa hoa hồng dâng lên Đức Mẹ, và kết hợp với Đức Mẹ, dâng lên Chúa Giêsu.

Vì thế, mỗi khi lần chuỗi, người tín hữu kết thành tràng hoa hồng thánh thiện, dâng tấm lòng, dâng tình mến, dâng tâm hồn, dâng quyết tâm sống đẹp lòng Chúa như Đức Mẹ. Do đó, khi lần chuỗi, là người tín hữu ấp ủ hoa hồng thiêng liêng, hoa hồng mầu nhiệm của lòng mình kính dâng Đức Mẹ và hợp với Đức Mẹ mà tôn thờ Chúa.

Đặc biệt, dù kinh Mân côi là lời kinh mà người tín hữu dùng để cầu nguyện, và tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ, thì cũng là lời kinh mà chính Đức Mẹ cũng dùng để cầu nguyện. Bởi thật lạ lùng, trong những lần hiện ra ở Lộ Đức hay ở Phatima, người ta đều nhìn thấy Đức Mẹ cầm tràn chuỗi và lần chuỗi. Đức Mẹ cùng cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi với con cái của mình.

Đọc những kinh Kính mừng, vì là lời kinh trực tiếp hướng lên Đức Mẹ, do đó, cũng là lời kinh cho ta được kết nối với Đức Mẹ.

Nhưng quan trọng hơn, khi đọc kinh Mân côi, ta lại được cùng Đức Mẹ kết nối với Chúa Kitô. Điều đó được thấy rõ qua hai bằng chứng:

– Trong kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Đức Mẹ để được nối kết với Con của Người. Qua Đức Mẹ đến với Chúa Giêsu.

– Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân côi: mùa Vui, mùa Sáng, mùa Thương, mùa Mừng. Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Chúa Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Sáng trong mầu nhiệm Chúa Giêsu công khai loan báo Tin Mừng, công bố ơn tha tội và ban Nước Trời cho mọi người tin; Thương trong mầu nhiệm Tử nạn, Chúa Giêsu chịu chết, chuộc tội cho cả nhân loại; Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giêsu bước vào vinh quang mang ơn cứu độ đời đời cho mọi người.

Kết nối với Chúa Giêsu là kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu sự kết nối này, kết nối với Đức Maria sẽ còn lỏng lẻo, chưa lên đến đỉnh điểm, chưa mang lại sức sống cứu độ. Bởi Chỉ có Chúa Kitô, mới là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta. Vì thế, chỉ có kết nối với Người, ta mới đạt tới sự thánh thiện hoàn hảo. Đức Maria chỉ là con đường dẫn ta đến cùng Chúa Kitô.

Trên đường trọn lành của ta có Đức Mẹ cùng đồng hành, đó là điều quý giá vô cùng. Để Đức Mẹ hướng dẫn, giáo dụ, đó chắc chắn là điều Chúa Giêsu muốn. Bởi Chúa ban cho Đức Mẹ được mẹ chúng ta, và chúng ta được làm con của Đức Mẹ, tất cả đều không ngoài mục đích: Chúa dạy chúng ta, muốn đi về vĩnh cửu, hãy học gương thánh thiện của Đức Mẹ, hãy để Đức Mẹ đồng hành, hãy “nối kết” liên lỉ với Chúa cùng Đức Mẹ và như Đức Mẹ.

Bằng tràng chuỗi Mân côi, chúng ta, con của Đức Mẹ, sẽ sống trong phúc lành của Chúa. Bởi Chúa đã yêu Đức Mẹ, thì chúng ta, những môn đệ của Chúa, chắc chắn cũng sẽ được Chúa tỏ lòng mến thương không kém.

 

15. Kinh Mân Côi.

Hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về kinh Mân Côi. Trước hết kinh Mân Côi là một việc đạo đức bắt nguồn từ Phúc Âm.

