Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 89

Tổng truy cập: 1370873

LỜI MỜI GỌI CHÂN TÌNH

LỜI MỜI GỌI CHÂN TÌNH

 

(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)

Ăn uống hay là hiệp thông

Có những sự việc diễn ra quá bình thường đến nỗi người ta chẳng còn để ý đến. Chẳng hạn như: ngủ nghỉ, đi lại, nói năng, thở hít... Chỉ khi nào bị tước mất hay không có, người ta mới ý thức được giá trị vô giá của chúng. Khi bị mất ngủ, người ta hiểu được tầm quan trọng của giấc ngủ. Về việc ăn uống cũng thế.

Theo Kinh Thánh, con người ở thời đầu đã dùng sữa của đoàn vật để nuôi thân, như cách thức ông A-ben đã làm. Thế nhưng, sau lụt đại hồng thuỷ, họ bắt đầu giết các con vật để ăn. Điều này được Thiên Chúa cho phép với điều kiện phải làm cho máu chảy hết ra khỏi thịt trước khi ăn. Bởi vì máu chính là sự sống và không ai có quyen trên sự sống. Máu hay sự sống thuộc về Thiên Chúa. Chỉ Người mới có quyền.

Từ ý nghĩa này, con người có bỗn phận phải tôn trọng thụ tạo trong khi ăn uống. Tại một số bộ lạc ở Châu Phi, người thợ săn xin con thú mình sắp giết để nuôi thân tha lỗi cho. Trong một cuốn sách, nhà văn Soljénitsgne đã diễn tả cách tuyệt vời về thái độ này khi nhớ lại bữa ăn duy nhất trong ngày của các tù nhân: "Anh còn nhớ thứ cháo lúa mạch lỏng bỏng, hay thứ xúp chẳng một chút chất béo đó không? Anh có thể gọi đó là ăn không? Hoàn toàn không, anh đang hiệp thông, anh dùng món cháo đó như một thứ bí tích... Anh nhấm nháp chầm chậm đến tận cuối cái thìa gỗ; anh nuốt món cháo đó, nuốt trọn và nghĩ đến hành động ăn... Và hương vị của nó lan ra khắp cơ thể".

Làm sao con người ngày nay có thể hiệp thông theo cách thức như thế. Từ sau khi ra khỏi Vườn Địa Đàng, con người không còn những của ăn đích thực, họ luôn cảm thấy đói khát, và nếu có cảm thấy no nê, cũng chỉ là giả tạo. Toàn bộ cuộc sống và con người của họ đều khao khát lại được dưỡng nuôi nhờ những của ăn đích thực. Do đó Đức Giêsu nhấn mạnh: Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.

Ngoài ra, Đức Giêsu cũng dạy con người hãy cầu xin Chúa Cha ban cho bánh ăn mỗi ngày, trong khi chờ tới ngày Thiên Chúa sẽ tái tạo con người như vẻ đẹp nguyên thuỷ: Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Như vậy, Đức Giêsu cũng cho thấy rằng, các tạo vật, thay vì giết hại lẫn nhau để tự nuôi thân, phải được nuôi dưỡng do chính vị sáng tạo nên mình.

Điều này chẳng có gì lạ. Để có thể nuôi mình nhờ hoa màu ruộng đất, trước hết đứa trẻ cần được nuôi dưỡng 9 tháng nhờ thân thể và máu của người mẹ. Cũng vậy, đối với nhân loại, để vươn tới những lương thực do Thiên Chúa dọn sẵn cho họ từ khởi đầu, trước hết, họ phải chấp nhận được nuôi nhờ thịt và máu Thiên Chúa của mình. Thánh Thể -được chiêm ngưỡng và lãnh nhận- chính là cuống nhau tái tạo nhân loại, làm cho con người cũ thành con người mới. Nhờ Thánh The, con người được trả lại đời sống vĩnh cửu.

Tấm bánh hay là một con người

Đức Giêsu vừa mới làm phép lạ hoá bánh ra nhiều tại một nơi khô cằn, tức là tại nơi sự chết đang rình rập. Đức Giêsu đã khơi dậy sự sống, và như vậy Người đã nhắc lại hoạt động xưa kia của Thiên Chúa đã làm cho dân Do-thái thoát khỏi cái đói trong sa mạc. Quả là một sự kiện lạ lùng. Vậy mà những người chứng kiến lại dựa trên phép lạ này để hành động theo cách của mình. Họ định tôn Người làm vua, nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Người đưa ra cho họ một cách hiểu mới về sự việc vừa xảy ra. Người tuyên bố: Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống.

Thực là một mặc khải mới mẻ, lạ lùng. Lương thực để nuôi sống nhân loại, làm cho nhân loại được sống thực sự và sống vĩnh viễn không còn là những thứ bánh thông thường, nhưng chính là thân thể, là máu của một ngôi vị sống động. Tất cả những thứ banh của trần gian, kể cả man-na thời sa mạc, chẳng có giá trị gì so với bánh do Đức Giêsu ban. Con người đó chính là con người Đức Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể -Ngôi Lời đã làm người-, một con người thực sự với những đieu kiện của thân phận làm người.

Tuy vậy, con người này không phải là một hữu thể như bất cứ ai khác, trái lại, đó là Con Người với tất cả ý nghĩa cao cả của nó. Đây là Con Người luôn hiệp thông với trời cao, là Con Người đã đi xuống, sẽ đi xuống tận cùng để được nâng lên (3,14). Đây là Con Người từ trời xuống.

