Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 50
Tổng truy cập: 1371343
LỜI THÁNH KINH ỨNG NGHIỆM
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Cuốn sách “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin”[i] viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên trong Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng hận thù và đố kỵ.
Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.
Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế.
1. Chúa Giêsu chết trong cô đơn
Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng khắc cô đơn kinh hoàng. Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn. Có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một tên phiến loạn giết người.
Các môn đệ ở đâu? Những người được Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit giờ ở đâu?
Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?
2. Chúa Giêsu chết trong đau khổ
Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê rợn.
a/ Đau khổ về thân xác
– Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để thu nhận và tống không khí.
– Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau kiệt sức và chóng chết.
b/ Đau khổ về tinh thần
– Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi.
– Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền! Cả những tên cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
3. Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26,39).
Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá” (Pl 2,8).
4. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sĩ nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu: bị đánh vào lưng, bị giật râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ.
Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô (Mt 8,16; Is 53,4; Mc 1,1; Is 52,1; Mt 12,18-21; Is 42,1-3; Mc 9,31; Is 53.6.12; Ga 12,38; Is 53,1). Đề tài Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is 53,5; 1Cor 11,24).
Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa “vì mọi người và cho mọi người” chứ không phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên sự sống cho mọi người.
Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.
5. Sứ điệp tình yêu
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.
Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát. Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.
Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra “Con Người” đẹp nhất trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi. Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của bạo lực đa đoan. Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ bao dung. Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống[ii].
Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi với cả đại dương mênh mông vô tận!?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ.
Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho muôn người.
Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu.
Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.
———————————–
[i] Tác giả An Thiện Minh, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa Nihil Obstat, Đức Cha Guise Võ Đức Minh Imprimatur, Nhà xuất bản tôn giáo, Nhà sách Đức Bà Hòa bình phát hành.
[ii] sđd trang 232-269.
99. Một chứng nhân trực tiếp – Camille Gagnon.
Hôm nay, tường thuật về cuộc thương khó được trích từ Tin Mừng theo thánh Maccô. Đây cũng là một chứng tá vì, theo truyền thống, thánh Maccô đã có mặt trong vườn Cây Dầu: Một thanh niên theo Chúa Giêsu; Người chỉ khoác một tấm vải trải giường. Người ta túm lấy anh, nhưng anh ta bỏ tấm vải trải giường lại mà thoát thân”. Thánh Maccô cũng là kẻ đã được thánh Phêrô trao đổi tâm sự: thánh Maccô đã là bạn đồng hành với thánh Phêrô sau khi Chúa Phục Sinh và hai người đã cùng nhau rao giảng Tin Mừng. Maccô cũng đã nhiều lần nghe kể câu chuyện về con gà gáy vào lúc rạng đông và kết thúc cái đêm phản bội ấy.
Vậy đây là một vụ án với một chứng nhân trực tiếp, một chứng nhân nhớ lại nhiều chi tiết mà những người khác không nhớ.
Một vụ án bình dân.
Nơi thánh Maccô, vụ án của Chúa Giêsu là một vụ án bình dân. Một con người bị điệu ra trước đám đông, một đám đông kinh ngạc vì tất cả những biến cố đang dồn dập xảy đến. Đám đông này ngày mai sẽ không biết trả lời thế nào nếu người ta hỏi tại sao đã la lên: “Giêsu Nadaret” thay vì “Barabas”. Quần chúng hành động theo bản năng vì hoảng hốt; họ la lên trước một việc nhất thiết phải xảy đến.
Trong vụ án này có nhiều nhân vật, đó là những chứng nhân ít được biết đến mà các thánh sử khác đã bỏ qua, và những chứng nhân này hầu như không có gì để làm cả, nhưng vẫn có mặt ở đó.
Còn chúng ta, chúng ta làm gì trong vụ án này? Chúng ta, những chứng nhân trực tiếp cuộc tử nạn của Chúa Kitô ngày hôm nay: chúng ta, trong một đám đông vô danh, chúng ta không biết mình la lên vì ai!