Thực vậy, kinh Lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh mà chính Chúa đã dạy cho các môn đệ. Còn kinh Kính Mừng là gì nếu không phải là lặp lại lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabet. Tất cả đều được rút ra từ Phúc Âm. Hơn thế nữa, chúng ta còn sống lại trọn bộ Tin Mừng qua những mầu nhiệm của kinh Mân Côi. Đúng thế 20 mầu nhiệm làm một bản tóm lược Tin Mừng, trình bày cho chúng ta những giai đoạn chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu từ khi nhập thể cho đến lúc về trời, cao điểm của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trên môi trên miệng, mà còn là những đề tài suy gẫm. Đây là một việc làm hết sức đơn giản. Chúng ta chỉ cần mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh mà mỗi mầu nhiệm gợi lên, cũng giống như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Nó không đòi buộc chúng ta phải suy gẫm từng lời chúng ta đọc hay dừng lại lâu giờ nơi mỗi mầu nhiệm. Chẳng hạn chúng ta mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thánh giá và chúng ta nghĩ đến những khổ đau chúng ta phải gánh chịu. Như thế mà thôi cũng đã đủ lắm rồi. Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, chỉ đánh giá theo những kết quả đã đạt được, nhưng Ngài còn là một người cha nhân từ thấu rõ thiện chí của mỗi người chúng ta. Nói vậy không có nghĩa là xoá bỏ những con đường dẫn chúng ta tới đỉnh cao trọn lành. Như thế kinh Mân Côi sẽ là một việc đạo đức thích hợp cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, sẽ đem lại cho chúng ta một nguồn nghị lực thiêng liêng.

Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức luôn được Giáo Hội cổ võ.

Thực vậy các Đức Thánh Cha không ngừng khuyến khích chúng ta siêng năng lần chuỗi. Đức Thánh Cha Piô IX khuyên chúng ta lần hạt tại gia đình trong những giờ kinh tối sớm. Ngài nói: Kinh Mân Côi là một kho tàng quý giá của Giáo Hội công giáo. Tiếp đó, Đức Thánh Cha Lêô XIII còn đi xa hơn nữa và người ta đã dành cho ngài tước hiệu là Đức Thánh Cha của kinh Mân Côi. Ngài đã công bố cả thảy 12 thông điệp và 8 văn kiện khác nữa bàn về kinh Mân Côi. Chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi để thúc đẩy việc lần chuỗi, cũng như đã thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắn nhủ: Nếu các con muốn cho gia đình mình được bình an và hạnh phúc thì hãy lần chuỗi với nhau mỗi buổi tối. Đức Thánh Cha Piô XII đã huấn dụ: Chúng ta khuyên nhủ những người cha, những người mẹ trong gia đình, hãy tập cho con cái thói quen lần chuỗi, và ngay cả chúng ta nữa, chúng ta vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Năm 1951, trong một thông điệp, ngài đã tha thiết hêu gọi những người công giáo hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng này để cầu xin những ơn lành cho Giáo Hội và cho nhân loại. Chính ngài khi đã 80 tuổi, mặc dù bận rộn nhiều công việc nhưng ngài đều lần chuỗi trước khi đi ngủ. Rồi gần đây, Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đều đề cao giá trị của kinh Mân Côi và khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi.

Để kết luận tôi xin kể lại mẫu gương của thầy Peyton. Thầy bị bệnh nặng, các bác sĩ đều chịu thua, tuy nhiên trong âm thầm mẹ thầy đã xin được chết thay cho thầy. Lời cầu xin được Đức Mẹ nhận lời, thầy được bình phục và được thụ phong linh mục. Mẹ chết. Dành trọn cuộc sống để loan truyền sứ điệp Fatima và kinh Mân Côi.

Với chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ cho bản thân chúng ta, gia đình chúng ta luôn mãi.

 

16. Ave Maria, Lời con thảo

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Từ năm 1883, sau khi Vua Tự Ðức băng hà, nổi lên Phong Trào Cần Vương nhằm đánh đuổi quân Pháp và tàn sát người Công Giáo. Ngày 1 tháng 9 năm 1885, quân lính Văn Thân kéo đến vây làng Trà Kiệu, trong khi linh mục Bruyère (thuộc Hội Thừa Sai Paris) và giáo dân không kịp chuẩn bị.

Cuộc giao tranh giữa làng công giáo Trà Kiệu và quân lính Văn Thân kéo dài trong nhiều ngày. Tương quan lực lượng chênh lệch, phe Văn Thân mạnh hơn cả về nhân lực và vũ khí nên những người công giáo đã bày tượng Ðức Mẹ trên bàn thờ để cầu nguyện. Trong khi thanh niên lâm chiến, thì người già và trẻ con tập trung đọc kinh trước ảnh Đức Mẹ. Khi xong trận, họ lại quay về tạ ơn Mẹ. Khẩu hiệu tiến quân của giáo dân là 3 tên thánh: Giêsu, Maria, Giuse. Mỗi khi quân Văn thân tiến đến giáp lũy tre phòng thủ, thì đồng loạt tất cả giáo dân hô to khẩu hiệu và ào ra giao chiến.