Và hơn thế nữa, Con Người từ trời xuống còn có mục đích rõ ràng và cụ thể là hiến mạng sống mình, nói cách khác là sẽ chịu chết. Điều này có nghĩa là chỉ trong Đức Kitô chịu hiến tế, nhân loại mới có thể hiểu được toàn bộ ý nghĩa vinh quang của Tấm Bánh. Tấm Bánh đó chính là Đức Giêsu, Đấng trở thành lương thực nuôi dưỡng tâm hồn con ngươi và dẫn đưa họ về sự sống vĩnh cửu.

Do đó, ăn thịt và uống máu không phải là hành vi thể lý, nhưng là thái độ chấp nhận cách vô điều kiện về con người đã tự nộp mình, đã đón nhận cái chết để đem ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Đó là đón nhận trong lòng tin mầu nhiệm sự chết được Đức Giêsu nói đến như một hổng ân, bởi vì Đức Giêsu sẽ tự hiến mình chịu chết và sẽ phục sinh.

Như vậy, việc ăn và uống chính là chấp nhận mối tương quan nối kết với Chúa Cha qua Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu là trung tâm của mối tương giao này. Chính Người là trung gian, hay nói đúng hơn, chính nơi Người, mối tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại được thể hiện chặt chẽ, và đó là sự sống.

Đức Giêsu có thể công bố điều lạ lùng này vì Người là Con Thiên Chúa. Nhờ lãnh nhận Mình và Máu Người, nhân loại trở thành con Thiên Chúa. Nhờ Người Con duy nhất, nhân loại được ở gần Thiên Chúa, được quy hướng về Thiên Chúa, và được sống, được sống đích thực.

Với diễn từ về Bánh Trường Sinh, Đức Giêsu trình bày rõ ràng về giao ước mà Thiên Chúa đã hứa. Giao ước này sẽ được thực hiện rõ ràng và trọn vẹn trong cái chết của Đức Giêsu.

Sự thách thức hay là lời mời gọi

Nghe những lời nói của Đức Giêsu, người Do-thái coi đó là một sự thách thức. Họ đã không chấp nhận mầu nhiệm nhập thể. Trước mắt họ, Đức Giêsu chỉ là một con người bình thường như tất cả mọi người, chẳng phải là Đấng từ trời xuống. Họ không hiểu về thái độ dâng hiến của Đức Giêsu nên cũng chẳng nhận cái chết của Đức Giêsu sẽ là nguồn mạch đem lại sự sống. Đó là cớ vấp ngã do Thập giá.

Thành ra, những lời tuyên bố đầy thiết tha của Đức Giêsu, thay vì loan báo sự sống, lại trở thành những lời thách thức. Thế nhưng, ngay khi họ muốn tiêu diệt Đức Giêsu, ngay khi họ giết Người, họ lại đụng phải một thực tại không ngờ từ trời xuống: Người này là Con Thiên Chúa!

Đối với chúng ta, lãnh nhận Mình và Máu Đức Giêsu là chấp nhận để cuộc đời mình tan biến trong Đức Giêsu, trong cái chết của Người. Khi lãnh nhan Mình và Máu Đức Giêsu, chúng ta được tan biến trong Người chứ không phải Người tan biến trong chúng ta. Chính chúng ta được đưa vào trong tiến trình sự sống của Đấng đang được ta đón nhận, và nhờ đó, chúng ta đạt tới tầm nhìn về một sự sống mới. Đây không còn là vấn đề giết lấy mà ăn, nhưng là chia sẻ, là trao đỗi. Điều cốt yếu không phải là thực tại thể lý, nhưng là cử chỉ trao tặng, đón nhận, là tiến trình tạ ơn.

Đó là thực tại đích thực, thực tại duy nhất có thể làm cho con người được sống sâu xa. Thực tại này mở ra một lãnh vực mới không còn dấu vết của thời gian, của sự chết. Thực tại ấy là ân huệ Thánh Thần. Và chúng ta hiểu đây là lời mời gọi chân tình.

 

70. Kỷ vật tình yêu

(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Chúng ta có thể quả quyết: Mỗi thánh lễ đều là lễ “Mình Máu Thánh Chúa”. Nhưng ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa được Giáo Hội ấn định hằng năm vào ngày Chúa Nhật liền sau Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi, phải có lý do. Đúng, đây là cơ hội đặc biệt để chúng ta tìm hiểu và suy niệm cách sâu xa hơn về mầu nhiệm này: một mầu nhiệm đức tin và cũng là mầu nhiệm tình yêu.

Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn hai năm. Trong thời gian đó, họ đã sống với nhau thật hòa hợp hạnh phúc. Mỗi ngày vào buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và chiều tối khi trở về ngôi nhà thân thương, anh chồng không khi nào quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày một thêm thắm thiết, hạnh phúc. Nhưng rồi hạnh phúc của đôi vợ chồng đã bị đe dọa. Một hôm, người chồng bị trúng mưa trên đường đi làm về. Sau đó anh bị cảm nặng liệt giường và được người vợ chăm sóc chu đáo. Anh được mang đến bệnh viện khám và điều trị. Bác sĩ chẩn đoán anh bị viêm cuống phổi. Du được tận tình chữa trị và được chăm sóc chu đáo, nhưng bệnh tình ngày một thêm trầm trọng. Cuối cùng bác sĩ xác định anh bị ung thư màng phổi ác tính vào thời kỳ thứ ba. Khi sắp chết, anh gọi vợ lại gần trăn trối. Anh theu thào nói: “Em yêu quý, có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị tâm hồn và sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều là không được tiếp tục sống bên em nữa. Anh cám ơn em đã đem lại cho anh những ngay chung sống hạnh phúc. Trước khi đi xa, để chứng tỏ tình yêu vĩnh cửu của anh, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà hai vợ chồng mình đã trao cho nhau, khi cầm tay kết ước trước bàn thờ Chúa cách đây hơn hai nam. Bây giờ anh xin tặng chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn chiếc nhẫn này, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu mong cho em được an vui hạnh phúc”.

Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, như hai người đã làm cho nhau trong ngày cưới. Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang ở gần nhà. Sau đó, hằng ngày người ta thấy một phụ nữ trẻ, đầu đội khăn tang, tay cầm bó hoa, đi vào nghĩa trang. Chị đứng trước một ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh và cầu nguyện cho người chồng quá cố. Trên tay chị ta đeo hai chiếc nhẫn cưới: một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người chồng quá cố để lại cho chị.

Câu chuyện trên có thể giúp chúng ta hình dung một việc làm chứng tỏ tình yêu vô hạn của Thiên Chúa, đó là việc Chúa lập phép Thánh Thể, để lưu lại cho chúng ta một bằng chứng tình yêu vĩ đại. Thực vậy, trước giờ biệt ly, trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ thân yêu, Chúa đã muốn để lại cho con người một kỷ vật, một vật kỷ niệm. Ngài không để lại vàng bạc, vì Ngài biết rằng tiền bạc không nói lên được tình yêu, tiền bạc hay phản lai tình yêu. Ngài không để lại một bức thư từ biệt, vì thư bất tận ngôn, hay một lời nói, vì lời nói như hơi gió, có đó và hay mất đó. Ngài không để lại bất cứ một cái gì, bởi vì đối với Chúa, tất cả mọi thứ ở trần gian này đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương quá nồng nàn của Ngài đối với nhân loại. Ngài muốn để lại một cái mà thường tình người ta yêu thương hơn cả, kỷ vật Ngài muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Ngài, chính mình Ngài.

Nhưng cái bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa phải thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vo cùng linh diệu, là lưu lại bản thân Chúa dưới hình thức nhiệm mầu: Chúa lấy bánh và rượu để biến đổi thành Mình và Máu Chúa, rồi phân phát cho các tông đồ như của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Đây là một sự việc hàm chứa rất nhiều ý nghĩa yêu thương nhưng cũng mang đầy tính chất đức tin.

Quả thực, đây là mầu nhiệm đức tin. Bởi vì trí khôn chúng ta không hiểu được, giác quan chúng ta không cảm nhận được, chỉ có đức tin dạy cho chúng ta biết: Chúa hiện diện thât sự trong bí tích Thánh Thể. Rước lễ là chúng ta ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa, đây là lương thực vừa giúp chúng ta sống khỏe, sống mạnh, sống tốt đẹp ở đời này vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu, như Chúa đã quả quyết: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì tôi sống trong người ấy, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời”. Như vậy, người ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này, và mai ngày sẽ thuộc về Ngài mãi mãi. Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại ngày sau hết. Đó là ý nghĩa mầu nhiệm Thánh Thể chúng ta long trọng mừng kính hôm nay.

Chúng ta hãy ghi nhớ và thực hành hai điều sau: Thứ nhất, chúng ta hãy siêng năng rước lễ. Mỗi khi tham dự thánh lễ là chúng ta đi dự tiệc, có ai đi dự tiec mà lại không ăn uống chăng? Thế mà có khá đông người tham dự thánh lễ mà không ăn và uống Mình Máu Chúa. Phải chăng thánh lễ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban? Hay phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên chúng ta thất vọng và không muốn rước lễ nữa? Những mối bận tâm như thế không đủ để chúng ta khước từ nguồn ơn cứu độ là chính Đức Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể.

Thứ hai, tất cả chúng ta đều tin rằng khi chúng ta rước lễ là chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô. Nhưng sự kết hiệp đó phải đưa chúng ta đến sự hiệp thông với nhau, tức là yêu thương nhau. Đúng ra phải như thế, nhưng thực tế có được như vậy không? Có lẽ nhiều người Kitô hữu quên mất điều này: hiệp thông với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp thông với nhau. Đàng khác, thánh lễ là diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, cho nên bằng chính những hy sinh lớn nhỏ vì yêu thương phục vụ tha nhân, chúng ta làm trọn cử chỉ Thánh Thể thực hiện trong thánh lễ, bởi vì đời ta là một thánh lễ nối dài. Xin Chúa cho chúng ta luôn sống được như thế.

 

71. Hiện Diện - Hiệp Nhất - Chia Sẻ

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)

Trong ý nghĩa yêu thương, trước giờ biệt ly, Chúa Giêsu muốn để lại cho loài người một vật kỷ niệm. Người đời trước khi đi xa, thường lưu lại cho người thân thích một món đồ nào đó để ghi nhớ: một cuốn sách, một khăn tay, một tấm hình, một cái áo, một chiếc nhẫn V.v...Đối với Chúa Giêsu, những vật đó hay bất cứ vật nào cũng đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương nồng nhiệt của Chúa đối với nhân loại. Kỷ vật Chúa muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Chúa.

Nhưng bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp sửa bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa đã thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng linh diệu, là lưu lại bản thân Chúa dưới hình thức nhiệm mầu. Chúa lấy bánh và rượu biến đổi thành Mình và Máu Ngài: "Này là Mình Thầy", "Này là chén Máu Thầy". Với những lời ấy, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy", tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quý này để tưởng niệm đến Ngài.

Như thế, trong bữa tiệc ly và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu: "Này là Mình Thầy", "Nầy là chén Máu Thầy', tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người.

Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là một bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.