100. Chú giải của Noel Quesson.
(Mc 14,1–15,47)
Trang Tin Mừng hôm nay muốn giúp mọi Kitô hữu đang ước ao sống trọn một tuần lễ “thánh”. Những lễ nghi trong tuần này là những lễ nghi đẹp đẽ nhất, ý nghĩa nhất trong năm. Nhưng chúng ta chỉ thực sự sống những lễ nghi đó cách nội tâm, nếu cá nhân mỗi người trong ta đã suy gẫm những “biến cố” tạo nên “tuần lễ” này, chắc chắn, đó là những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Chúng ta đã làm nghiêng ngả dòng lịch sử và thay đổi bộ mặt hành tinh trái đất chúng ta.
Đọc bài thương khó một lần, cách phớt qua, là không đủ. Cần phải để cho nó thẫm nhiễm trong ta. Nên đọc đi đọc lại. Chúng ta chưa lưu ý đúng mức “vị trí” mà bài thương khó nắm giữ trong toàn bộ “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô”! Trong trình thuật của Mác-cô, bài thương khó là phần thứ năm của Tin Mừng. Ngày nay, chúng ta sẽ nghĩ gì về một tiểu sử, màphần quan trọng nhất trong đó, lại dành để kể lại cái chết của một nhân vật ta muốn nói tới? Ta lại càng ngỡ ngàng hơn khi những trình thuật đó đã được viết sau sự kiện sống lại, bởi những người đang sống trong ánh sáng của biến cố Phục sinh vinh hiển. Thế mà, các nhà trước tác lại không nhấn mạnh đến biến cố Phục sinh đó. Trong bản văn bằng tiếng Hy-Lạp của Mác-cô, bài thương khó đã chiếm tới 160 dòng chữ viết… và cuộc Phục sinh chỉ có 46 dòng, hay 19 dòng, nếu ta không kể những câu 16,9 đến 20, là những câu được một người khác với Mác-cô thêm vào văn bản sau đó.
Đúng vậy, cái chết của Đức Giêsu phải là vấn đề chủ yếu: có một “bí mật” nào đó cần phải được khám phá.
Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!… Điều gì làm được thì cô đã làm: “Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi để chuẩn bị ngày mai táng” (Mc 14,8).
Toàn thể phần đầu Bài Thương Khó (14,1-42) kể lại “âm mưu ám hại Đức Giêsu”, “việc xức dầu tại Bê-ta-ni-a”, “Giu-đa phản bội”, “chuẩn bị mừng lễ Vượt qua”, “báo trước việc Giuđa phản bội”, “thiết lập Bí tích Thánh Thể và “cơn hấp hối tại Ghét-sê-ma-ni”… tất cả những chi tiết đó cho ta thấy, Đức Giêsu bắt đầu sống trong nội tâm Ngài Cuộc thụ Khổ, trước khi nó diễn ra trên thân xác cách cụ thể. Các bạn hãy đọc 42 dòng đầu chương 14 của Máccô. Trong khi đọc như thế, các bạn hãy tìm hiểu tư tưởng và tâm tình của Đức Giêsu. Phải, trước khi xảy ra cuộc bắt giữ, khởi đầu cho tiến trình thụ khổ bên ngoài, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn cuộc thụ khổ đó trong lương tâm, trong ý thức trước về việc tự nguyện dâng hiến của mình: Người đã thấy trước mình sẽ được “mai táng” (14,8), “bị phản bội” (14, 10.14,17), “phải đổ máu” (14,24), “bị mọi người bỏ rơi và bị Phêrô chối từ” (14, 27-30). “hấp hối” (14,34-36) Nhưng Đức Giêsu đã bắt đầu ý thức vấn đề sớm hơn nhiều. Thế thì Người đã nói đến cái chết sắp tới của Người từ lúc nào? Hiển nhiên hơn cả là lúc “Phêrô tuyên xuống Đức tin tại Xê-da-rê (Mc 8,31): kể từ ngày đó, đã ba lần Đức Giêsu nói với các bạn hữu Người về cái chết dữ dằn và khổ nhục của mình (Mc 8,3,31 – 9,30–10,33). Nhưng cũng cần phải ngược lên xa hơn. Các bạn hãy đọc câu 14 của chương I Tin Mừng Mác-cô: Đức Giêsu tiếp tục sự nghiệp của Gioan Tẩy Giả, khi Người biết rằng điều đã xảy đến cho cái ngôn sứ sẽ xảy đến cho ông và cũng xảy đến cho Người. Do đó, Đức Giêsu trải qua phần lớn đời Người, trong sự cảm nhận trước cái chết của mình. Phần chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm cách tránh né khỏi phải nghĩ đến cái chết không? Đối với chúng ta, cái chết của ta không phải là “tác động” quan trọng nhất của đời người và hướng dẫn mọi hành động khác sao?