Sau đó quân Văn Thân tăng viện thêm đại bác. Họ đặt đại bác trên Ðồi Kim Sơn và Bửu Châu để bắn vào nhà thờ, nơi được xem như là trung tâm xuất phát các trận phản công, đồng thời là biểu tượng của tinh thần kháng chiến của giáo hữu. Nhà thờ bị trúng đạn một lần nhưng tổn thất không đáng kể. Một khẩu đại bác đặt cách nhà thờ chừng 100 thước, nhưng không sao bắn trúng được nhà thờ. Theo truyền tục thì võ quan chỉ huy đã thú nhận rằng ông ta cố tình nhắm bắn thì thấy “một người đàn bà xinh đẹp, bận áo trắng, đứng trên nóc nhà thờ nên không thể nào nhắm trúng được”. Thông tin này đã khiến quân lính trong phe Văn Thân xôn xao. Vị Linh mục và giáo dân nghe vậy đều nghĩ rằng phép lạ Ðức Mẹ làm, cũng mong được nhìn thấy, nhưng không ai trông thấy ngoại trừ một người đàn bà, tên là Chỉnh. Ðồng thời phe Văn thân còn thấy nhiều trẻ nhỏ mặc áo đỏ áo trắng từ trên không trung bay xuống qua lũy tre xanh, tay cầm gươm bạc sáng ngời vả đánh giúp giáo dân.

Ngày 21 tháng 9 năm 1885, phe giáo dân chiếm lại bộ chỉ huy của Văn Thân đặt trên Ðồi Bửu Châu. Trà Kiệu được giải vây từ đó. Ðêm đến, mọi người họp nhau trong nhà thờ sốt sắng tạ ơn Thiên Chúa, nhất là Thánh Mẫu Maria. Năm 1898, giáo dân Trà Kiệu xây cất một đền Thờ trên ngọn Ðồi Bửu Châu để ghi nhớ công ơn Đức Mẹ. Từ ấy đến nay, Linh địa Đức Mẹ Trà Kiệu vốn nổi tiếng là linh thiêng, nhiều người đều đến cầu khẩn Mẹ lành và thường đều được ban ơn. Nhiều người tự cho rằng đã được khỏi bệnh bằng lá Non Trược trên Ðồi Bửu Châu.

Ngày 31 tháng 5 năm 1971, Giám mục Đà Nẵng Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đã chọn Trà Kiệu làm Trung Tâm Thánh Mẫu của Giáo phận Đà Nẵng. Và theo thông lệ thì ba năm một lần, Giáo phận sẽ tổ chức ngày “Đại Hội Đức Mẹ Trà Kiệu” vào ngày 31 tháng 5. (Đức Mẹ Trà Kiệu, Wikipedia)

Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Mẹ Mân Côi với bài Tin Mừng của thánh Luca, thuật lại Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ Maria. Từ câu chào của ngài, Hội Thánh hình thành dần Kinh Kính Mừng hôm nay. Ngày xưa Đức Mẹ Trà Kiệu đã cầu bầu cứu giúp giáo dân khỏi bị bách hại, nay Mẹ vẫn còn đang âm thầm chăm lo, săn sóc, giúp đỡ những ai chạy đến cùng Mẹ. Vậy trong tháng Mân Côi, chớ gì người tín hữu mỗi khi tay lần chuỗi, miệng đọc Kinh Kính Mừng đều dạt dào, tha thiết những tâm tình cung kính, mến yêu, xác tín và hoàn toàn đặt niềm hy vọng vào Mẹ.

Ave Maria, trân trọng kính chào Mẹ

Chẳng còn lời chào nào cao quý, trân trọng hơn lời Thiên sứ Gabriel chúc mừng Mẹ. “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà.” Vậy nay con cái Mẹ hân hạnh mượn lời Thiên sứ để chạy đến, kính cẩn cúi mình cung chúc Mẹ thì thật là hợp tình hợp lý và quá tốt lành.

Mỗi người đều có người mẹ thân thương, dễ gần gũi, dễ cởi mở tâm tình hơn người cha nghiêm nghị, xa cách. Nên thường đứa con mới hay đến xin xỏ, vòi vĩnh với mẹ, chứ không dám quấy rầy cha. Người mẹ lại càng vui mừng hơn, khi đứa con biết kính trọng, lễ phép, ngợi khen mẹ phúc hậu, rộng lượng và thương con. Cũng vậy, mỗi khi Mẹ Maria nghe lời cầu chúc thánh thiện của con chiên bổn đạo, sao đành lòng làm ngơ được.