Như vậy, trong tình yêu và vì tình yêu, Chúa Giêsu đã tìm ra một phương thế để ở lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh và hình rượu, Chúa Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian.

Thánh Thể còn là bí tích của sự hiệp nhất. Trước hết, Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, bởi vì Ngài đến với chúng ta dưới hình bánh hình rượu, làm cho chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài. Đồng thời, khi kết hiệp chúng ta vơi Chúa Kitô, thì Thánh thể cũng kết hiệp chúng ta với nhau: được qui tụ chung quanh một bàn ăn, chúng ta cùng uống một chén, chia sẻ cùng một của ăn, chúng ta sống bằng chính mầu nhiệm của tình thương, chúng ta càng hiệp nhất với nhau còn hơn là con cái của một gia đình.

Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ: bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ; và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ cho các môn đệ làm để nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cư hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng, ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho tình thương, sự thông cảm, vị tha, bac ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.

Tóm lại, về Phép Thánh Thể, chúng ta hãy nhớ: Thánh Thể là một bí tích. Trong Thánh Thể, có Chúa Giêsu thật sự. Vì thế, sau khi truyền phép, không còn bánh và rượu trên bàn thờ nữa. Chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ. Mỗi lần dâng thánh lễ là chúng ta cử hành việc Chúa lập phép Thánh Thể. Đàng khác, chúng ta hãy cố gắng rước lễ mỗi khi tham dự thánh lễ, bởi vì rước lễ làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô và hiệp nhất với nhau; tăng thêm sức mạnh cũng như nghị lực cho chúng ta trên đường lữ thứ trần gian; và bảo đảm sự sống đời đời của chúng ta. Như thế, bàn tiệc Thánh Thể trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đó, chúng ta được nối kết với Chúa Kitô và nối kết với nhau, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng và tốt đẹp hơn.

 

72.Thánh Thể, Mầu Nhiệm Hiệp Thông Và Chia Sẻ

(Suy niệm của Phanxicô Xaviê Trần Đưc Tuân, OP)

Mình Máu Thánh Chúa Kitô, là hồng ân mà chính Chúa Giêsu Kitô ban tặng cho chúng ta. Trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tục yêu thương chúng ta cho đến cùng.

Nói đến Hiệp thông Thánh Thể là nói đến sự hiệp thông giữa Thân Mình với các chi thể khác nhau, cũng như sự thông phần và liên kết chặt chẽ trong cùng một Nhiệm Thể duy nhất của Đức Kitô là Giáo Hội. Một tấm bánh được bẻ ra cho nhiều người, để tất cả được thông dự và làm nên một Tấm Bánh. Tấm bánh đó chính là Đức Kitô.

Quả vậy, hiệp thông Thánh Thể đòi hỏi chúng ta trở nên những con người hiệp thông, nghĩa là, biết từ bỏ những cái gì là riêng tư, ích kỷ, tham lam trong đời sống hàng ngày, ngõ hầu xây dựng tình huynh đệ ở mọi nơi chúng con sống, từ trong gia đình, xóm làng cho đến cộng đồng giáo xứ.

Hôm nay cũng là ngày tạ ơn và vui mừng, bởi vì Đức Giêsu Kitô đã muốn ở lại để nuôi dưỡng và ban sức mạnh cho chúng ta, để chúng ta không bao giờ cảm thấy lẻ loi, cô đơn. Thánh Thể là của ăn đàng cho cuộc hành trình của chúng con về đích điểm cuộc sống chân thực là Nước Trời. Xưa Chúa đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau, ngày nay Chúa cũng đồng hành và ban sức mạnh cho mỗi người chúng ta, mỗi khi chúng ta rước Mình và Máu Thánh Ngài.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con hiểu và xác tín về việc Chúa chia sẻ chính thân mình, và khơi nguồn sự sống để xây dựng cho chúng con Mầu nhiệm Hiệp thông, liên kết chúng con nên một như “Chúa và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30). Thế nhưng chúng con vẫn chưa sống chia sẻ, rộng mở, khoan dung với những người khác, chúng con chưa quan tâm xây dựng tình hiệp thông huynh đệ với nhau. Chúng con chưa mở cửa lòng, sẵn sàng chia sẻ vật chất, tinh thần với những anh chị em túng thiếu đang cùng sống chung với chúng con, dù hằng ngày chúng con vẫn thông dự vào cùng một Tấm Bánh, một Thân Mình. Xin giúp sức cho chúng con biết sống tinh thần hiệp thông trong từng ngày sống của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin thật Chúa đang hiện diện giữa chúng con. Chúng con thờ lạy Chúa. Chúng con yêu mến Chúa. Chúa đang có mặt nơi đây và Chúa đang nhìn mỗi người chúng con. Chúa thấy hết những khiếm khuyết, yếu hèn, Chúa thấu suốt tâm hồn của chúng con. Nhưng như xưa, Chúa đã tha thư tất cả cho Phêrô, dù ông đã ba lần chối Chúa, thì cái nhìn của Chúa lúc này đối với chúng con cũng vẫn là cái nhìn yêu thương, tha thứ và đỡ nâng.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Trong giờ chầu này, chúng con muốn cầu nguyện cho mỗi người chúng con biết sống tình hiệp thông ngày một hơn, từ trong gia đình, giáo xứ… khi chúng con yêu mến Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Chúng con muốn thực hiện sự hiệp thông này trong từng bậc sống, ơn gọi, và hoàn cảnh cụ thể của chúng con, để diễn tả lòng Tin Cậy Mến vào Chúa qua tha nhân, và trong lòng Giáo Hội. Đó quả thực là cách thế duy nhất để chúng con tham dự và sống Mầu nhiệm Hiệp Thông mà chính Chúa đã thiết lập qua Bí tích Thánh Thể.