Bữa ăn vượt qua (Mc 14,12.13.14.16).
Trong đoạn này, đã bốn lần sử dụng từ “Vượt qua”. Lễ Vượt qua của người Do Thái là để tướng niệm công cuộc “giải phóng”! Một dân tộc bị áp bức tự giải phóng mình với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Trong những đau khổ trần gian những gì áp đặt ta, không gì có thể hủy diệt ta, kể cả trong cái chết của mình… nhờ đức tin, chúng ta có thể tiếp gặp sự hiện diện tuy bí ẩn nhưng hiển nhiên của Thiên Chúa, để giúp ta vượt thoát nhưng khó khăn đó, tới hạnh phúc bát diệt. Đức Giêsu đã trải qua cái chết của Người như một cuộc “vượt qua”: thay vì trốn chạy thực tế đau đớn và nhục nhã của thân phận làm người, Người đã phó mặc cho số phận bằng một thái độ liên kết yêu thương với Thiên Chúa! Cảm nghiệm về cái chết như thế, Người đã “thay đổi ý nghĩa” cho nó: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pr 2,8). Lạy Chúa, Xin. cho con biết chấp nhập mọi trái ý trong cuộc sống: đau khổ, thử thách, bệnh tật, già nua, thất bại, cô đơn, tội lỗi… như một cuộc vượt qua, như một bước đường dẫn đến Chúa.
Đây là Mình Thầy… Đây là Máu Thầy… Đức Giêsu đã nói như thế, sau khi dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.
Chúng ta hãy ghi nhận một số chi tiết lý thú: trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giêsu “truyền phép rượu”, sau khi các môn đệ đã uống rượu đó (“tất cả đều uống” câu 23… Người bảo họ: “Đây là Máu Thầy câu 24…). Chi tiết này có thể dẹp bỏ những tranh cãi về phụng vụ và các nghi thức chặt chẽ… như thể tuyệt đối đọc những lời trên bằng tiếng La-tinh hay tiếng địa phương, rước lễ trên tay hay phải đặt Mình Thánh nơi miệng… Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá để ý đến những chuyện tầm phào đó, nhưng hãy tiến vào tình yêu mầu nhiệm của Chúa, Đấng đã phó mình trước, cách vui tươi, trong một thái (độ “tạ ơn” (câu 22) “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hi sinh mạng sống mình” (Mc 10,45; Ga 10.18). Còn chúng ta thì sao? Tại sao chúng ta không lợi dụng việc suy niệm cuộc thướng khó để “ngay từ bây giờ và một cách tự nguyện hiến dâng” cái chết của ta, hợp ý cùng cái chết của Đức Giêsu? Đó là cách thế tuyệt diệu giúp chúng ta không còn sợ cái chết nữa, nhưng có thể bình thản nhìn nó đến, trong bình an, như Đức Giêsu và cùng với Người.
Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa, cho đến ngày được uống thứ nrợu mới trong nước Thiên Chúa.