“Tình yêu Mẹ như làn gió mát, như hạt sương mai, làm tâm hồn quằn quại khao khát an bình, được êm dịu ủi an.” (Đường Hy Vọng, số 912)

Ave Maria, thân thương xác tín Mẹ

“Đức Chúa Trời ở cùng Mẹ” Còn hạnh phúc nào trọng đại hơn là vinh dự có Chúa – Ở – Cùng? Mẹ Maria được diễm phúc đó vì sống đẹp lòng Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói và hành động.“Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Chúa.” Thiên sứ Gabriel vội trấn an, khi Mẹ đang bỡ ngỡ về lời chào quá trọng thể.

“Phúc đức tại mẫu.” Câu tục ngữ dân Việt đã khẳng định từ ngàn đời rằng con cái được thừa hưởng phúc lộc từ người mẹ hiền. Vậy Mẹ Maria được tràn đầy hồng phúc, nhất là được Chúa – Ở – Cùng, thì con cái Mẹ cũng hẳn cũng được thông phần. Người con nào thảo hiếu với Mẹ, chắc chắn được Mẹ rộng lượng ban phát. Cho nên, càng thân thương xác tín Mẹ tràn đầy ân phúc, thì Mẹ càng yêu thương cầu bầu cứu giúp.

Hơn nữa, “Mẹ có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu, Con lòng Mẹ gồm phúc lạ.” Mẹ là người nữ duy nhất trên đời, được cưu mang Đấng Cứu Thế, rồi cùng đồng hành với Người từ khi Mẹ thưa “Xin Vâng” cho đến khi được về trời. Vậy để được Chúa – Ở – Cùng, con cái cứ ghi nhớ lời Mẹ dặn, như với gia nhân tiệc cưới Cana: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 5) Nghe và thực hành Lời Chúa thì con cái cũng được diễm phúc như Mẹ.

“Muốn biết Mẹ con tốt đẹp chừng nào, con hãy nhớ Mẹ Chúa Ngôi Hai, cao cả, toàn năng. Phúc cho con biết chừng nào, vì Ngài cũng là Mẹ của con. Nếu không phải Chúa Giêsu nói, con không thể hiểu được.” (Đường Hy Vọng, số 917)

Ave Maria, chân tình hy vọng

“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.” Khi đứa con biết mình lỗi phạm, cứ đơn sơ, khiêm tốn chạy đến Mẹ khẩn cầu, nương tựa, cứu chữa, để Mẹ soi sáng, chỉ dạy, biết ăn năn, sám hối, giải hòa với Thiên Chúa. Chẳng bao giờ Mẹ nỡ ngoảnh mặt quay đi. Vì Mẹ chính là niềm hy vọng xán lạn của con cái đang trầm luân dưới thế.

“Đứa con có bệnh tật, xấu xí người mẹ vẫn thương yêu. Dù con nguội lạnh tội lỗi, phản bội, con hãy phó mình trên tay Mẹ. Chúa Giê su trối: “Đây là Mẹ con!” Nỡ nào Mẹ bỏ con.” (Đường Hy Vọng, số 914)

Lạy Chúa Giêsu, trước khi sinh thì trên thập giá, Chúa đã trăn trối Mẹ cho chúng con, cũng như trao chúng con cho Mẹ săn sóc. Xin giúp chúng con trở nên người con hiếu thảo của Mẹ, để được luôn có Chúa Ở Cùng.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ hằng ngày cứ mãi tiếp tục nhắc nhủ chúng con: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo,”hầu chúng con được luôn thức tỉnh, mà sống trọn vẹn Lời Chúa. Amen.

 

17. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:

– Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?

Cụ già điềm nhiên trả lời?

– Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?

Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:

– Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.

Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:

– Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?

Người sinh viên hăng hái đề nghị:

– Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.

Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris”.

Anh chị em thân mến,

Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi mân côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.

Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!

Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave Maria” mà chúng ta đọc là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.

Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.

Anh chị em thân mến,

Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác… Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình… được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.

Nói rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.

Thưa anh chị em,

Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.

Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.

 

18. Kinh Mân Côi

Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.

Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.

Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.

Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào koảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.

Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.

Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.

Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.

Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.

 

19. Lời kinh hoà bình và lời kinh của gia đình

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Trong phần kết thúc Tông Thư về Kinh mân côi năm 2003, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi mọi thành phần trong Giáo hội như sau: “Tôi hướng về tất cả anh chị em, thuộc mọi bậc sống, hướng tới tất cả anh chị em trong các gia đình Kitô hữu, đến anh chị em là những người đau yếu và cao niên, đến các con là những người trẻ: Xin tất cả một lần nữa hãy cầm lại Chuỗi mân côi với lòng tin tưởng. Hãy khám phá lại Kinh mân côi dưới ánh sáng của Kinh Thánh, trong sự hài hoà của Phụng Vụ, và trong bối cảnh hằng ngày của anh chị em”.