Lạy Chúa, Chúa đã tự hiến trở nên của ăn nuôi sống chúng con, xin cho chúng con luôn biết chạy đến với Thánh Thể là nguồn mạch bình an, để chúng con vững bước trên đường về quê trời. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.

 

73. Tình yêu nào cho em

(Suy niệm của Đỗ Lực, OP)

Nhân dịp Italy kỷ niệm 30 năm công nhận quyền phá thai, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã đón tiếp Phong Trào Italy phò sự sống. ĐTC khẳng định: “Thực tế chúng ta phải nhìn nhận ngày nay bảo vệ sự sống con người thật là khó khăn, vì đã dần dần phát sinh một não trạng coi thường sự sống con người va giao phó sự sống đó cho cá nhân toàn quyền định đoạt.” Thế nhưng việc phá thai “không những không giải quyết các vấn đề đang làm cho nhiều phụ nữ và gia đình đau buồn, nhưng còn khơi sâu một vết thương khác trong xã hội chúng ta. Cần phải làm chứng một cách cụ thể rằng việc tôn trọng sự sống là hình thức công bình và phải được áp dụng trước tiên. Đối với những người có đức tin, điều này trở thành một mệnh lệnh không thể trì hoãn […] Chỉ Thiên Chúa mới là Chủ sự sống. Người hiểu biết, yêu thương, đòi hỏi và hướng dẫn từng người […] và mỗi người đều từ trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa mà ra. ”[i]

Giữa lúc xã hội coi thường mạng sống con ngươi, chúng ta lại được chính Chúa Giêsu Thánh Thể mạc khải giá trị cao cả của sự sống. Sư sống cao cả đến nỗi Chúa đã phải hy sinh chính mạng sống và còn để lại Mình Máu Chúa hiện diện sống động giữa chúng ta. Lễ Mình Mau Thánh Chúa là cơ hội lớn nhất cho chúng ta tìm hiểu giá trị sự sống và vai trò Giáo hội trong việc bảo vệ sự sống ấy.

BÍ TÍCH TRUYỀN SINH

Sau khi nuôi sống hàng ngàn dân, Chúa Giêsu muốn mọi người thấy phép lạ đó như một lời mời gọi con người vượt qua của ăn vật chất mà tìm kiếm lương thực thiêng liêng nơi Thiên Chúa. Chúa Giêsu ban tặng “thịt tôi cho thế gian được sống.” (Ga 6:51) Sự sống quả là một tặng phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa!

“Những gì Chúa Giêsu nói (trong đêm lập Bí Tích Thánh Thể) không phải là lời nói suông, nhưng là một biến cố, một biến cố nằm giữa trung tâm lịch sử thế giới và cuộc sống mỗi người chúng ta.”[ii] Chúa hiện diện thực sự và thường trực để bảo vệ giá trị cao cả của sự sống con người. Dù đã hạ mình làm thân bèo bọt mỏng mảnh của kiếp người, Chúa còn hạ mình thấp hơn nữa trong tấm bánh và giọt rượu để hóa thân làm người lần nữa trong các tín hữu. Để thực hiện được biến cố vĩ đại này, Chúa đã phải huy động tất cả sức mạnh Thần Khí để thực sự biến đổi bánh rượu, mà không tiêu hủy chúng.

Bởi đó, Thánh Thể là trung tâm phụng vụ của cộng đoàn Kito hữu. Thánh Thể nói cho biết Thiên Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Thánh Thể cũng mạc khải về bản chất con người và trách nhiệm chúng ta trong cuộc sống chung với tha nhân.

Thánh Thể cũng là trung tâm của niềm tin. Thánh Thể đề cao việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã sai Đức Giêsu đến cứu sống chúng ta. Thánh Thể tán dương việc Thiên Chúa để cho thân thể Chúa Giêsu bị bẻ ra và máu Người đổ ra cho chúng ta. Thánh Thể nhắc lại việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Thần Khí đã làm cho Đức Giêsu trỗi dậy từ cõi chết để chúng ta có thể chia sẻ quyền năng và thừa hưởng sự sống vĩnh cửu như lời Chúa đã hứa.

Thánh Thể mạc khải chúng ta được kêu gọi hành động hơn là chỉ rước Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh Thể làm sáng tỏ sự thật chúng ta là – phải là – Mình Máu Chúa Kitô hy sinh cho nhau. Thánh Thể cho thấy rõ chúng ta được kêu gọi để trở thành tấm banh bẻ ra và chén máu đổ ra cho tha nhân, hy sinh cuộc đời để theo đuổi công lý, hòa bình, hòa giải, hòa hợp, tự do, sự sống và tình yêu. Khi công bố cái chết của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta phải quyết chí hy sinh cả cuộc đời, tài năng và nỗ lực tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa. Chúng ta được mời gọi chứng tỏ cho mọi người thấy chân giá trị của Bí Tích Thánh Thể khi tuân hành mệnh lệnh Chúa Giêsu bảo chúng ta “làm việc này để nhớ đến” Người. Không phải chỉ cử hành Thánh Thể vào ngày thứ nhất trong tuần, nhưng còn cung cấp, nuôi dưỡng và tha thứ cho nhau để trở thành Thánh Thể cho nhau mỗi ngày trong tuần nữa.