Đó là niềm vui, sự yên tĩnh, an bình biết bao! Đó là thái độ thanh thản chờ đợi “ngày đó”, ngày của Thiên Chúa, ngày mà Thiên Chúa cuối cùng sẽ hiển trị, ngày mà tất cả sẽ là sự sống, tình yêu, hạnh phúc, bữa tiệc mới, rượu mới… ngày đó “sẽ không còn sự chết, cũng chẳng. còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, nhưng là tiệc cưới của con chiên” (Kh 21,4)… đó là “ngày cuối cùng”, kết thúc thời gian, hoàn tất công trình của Thiên Chúa, ngày thế mạt… và tất cả chúng ta đang tiến tới ngày đó. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa. Chớ gì mỗi bữa tiệc thánh thể là bước chuẩn bị dẫn chúng con tới bữa tiệc? rượu mới trong nước của Chúa Cha”, trong tình yêu.
TIẾN ĐẾN TÌNH TRẠNG CÔ ĐỘC HOÀN TOÀN.
Chúng ta hãy theo sát Đức Giêsu. Người báo trước: “mọi người ” sẽ bỏ rơi Người (Mc 14,27), Phêrô, người có trách nhiệm, sẽ chối từ Người (Mc 14,30). Người chọn “ba ” người trong các môn đệ để ở bên Người trong cơn hấp hối, và ba lần Người trở lại với họ để nài xin họ cùng thức, nhưng họ đều “ngủ” cả (Mc 14,33-37.40–41), tất cả đều “bỏ Người trốn chạy hết” (Mc 14,50)… và trên thập giá, người cảm thấy ngay Thiên Chúa cũng bỏ rơi Người (Mc 15,34). Thật là cô độc hoàn toàn. Mọi người đều phải chết cách cô lẻ. Đức Giêsu đã không tìm cách tránh né. Người vâng theo định mệnh con người”.
Anh em ngồi lại đây. Thầy đi cầu nguyện (Mc 14,32)… Lạy Cha Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (14,36).
Vào lúc ba giờ chiều, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “ê-lô-I, Ê-lô-i, La-ma-sa-bác-tha-ni!” nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con” (Mc 15,34).
Như thế, trong cuộc thụ khổ, Đức Giêsu không ngừng cầu nguyện. Trên đây là hai lối cầu nguyện: cầu nguyện tại Ghét-sê-ma-ni và cầu nguyện tại Gôn-gô-tha. Máccô còn cho ta biết, Đức Giêsu đã cầu nguyện bằng tiếng mẹ đẻ tiếng A-ra-mên, thứ tiếng mà khi Người còn là cậu bé, Đức Maria đã dạy Người cầu nguyện: “Ap-ba” có nghĩa là “Ba ơi”, “Ê-lô-i” có nghĩa là “Thiên Chúa của con”… Lạy Chúa, xin giúp con khi gặp đau khổ dám cầu nguyện thưa gửi như Chúa:
- Xin cho con khỏi đau khổ này!
- Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.
Nếu tôi có sách Kinh thánh (nhưng một gia đình Công giáo đã chắc gì có Kinh thánh!), tôi sẽ đọc lại trọn Thánh Vịnh 21. Đức Gỉêsu đã dùng Thánh Vịnh này để cầu nguyện trên thập giá. Khởi đầu Thánh Vịnh hoàn toàn có tính chơ vơ cô lẻ nhưng khi kết thúc thì lại hớn hở mừng vui một cách hết sức nghịch lý. Đây là một trong những chìa khóa bí mật của huyền nhiệm mà ta đang tìm hiểu trong cuộc thương khó này.
HAI LỜI TỐ CÁO ĐỂ NÓI TRƯỚC MẶT THIÊN HẠ RẰNG: ĐỨC GIÊSU LÀ “CON THIÊN CHÚA” VÀ LÀ “VUA”.
Trong Tin Mùng Mác-cô, có hai lời tố cáo Đức Giêsu: Một lời tố cáo có tính “tôn giáo” (Mc 14,53-65), trước Thượng hội đồng, trước “tất cá các vị Thượng tế… và một lời tố cáo mang tính “chính trị ” (Mc 15,1-20), trước Phi -la-tô, viên tổng trấn đại diện cho Rôma…để “bí mật ” về căn tính đích thực của kẻ bị kết án đó, Đức Giêsu Na-da-rét, được công bố trước mặt thiên hạ.