Tại sao Đức Giáo Hoàng tha thiết kêu mời chúng ta đọc Kinh cân côi như vậy? Có nhiều lý do, nhân ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, tôi xin nêu lên hai lý do quan trọng sau đây:

  1. Kinh mân côi là lời kinh hoà bình

Ngày 13 tháng 05 năm 1917, Đức Mẹ nói với ba trẻ ở Fatima rằng: “Hãy ăn năn đền tội, cải thiện đời sống. Hãy lần chuỗi Mân Côi hằng ngày để đem hòa bình cho nhân loại và để chấm dứt chiến tranh (…). Nếu các con thi hành các điều Ta phán dạy thì rất nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và sẽ có hòa bình. (…) Nếu các điều Mẹ mong ước được thực thi, nước Nga sẽ trở lại, và sẽ có Hòa Bình. Nếu không, nước Nga sẽ gieo rắc các tà thuyết trên khắp thế giới, chiến tranh sẽ xảy ra, Giáo Hội sẽ bị bách hại, người lành sẽ bị tử đạo…” (x. Tiếp tục thực hiện sứ điệp Fatima cho Hòa bình và Công lý của UBCL và HB). Sau đó, nhờ cha ông chúng ta vâng nghe lời Mẹ dạy, chăm chỉ đọc Kinh mân côi mà nước Nga và toàn bộ Khối Đông Âu đã trở lại.

Thật vậy, Kinh mân côi chính là lời kinh hoà bình. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói “Tự bản chất, Kinh mân côi là lời kinh cầu cho hoà bình”. Ngài giải thích: Thứ nhất, vì nó hệ tại ở việc chiêm ngưỡng Đức Kitô, Hoàng tử Hoà bình, là sự bình an của chúng ta(x. Ep 2,14). Bất cứ ai đồng hoá với mầu nhiệm Đức Kitô và rõ ràng đó là mục tiêu của Kinh mân côi thì sẽ học được bí quyết của hoà bình và biến nó thành dự phóng của đời sống mình. Thứ hai, nhờ tính chất suy niệm của nó, với sự tiếp nối thanh thản các Kinh kính mừng, Kinh mân côi đem lại sự an bình nơi người cầu nguyện, tạo điều kiện cho họ đón nhận và cảm nghiệm tận đáy lòng, và gieo vãi ra chung quanh, hoà bình đích thật vốn là quà tặng đặc biệt của Chúa Phục Sinh (x. Ga 14,27; 20,21). Thứ ba, vì những hoa trái bác ái mà nó sản sinh. Khi được thực hiện tốt theo một thể thức suy ngắm đích thực, Kinh mân côi dẫn ta đến gặp gỡ Đức Kitô trong các Mầu nhiệm của Người, và vì thế, ta không thể không quan tâm tới dung nhan Đức Kitô nơi những người khác, nhất là nơi những người đau khổ nhất. Và Ngài kết luận: Kinh mân côi cho phép chúng ta hy vọng rằng, cả ngày hôm nay nữa, trận chiến cam go vì hoà bình có thể dành thắng lợi. (x. Tông thư Rosarium Virginis Mariae về Kinh mân côi).

Như vậy, muốn có hoà bình thực sự trong tâm hồn, trong gia đình, trong tổ quốc và trên thế giới, chúng ta hãy lẫn hạt mân côi.

  1. Kinh mân côi là lời kinh của gia đình

Kinh Mân côi không những là lời kinh cầu cho hoà bình mà còn là lời kinh của gia đình và cho gia đình. Các gia đình truyền thống Việt Nam thường lần chuỗi chung với nhau trong gia đình vào buổi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng khi vừa mới thức dậy. Nhiều giáo dân có thói quen lần chuỗi trên đường đến nhà thờ, trên đường đến nơi làm việc, khi rảnh rỗi… Đó là những thói quen tốt. Nhờ thế, Đức Mẹ đã gìn giữ họ được bình an, nhiều gia đình đã vượt qua được những sóng gió trong cuộc đời. Cho nên, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhắc nhở những người làm công tác mục vụ các gia đình phải có trách nhiệm khuyên nhủ họ duy trì thói quen đọc Mân côi trong gia đình. Ngài nói: “Kinh mân côi cũng là và vẫn luôn luôn là lời kinh của gia đình và cho gia đình”.