Trong bài đọc hai, thánh Phaolô loan báo cho cộng đoàn Côrintô biết Thánh Thể là nguồn suối và là trung tâm của đời sống. Họ là một trong thân thể Chúa Kitô. Nếu biết đề cao chân lý này, họ nắm vững chìa khóa để nối các khác biệt lại với nhau.Thanh Phaolô làm việc cực nhọc để quy tụ một cộng đoàn đã bị xâu xé vì các lực lượng xa lạ với Thiên Chúa.

Trước công đồng Vatican II, lòng tôn sùng Thánh Thể chủ yếu tập trung vào “sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Phần lớn lòng đạo đức hệ tại những lần thăm viếng, chầu, rước kiệu Thánh Thể và làm “giờ thánh,” nơi Chúa Giêsu “đang chờ đợi, kêu gọi và đón chào những ai đến viếng thăm Ngài.”[iii]

Từ công đồng Vatican II, có một sự hiểu biết sâu xa hơn về lòng tôn sùng Bí Tích Thánh Thể gắn liền với Thánh Thể trong Thánh Lễ. Giáo dân hiểu sâu xa hơn về Thánh Lễ với Hội Thánh như nhiệm thể Chúa Kitô. Thánh Thể tạo tác nen Hội Thánh, chứ Hội Thánh không tạo tác nên Thánh Thể. Quả thế, trong đêm bị trao nộp, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người” (Mc 14:22-24) quy tụ trong Nước Thiên Chúa. Máu người vô tội đã đổ ra cho tội nhân được tái sinh làm con Thiên Chúa trong lòng Giáo Hội. Thánh Thể đem lại cho chúng ta sự sống mới và tăng cường sức mạnh cho Nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo hội.

SỰ SỐNG: MỘT GIÁ TRỊ CAO CẢ

Mỗi Thánh Lễ là một cuộc thánh hiến trọn vẹn của Chúa Kitô cho sự sống nhân loại, vì Chúa hiện diện đích thực, thường tại và hành động để thăng hoa cuộc sống và đổ tràn niềm vui từ cuộc sống vĩnh cửu cho muôn dân. ĐHY Alfonso López-Trujillo nói: “Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích của Sự Sống. ‘Ta là Bánh Hằng Sống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.’(x. Ga 6:47-58)[iv] Máu Giao Ước của Người có sức mạnh cứu độ muôn người. Chúa đã phải chết để giành lại sự sống cho con người.

Sự sống thực sự là một giá trị vô cùng cao cả. Thực vậy, “trong Đức Kitô, chính Thiên Chúa đã được mạc khải là Cha và là Đấng ban sự sống. Cũng trong Đức Kitô, con người đón nhận mọi sự như tặng phẩm từ tay Thiên Chúa một cách khiêm tốn và tự do. Họ thực sự chiếm hữu vạn vật khi nhận biết và cảm nghiệm rằng mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa, phat xuất từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.”[v] Thiên Chúa là nền tảng và lý do hiện hữu của vạn vật. “Không có Tạo Hóa, tạo vật sẽ biến tan.”[vi]

Nơi Thánh Thể, chúng ta gặp thấy Đấng tạo thành vạn vật (x. Ga 1:3). Đỉnh cao trong công cuộc tạo dựng chính là sự sống con người. Bởi thế, Người đã không ngần ngại hy sinh mạng sống để dành lại tất cả cho con người. Đến ngày tận thế, “Chúa Kitô sẽ trình lên Chúa Cha Vương quốc sự thật va sự sống, thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hòa bình.”[vii] Nhưng làm sao có thể có một Vương quốc lý tưởng như thế, nếu Chúa không tiếp tục hiện diện và hoạt động nơi trần gian? Đó là lý do tại sao Người lập Bí Tích Thánh Thể. Không có Thánh Thể, Giáo Hội không thể có sức sống để hoàn thành sứ mệnh cứu độ nhân loại.

Giáo hội hiện diện trên mặt đất như một nhắc nhở con người nhớ tới trách nhiệm đối với Thiên Chúa. Lý do vì “giống Thiên Chúa tận yếu tính và sự sống, con người có liên hệ với Thiên Chúa một cách sâu xa nhất. Con người là một nhân vị được Thiên Chúa tạo dựng để sống trong tương quan với Người. Chỉ khi sống trong tương quan và hướng về Thiên Chúa, con người mới tìm thấy sự sống đích thực.”[viii] Chính trên nền tảng đó, con người mới hiểu tại sao mình có trách nhiệm với sự sống của mình và người khác. Thật vậy, “tương quan với Thiên Chúa đòi phải coi sự sống con người là thánh thiêng và bất khả xâm phạm.”[ix] Khi mất ý thức và xác tín đó, con người khinh thường và hủy diệt sự sống tha nhân và xúc phạm đến Thiên Chúa.

Ngày nay, tội ác tràn ngập trong xã hội đến mức đã ăn sâu vào truyền thống và các cơ chế. Thực tế đó là những tội xã hội. “Tội xã hội là mọi tội chống lại công lý đòi phải có trong tương quan giữa các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đoàn, và giữa cộng đoàn với cá nhân nữa. Mọi hành động chống lại quyền con người, bắt đầu là quyền sống, gồm cả sự sống trong bào thai, chống lại sự toàn vẹn thân xác của cá nhân, hay chống lại sự tự do của tha nhân, đều được gọi la tội xã hội.”[x] Tham gia vào các tội xã hội đó có nhiều cách khác nhau và mức độ vi phạm cũng không giống nhau. Trong phạm vi gia đình, tội phá thai dẫn đầu. Ngoài xã hội, tồi tệ và quái đản nhất là tội diệt chủng va đàn áp tự do tôn giáo.