Ông có phải là Đấng Kitô, con Đấng chí tôn không?
Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy con người ngự bên hữu Đấng toàn năng, và còn thấy Người ngự giá mây trời mà đến.
Ông là Vua dân Do Thái sao? Đúng như Ngài nói đó.
Bây giờ “bí mật” đã được tiết lộ. Cuối cùng thì Đức Giêsu cũng đã nói ra Người là ai. Trong suốt đời sống công khai của mình, Đức Giêsu đã yêu cầu mọi người đoán nhận ra bí mật này phải im lặng, bởi vì con người chỉ có thể “hiểu được” Thiên Chúa, khi nhìn lên thập giá: Người là “Con”, nhưng không như con người nghĩ tưởng. Người là “Vua”, nhưng không như người ta chờ mong. Người con đó hoàn toàn yêu thương, không giữ lại cho mình chút nào: Đó là tình yêu tuyệt đối, liều chết cho “kẻ khác”… ông Vua này yêu thương trọn vẹn, không dành quyền thống trị: mà trở nên “tôi tớ”, tặng ban mạng sống mình cho “muôn dân”.
Đây là một điều hết sức mới lạ, hết sức gây ngo ngàng, đến nỗi không ai có thể hiểu được: những kẻ qua đường thì “lắc đầu” trước ông Vua người Do Thái này (Mc 15,29-30), những người tố cáo thì tiếp tục buộc Người muốn phá Đền thờ (14,58), các thượng tế vẫn nghĩ rằng’nếu là Thiên Chúa thì hẳn là sẽ xuống khỏi thập giá (15,31-32), hai tên trộm cướp bên tả và bên hữu thì sỉ nhục Người (15,32), còn các tông đồ thì chẳng thấy mặt mũi đấu cả!
Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, ông này là con Thiên Chúa”.
Ta cần ghi nhận, cách Đức Giêsu chết đã làm phát sinh thái độ Đức tin trên… chứ không phải biến cố “Phục sinh” xảy ra sau này. Phải, trước khi suy niệm về cuộc sống lại vinh hiển, cần phải suy gẫm về “cái chết” của Đức Giêsu: Cái chết này nói lên nhiều điều. Lạy Chúa, qua cái chết đó, Chúa nói gì với con? Con sẽ đọc lại trình thuật này… Con sẽ lắng nghe… bí mật của Chúa.
101. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
ĐẤNG MÊSIA TIẾN VÀO THÀNH GIÊRUSALEM
(Mc 11,1-11)
Sau một cuộc hành trình dài, Chúa Giêsu cũng các môn đệ đã đến Giêrusalem. Đây chính là thời kỳ quan trọng –Maccô cũng như ba vị thánh sử kia (Mt 21,1-10; Lc 19,28-40; Ga 12,12-19), đã kể lại biến cố này bằng một bối cảnh rất rõ ràng. Bản tường thuật của Maccô đầy tràn các hình ảnh Kinh Thánh. Nghĩa là các Kitô hữu sơ khai vẫn ấp ủ và chiêm ngắm việc Chúa Giêsu vào thủ đô như là hình ảnh báo trước việc Đấng Phục Sinh sẽ trả lời trong vinh quang.
Bối cảnh cho giai đoạn này cũng rất đặc sắc. Từ Giêricô, Chúa Giêsu tiến về thành thánh từ hướng đông. Ngài băng qua các làng Betphaghê và Bêtania, theo hướng xuôi xuống triền núi Ôliviê (c.2a). vào thời Chúa Giêsu, có một truyền thống Do Thái xa xưa cho rằng chính Thiên Chúa –và Đấng Mêsia của Ngài- chắc chắn sẽ theo lộ trình đó để đến phán xét vào thời cuối cùng. “Vào ngày ấy, Người sẽ dừng chân trên núi Ôliviê đối diện với Giêrusalem về hướng đông” (Dc 14,4). Chính bối cảnh tiên tri này đã mang lại âm sắc độc đáo cho biến cố xảy ra ngay sau đoạn khơi mào: sự thanh tẩy Đền thờ (11,15-18).