Ngài đưa ra một số các lợi ích khi các gia đình đọc Kinh mân côi: Làm cho các gia đình gần gũi nhau hơn. Lôi kéo các gia đình xích lại gần nhau. Thông hiệp với nhau. Tỏ tình liên đới. Tha thứ cho nhau, và nhìn thấy giao ước tình yêu của họ được đổi mới trong thần khí của Thiên Chúa.

Đặc biệt, trước những thách đố của xã hội, các gia đình lại cần trở về với Kinh mân côi hơn. Đức Thánh Giáo Hoàng nói tiếp: “Nhiều vấn đề đang thách thức các gia đình hiện nay, đặc biệt trong xã hội có nền kinh tế phát triển, xuất phát từ việc càng ngày người ta càng khó hiệp thông với nhau. Các gia đình ít khi thu xếp để gặp gỡ nhau, và những cơ hội hiếm hoi để gặp gỡ được nhau lại bị những hình ảnh truyền hình xen vào phá hỏng. Trở về với việc đọc kinh Mân côi trong gia đình có nghĩa là lấp đầy cuộc sống hằng ngày những hình ảnh hoàn toàn khác, những hình ảnh trình bày Mầu nhiệm cứu độ: hình ảnh Đấng Cứu chuộc, hình ảnh Mẹ Rất Thánh của Người. Gia đình cùng đọc Kinh mân côi là làm sống lại phần nào bầu khí của gia đình Nagiarét: các thành viên gia đình đặt Đức Giêsu ở trung tâm để họ chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của Người, đặt những nhu cầu và dự tính của họ trong tay Người, kín múc từ Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến bước”.

Khi nói về con cái, Đức Thánh Giáo Hoàng cũng mời gọi các bậc cha mẹ hãy cầu nguyện bằng Kinh mân côi với con cái và cho con cái, vì đó là một trợ lực thiêng liêng mà chúng ta không thể coi thường. Ngài nói: “Việc cầu nguyện bằng Kinh mân côi cho con cái mình, khi và hơn nữa, với con cái mình, dạy dỗ chúng ngay từ những năm đầu đời, biết ngừng lại mỗi ngày để cầu nguyện với gia đình, phải thú nhận rằng đó không phải là một giải pháp cho mọi vấn đề, nhưng đó là một trợ giúp thiêng liêng mà ta không thể coi thường”. (x. Tông thư Rosarium Virginis Mariae về Kinh mân côi).

Để thêm lòng tin tưởng vào Kinh mân côi, chúng ta hãy nghe câu chuyện sau đây:

Cha Patrick Joseph Gillard-Peyton là vị Linh Mục tông đồ của Tràng Chuỗi Mân Côi. Cha chào đời ngày 9-1-1909 tại County Mayo trong gia đình Công giáo nghèo bên nước Ái-nhĩ-lan. Năm 18 tuổi, Patrick cùng với bào huynh Tom sang Hoa Kỳ tìm kế sinh nhai. Nhưng rồi Chúa gọi, Patrick từ giã anh, gia nhập chủng viện.

Lúc gần chịu chức Linh mục, thầy Patrick bỗng lâm bệnh lao phổi trầm trọng. Các bác sĩ cho biết vô phương cứu chữa! Giấc mơ Linh mục trong phút chốc tan thành mây khói .. Thầy Patrick chán nản buông tay bỏ cuộc. Một vị Linh Mục lão thành bất ngờ đến thăm và nói với Thầy: Hãy kêu xin Đức Mẹ MARIA chữa lành bệnh. Đức Mẹ là nguồn sự sống. Hãy tin tưởng nơi Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ như Người Mẹ thật. Hãy kiên trì van nài và tin chắc chắn Đức Mẹ sẽ chữa lành. Đức Mẹ sẽ tỏ ra vô cùng nhân hậu với Thầy. Chính vì chúng ta tin tưởng quá ít nơi Đức Mẹ nên Đức Mẹ không ban cho chúng ta nhiều ơn!

Nghe vị Linh mục lão thành nói thế, Thầy Patrick bỗng nhớ lại chuỗi ngày niên thiếu nơi quê hương Ái-nhĩ-lan thân yêu. Thầy cũng nhớ đến “liều thuốc thần” hiền mẫu Thầy vẫn dùng trong cơn gian nan khốn khó. Đó là Tràng Chuỗi Mân Côi. Cứ chiều đến, cả gia đình tụ họp và cùng nhau sốt sắng lần hạt Mân Côi.