Thực ra, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, con người đều được kêu gọi và có bổn phận phục vụ, chứ không phải hủy diệt sự sống.[xi] ĐGH Gioan Phaolô II từng nói: “Quyền sống là quyền trẻ em phát triển trong lòng mẹ từ lúc mới thụ thai; quyền sống trong một gia đình hiệp nhất và môi trường đạo đức để có thể tăng trưởng nhân cách.”[xii] Nhưng hình như cả gia đình và xã hội cấu kết với nhau để phá hủy sự sống từ trong phôi thai. Phá thai “là một tội ác khủng khiếp và đặc biệt làm xáo trộn trầm trọng trật tự luân lý. Đó không phải là một quyền, nhưng là một hiện tượng đau buồn góp phần nghiêm trọng vào việc gieo rắc não trang chống lại sự sống, và cho thấy một mối đe dọa nguy hiểm chống lại một cuộc sống chung của xã hội trong công bình và dân chủ.”[xiii]

Làm sao có thể chữa trị não trạng chống lại sự sống đó, nếu không nhờ tới Thánh Thể? Quả thực,“Bí Tích Thánh Thể dạy các gia đình và thúc đẩy họ bảo vệ sự sống.”[xiv] Nếu biết quy tụ bên Thánh Thể, gia đình sẽ hăng say bảo vệ cũng như tôn trọng sự sống vì khám phá ra Thánh Thể là nguồn mạch và thành trì bảo vệ sự sống. Đó là lý do tại sao ĐHY Alfonso López-Trujillo khẳng quyết: “Hy tế Thánh Thể là chính hành động của Đức Kitô tiêu diệt sự chết và phục hồi sự sống cho chúng ta. Mỗi khi họp nhau để tham dự Hy lễ này, chúng ta mừng sự sống chiến thắng sự chết, và như thế cũng chiến thắng phong trào phá thai. Phong trào phò sự sống không phải hoạt động cho chiến thắng mà hoạt động từ chiến thắng. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói ở Denver năm 1993, “Đừng sợ. Kết quả của cuộc chiến phò sự sống đã được định đoạt.” Công việc của chúng ta là áp dụng chiến thắng đã được thiết lập vào mọi phương diện của xã hội chúng ta. Cử hành Bí Tích Thánh The là nguồn mạch và tột đỉnh của công việc ấy.”[xv]

Thực tế, phong trào phò sự sống gặp rất nhiều khó khăn, có lẽ vì chúng ta còn thiếu đức tin vào Bí Tích Thánh Thể, nguồn mạch sự sống?

LÒNG MẸ HAY PHÁP TRƯỜNG?

Không có điều gì chống lại con người cho bằng hủy diệt sự sống con người ngay từ trong lòng mẹ. Lòng mẹ trở thành pháp trường. Nhìn vào tình hình phá thai trên thế giới hôm nay, chúng ta phải bàng hoàng kinh sợ.

Trên toàn thế giơi hàng năm có tới 42 triệu trẻ em bị giết trong bụng mẹ. Trung bình một ngày khoảng 115.000 vụ phá thai. Hầu hết các vụ phá thai xảy ra ở các nước nghèo (83%). Nơi các nước phát triển chỉ đạt tỷ lệ 17%. Thế nhưng riêng tai Hoa Kỳ, mỗi năm cũng có khoảng 1.370.000 vụ phá thai (1996). Từ năm 1973 đến 2002, Hoa Kỳ có 42 triệu vụ phá thai hợp pháp.

Tại Việt Nam càng ngày càng có nhiều phụ nữ tìm cách phá thai, vì phá thai được nhà nước coi như sách lược hàng đầu để kiểm soát sinh sản. Bởi thế, Giáo Hội càng phải cam go chiến đấu với não trạng chống sự sống đang thịnh hành tại Việt Nam.

Tỷ lệ phá thai tại Việt Nam cao nhất thế giới. Công khai có 83 vụ phá thai trong 1000 người mang thai. Nếu tính cả việc phá thai lén lút, con số lên tới khoảng 2 triệu trong một năm vụ phá thai, tỷ lệ 111 phần ngàn. Năm 1996 có 1.520.000 vụ phá thai.[xvi] Con số phá thai công khai có khuynh hướng tang cao trong vòng hai thập niên qua. Tỉ lệ phá thai cao nhất từ năm 1976 và 1987, khi số phá thai công khai tăng gấp 10 lần, từ 70.281 đến 811.176 vụ (Goodkind, 1996). Theo thống kê mới nhất, có 1/3 những phụ nữ mang thai đã pha thai.[xvii]

Còn phụ nữ Việt Nam tại Hải ngoại thì sao? Chưa có một thống kê chính xác và khoa học về vấn đề này. Nhưng “hiện nay tại Orange County, thủ phủ người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ, có ít nhất 2 chương trình phá thai miễn phí được quảng cáo trên báo chí Việt ngữ. Và tính trung bình chỉ 1 trung tâm thôi con số những phụ nữ Việt Nam đến để phá thai có khoảng chừng 500 vụ mỗi tháng.”[xviii] Theo một bác sỹ sản phụ khoa hành nghề lâu năm tại Bệnh Viện Fountain Valley, nơi có nhiều sản phụ Việt Nam nhất Orange County, California, “người Việt Nam phá thai nhiều hơn đẻ.”[xix] Trước sự thật ấy, ai còn dám hãnh diện về văn hóa dân tộc nữa không?

Ai là người chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc sát nhân từ trong lòng mẹ, nếu không phải là chính người mẹ? Còn đâu hình ảnh “lòng mẹ bao la như biển Thái bình”? Truyền thống đạo đức gia đình tới đâu?

Nhìn vào số phá thai trên thế giới, có lẽ nhiều người càng bi quan hơn khi thấy 35,4% phụ nữ là Tin Lành, 31,3% là Công Giáo. Nói chung phụ nữ phá thai theo Kitô giáo chiếm gần 70%. Trong khi đó, các phụ nữ không có đạo chiếm 23,7% mà thôi.[xx] Những sự kiện đo cho thấy giáo dân còn ít dấn thân theo Chúa Kitô tới mức nào.

Tới đây, cần tìm hiểu tại sao phụ nữ phá thai. Chỉ có 1% phá thai vì bị hãm hiếp hay loạn luân, 6% vì vấn đề sức khỏe của mẹ hay con, và 93% vì những lý do xã hội (nghĩa là có con ngoài ý muốn hay không thuận tiện).[xxi] Nói chung phụ nữ đưa ra ít nhất 3 lý do phá thai: 3/4 nói có con làm cản trở công việc, học hành hay những trách nhiệm khác. Khoảng 2/3 nói không thể nuôi con. Và 1/2 nói không muốn làm mẹ neo đơn hay đang có vấn đề với chồng hoặc bạn tình.[xxii] Nói tóm, phụ nữ phá thai chỉ vì không muốn hy sinh. Tính ích kỷ đã chiếm trọn con người và ảnh hưởng tới quyết định của họ.

Phải chăng đặt vấn đề như thế đã lỗi thời? Đây là câu trả lời của ĐGH Bênêđictô XVI: “Trên phương diện luân lý, đánh giá của Giáo Hội về vấn đề ly dị và phá thai là phân minh và thấu đáo: đó là tội nặng, vi phạm phẩm giá con người, kéo theo sự bất công sâu sắc trong quan hệ con người và xã hội, xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đảm bảo cho kết ước vợ chồng và Đấng tác thành sự sống.”[xxiii] Nếu ý thức được việc phá thai nặng nề và nguy hại như thế, chắc chắn sẽ không còn ai dám phá thai nữa. Khốn nỗi dù biết là tội nặng, nhiều Kitô hữu vẫn phá thai, bất chấp tiếng nói lương tâm. Chắc chắn chẳng phụ nữ nào vui sướng phải đi đến quyết định phá thai. Thật vay, theo ĐGH, “ly dị và phá thai là những chọn lựa (…) trong những tình thế khó khăn và nguy kịch. Đó là nguồn mạch sinh ra đau đớn sâu thẳm nơi những người phải đưa ra quyết định đó. Nó tác động đến những nạn nhân vô tội: đứa trẻ bị giết trong lòng mẹ khi chúng chưa chào đời, trẻ em bị ảnh hưởng bởi ly dị.”[xxiv]

Trước tình hình phá thai trên thế giới, Giáo Hội có thể làm được gì để chữa những vết thương trong tâm hồn phụ nữ và cứu những tre em vô tội? ĐGH cam đoan:“Giáo Hội có bổn phận gần gũi, yêu thương và khéo léo đối với những người như vậy.”[xxv] Giáo Hội đây là ai, nếu không phải là các Kitô hữu? Bởi vậy, tình trạng phá thai cũng nhắc Kitô hữu ý thức trách nhiệm dấn thân vào phong trào phò sự sống của Giáo Hội.

Hiện nay, có thể tìm thấy một mẫu dấn thân như thế nơi anh Tống Phước Phúc, một nhà thầu Công giáo sống ở Nha Trang. Ngày 13.07.2004, anh thuyết phục một cô gái từ bỏ ý định phá thai chỉ vì cô muốn giữ thể diện gia đình. Thế là anh đã cứu được một mạng người. Trong mấy năm trời, tổng cộng anh đã cứu sống 60 trẻ em thoát cảnh phá thai. Mặc dù găp nhiều khó khăn cả vật chất lẫn tinh thần, anh vẫn luôn phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng. Hàng ngày anh đi lễ tại nhà thờ chánh tòa Nha Trang lúc 5:00 sáng.[xxvi] Thánh Thể trở thành sức mạnh cho anh vượt qua tất cả trở ngại. Sở dĩ trở thành anh hùng cứu sống nhiều sinh mạng trẻ thơ, vì anh đã tìm được nguồn mạch tình yêu nơi Chúa Giêsu Thánh Thể.

Khi chú giải Kinh thánh về Bí tích Thánh thể, tác giả Hurault viết: “Lịch sử không thể dừng lại. Không phải chỉ có tiến bộ kỹ thuật đẩy ta về phía trước, mà thật ra là những đòi hỏi công lý – phát sinh từ cái chết của một người vô tội (và Thiên Chúa là Đấng Vô Tội) – không ngừng bắt ta phải xét lại trật tự hiện hành. Cái chết của Chúa Kitô không cho phép chúng ta được yên ổn, không được nghỉ ngơi.”[xxvii] Trong Thánh Lễ hàng ngày, Chúa Giêsu vẫn hy sinh để đẩy mạnh công cuộc tạo dựng nền văn hóa sự sống cho nhân loại.

Tóm lại, Thánh Thể đã đem lại sức sống cho nhân loại. Càng kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể, tâm hồn càng tràn đầy nhựa sống và niềm hy vọng. Hơn khi nào, gia đình cần phải đến với Thánh Thể để học hỏi cách sống hạnh phúc và bảo vệ sự sống cho mình và tha nhân.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con luôn kết hiệp mật thiết với Chúa để chúng con có đủ sức mạnh chống lại nền văn hóa sự chết và làm cho nhân loại phục sinh trong tình yêu Chúa. Amen.

home Mục lục Lưu trữ