Giờ đây, vì hết hy vọng nơi các phương thuốc chữa trị trần gian, Thầy Patrick hướng về Trời Cao và kêu van Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc qua Kinh mân côi. Và Thầy được lành bệnh thật.

Năm 1941 – 32 tuổi – Thầy Patrick Peyton hân hoan lãnh thiên chức Linh mục trong dòng Thánh Giá. Từ đó Cha xác tín rằng: Thế giới cầu nguyện là thế giới hòa bình. Gia đình cầu nguyện là gia đình hiệp nhất. Nếu mỗi người, mỗi gia đình dành ít thời gian trong ngày để đọc Kinh mân côi thì các tổ ấm sẽ trở thành vườn địa đàng. (x. Phép lạ của Tràng chuỗi Mân Côi, Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)

Vì những lý do trên đây, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm siêng năng đọc Kinh mân côi theo lời Mẹ dạy, để cầu cho bản thân, gia đình và cầu cho hoà bình thế giới. Amen.

 

20. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.

Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.

Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.

Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.

Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?

Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.

Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.

Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:

“Kẻ nghe lời Cha Ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ Ta”.

Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.

Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.

Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.

Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.

Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.

2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?

3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?

 

21. Này tôi là tôi tớ của Chúa.

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt nhân dịp Kỷ niệm 95 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. 1917-2012)

Với lời thưa “Xin Vâng” của Đức Mẹ, điều vô cùng kỳ diệu xẩy ra: Thiên Chúa đến ở với loài người. Thiên Chúa vô hạn đến ở trong thân xác hữu hạn. Thiên Chúa vô thủy vô chung đi vào lịch sử để trở nên có sinh có tử. Đây là đại hạnh của con người. Nhân loại khổ đau có Thiên Chúa đến cùng chia sẻ nâng đỡ, chữa lành. Nhân loại đi trong đêm tối có Thiên Chúa đến dẫn đường chỉ lối. Nhân loại bơ vơ có Thiên Chúa đồng hành. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa không chỉ đến để đồng hành, để an ủi nhưng Thiên Chúa còn đến biến đổi thân phận con người. Thư Galata cho biết Thiên Chúa sinh làm con loài người để ta được nâng lên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa chịu nghèo để ta được giầu có vì được thừa kế gia tài, được hưởng vinh phúc của Thiên Chúa.

Những điều kỳ diệu ấy chỉ được thực hiện nhờ thái độ của Đức Mẹ. Khi thưa với thiên thần: “Này tôi là tôi tớ của Chúa”, Đức Mẹ đã cộng tác trọn vẹn với Thiên Chúa để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Vào thời Đức Mẹ nô lệ có nghĩa là không có quyền gì hết. Nô lệ hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chủ. Chủ có thể bán đi. Chủ có quyền hành hạ, giết chết nô lệ mà không có tội trước pháp luật. Nô lệ không có quyền sống cho mình, mà sống vì chủ, cho chủ. Khi xưng mình là “tôi tớ”, Đức Mẹ từ bỏ tự do, từ bỏ quyền sống của mình để hoàn toàn cho Thiên Chúa sử dụng. Từ đó Chúa ở trong Đức Mẹ. Đức Mẹ đi đâu cũng có Chúa ở cùng. Vì thế sự hiện diện của Đức Mẹ là hiện diện của Chúa. Đức Mẹ đi đến đâu là sinh ơn phúc đến đấy. Đến thăm bà Isave đem ơn cứu độ cho thánh Gioan Baotixita khiến thánh nhân nhảy mừng từ trong lòng mẹ. Đến tiệc cưới Cana làm cho đám cưới ngập tràn niềm vui vì được thưởng thức thứ rượu ngon chưa bao giờ có.

Từ khi về trời Đức Mẹ vẫn tiếp tục viếng thăm con cái trần gian. Lavang, Lộ đức, Fatima… không sao kể xiết những ơn lành Chúa xuống qua tay Đức Mẹ. Tuy Lavang, Lộ đức đều là chứng tích việc Chúa và Đức Mẹ đồng hành với con người trong những nỗi khổ đau. Nhưng Fatima mới tỏ tường là nơi Chúa và Đức Mẹ can thiệp vào lịch sử nhân loại. Thực vậy vào tháng 5 năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ tiên báo nước Nga sẽ gieo rắc lạc thuyết vô thần khắp thế giới. Đúng tháng 10 năm đó cách mạng vô sản nổ ra tại Nga và thế giới bị chia đôi. Một nửa theo lý thuyết cộng sản vô thần gay khổ đau cho biết bao người. Tuy nhiên Đức Mẹ cũng chỉ cho ta con đường thoát khỏi sự dữ này bằng cách cầu nguyện cho nước Nga và tuân giữ 3 mệnh lệnh là: ăn năn sám hối, lần hạt Mân Côi và tôn sùng đền tạ Trái Tim Đức Mẹ. Có thực hành lời Đức Mẹ dậy, nhân loại mới thoát khỏi cơn thịnh nộ của Chúa, thế giới mới được hòa bình. Sứ điệp Fatima quả đã đi vào lịch sử thế giới, hướng dẫn lịch sử thế giới và chữa trị những vết thương của thế giới.

Nếu chương trình của Chúa cần có Đức Mẹ “xin vâng”, thì trong chương trình của Đức Mẹ cũng cần một người con quảng đại dâng hiến toàn thân cho Đức Mẹ sử dụng. Người đó chính là Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn. Ngài đã viết Tông huấn “Kinh Mân Côi” để tôn vinh Đức Mẹ. Ngài là vị Giáo hoàng lần hạt chung với dân chúng. Ngài đã lập thêm Năm Sự Sáng cho tràng chuỗi Mân Côi. Nhưng nhất là Ngài dâng hiến toàn thân cho việc phụng sự Đức Mẹ. Khẩu hiệu của ngài là “Totus Tuus”, trích từ câu nói của thánh Louis Grignon de Monfort:Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua sunt (Con là tất cả của Mẹ và mọi sự của con đều là của Mẹ).

Ngài đã dâng nước Nga cho Đức Mẹ. Và đáp lại Đức Mẹ đã thực hiện những lời hứa và những bí mật Fatima trong cuộc đời của ngài. Việc nước Nga được ơn trở lại dưới triều Giáo hoàng của ngài là bằng chứng rõ rệt nhất về lời hứa Fatima: “Trái Tim Mẹ Sẽ Thắng”. Theo sau nước Nga là các nước Đông Âu khác. Bản đồ thế giới được vẽ lại. Tình hình thế giới đổi mới khác hẳn. Quả thật Chúa và Đức Mẹ đã can thiệp vào lịch sử thế giới.

Tuy nhiên Đức Thánh Cha phải chịu đau khổ. Và thị kiến chị Lucia thấy người áo trắng bị ám sát đã ứng nghiệm trong đời ngài. Ngài bị bắn đúng ngày 13-5-1981. Tay thiện xạ Ali Agca đứng sát ngài và nhắm bắn trúng chỗ hiểm. Nhưng ngài thoát chết trong gang tấc. Ngài biết Đức Mẹ đã cứu ngài. Nên ngài đến hành hương Fatima tạ ơn Đức Mẹ và đặt đầu viên đạn lên triều thiên Đức Mẹ để tôn vinh quyền phép của Đức Mẹ. Vết thương hành hạ suốt đời đã biến cuộc đời ngài thành cuộc đền tạ Trái Tim Mẹ không ngưng nghỉ.

Đã 95 năm trôi qua kể từ ngày Đức mẹ hiện ra tại Fatima, nhưng sứ điệp Fatima vẫn còn mang tính thời sự và cấp thiết. Vì hiện nay biết bao lạc thuyết vẫn lan tràn gieo đau thương chết chóc cho con người. Đức Mẹ vẫn luôn đồng hành với ta như Người đã cùng cầu nguyện với các tông đồ trong nhà Tiệc ly. Đức Hồng Y Fulton Sheen diễn giải lời thiên thần Gabriel: “Này cô Maria, cô có đồng ý đem xương thịt cho Con Thiên Chúa không? Liệu Thiên Chúa có trở nên loài người qua thân xác của cô không?”. Hôm nay Đức Mẹ cũng hỏi ta: “Con có đồng ý cho ta thân xác của con để ta hiện diện với các con, đồng hành với các con không”. Nếu ta đồng ý Đức Mẹ sẽ nhờ thân xác ta mà hiện diện trong thế giới, sẽ uốn nắn thế giới và lịch sử sẽ thay đổi. Ta hãy noi gương ĐTC Gioan Phaolô thưa với Mẹ: Lạy Mẹ, tất cả của con là của Mẹ, xin Mẹ hãy dùng con theo ý Mẹ để Thiên Chúa được vinh danh và nhân loại được hạnh phúc. Amen.

home Mục lục Lưu trữ