Trong lúc ấy, việc Đấng Mêsia vào thành vẫn chưa mang vẻ uy nghi gì cả. Chúa Giêsu chưa phát biểu gì. Ngài chỉ phái hai môn đệ đi tìm cho Ngài một con vật để cỡi (c.1b-6). Kiểu tường thuật này được lặp lại trong việc chuẩn bị chi cảnh cuối cùng (14,12-16). Trong cả hai lần, Chúa Giêsu muốn chính mình sắp đặt mọi sự, và muốn mọi việc Ngài ủy thác phải được thi hành hoàn hảo. Điều này càng nhấn mạnh tính chất linh thiêng của biến cố sắp xảy ra. Đó là một sáng kiến cao cả và hoàn toàn không do ngẫu nhiên. Việc Chúa Giêsu ra lệnh đem về cho mình “một con lừa nhỏ có cột dây, chưa có ai cỡi” (c.2) rất đáng ta chú ý đến. Con vật đó phải còn nguyên tuyền, chưa ai dùng đến. Đó phải là một con vật thánh. Ở xứ Israel, lừa là một gia súc quen thuộc với công việc gia đình. Và trong Thánh Kinh, đó là con vật để cỡi theo truyền thống của vua chúa (1V 32-35). Chính trong trường hợp này, qua việc chọn lấy một con lừa, Chúa Giêsu đã hoàn tất một trong những lời tiên tri mang tính Mêsia được biết đến nhất. “Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui lên! Này đây Vua ngươi ngự đến, Ngài công minh và vinh quang, nhưng khiêm tốn cỡi trên lừa còn nhỏ. Ngài sẽ cất khỏi Êphraim các cỗ chiến xa và khỏi Giêrusalem các xe trận. Người sẽ bẻ gẫy cung nỏ chiến tranh và tuyên bố hòa bình cho mọi dân nước” (Dc 9,9-10).
Nghịch lý đã được bộc lộ ra ở đây. Chúa Giêsu muốn tỏ mình ra là Đấng Mêsia của Israel. Ngài khiêm hạ, đem đến sự an bình. Con vật tầm thường của Ngài cỡi trái ngược hẳn với đoàn hộ tống của vua chúa thân chinh: ngựa chiến oai phong, chiến xa. Trang phục kín đáo của Ngài cũng không xứng với danh xưng dân chúng gán cho Ngài. Ngài là “Chúa” (c.3). Dưới ngòi bút của Maccô, tước hiệu này có lẽ chỉ là do sự lầm lẫn khi viết ra. Maccô rất ít khi dùng đến tước hiệu này khi Chúa Giêsu còn sống (7,28 và 12,36-37). Trước tiên, nó muốn ám chỉ Đấng mà các Kitô hữu sẽ thờ phương sau khi Ngài sống lại vinh quang, đó chính là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.
Những câu 7-10 gợi lên nghi thức phong vương. Các môn đệ dắt lừa con tới, trải áo làm yên, Chúa Giêsu ngồi lên (c.7). Những cử chỉ này làm nhận biết tính cách vương đế của Thầy họ. Và dân chúng phấn khởi (c.8). Họ trải thảm cho Chúa Giêsu đi, thảm danh dự trong các ngày lễ thánh (xem chuyện Jêhu trong 2V 12b-13). Việc chặt lá cây là mượn hình ảnh ngày lễ Trại. Thời Chúa Giêsu vào dịp lễ này người ta hoan hỉ đón mừng vương quyền của Giavê. Niềm mong chờ Đấng Mêsia bỗng trở nên sống động nhờ một cuộc diễn hành trong đó dân chúng tán tụng Thiên Chúa, tay cầm các nhành vạn tuế và lá dừa (x. Lv 23,39-40) miệng tung hô.
Chúa Giêsu là vị anh hùng y như trong nghi thức trên đây. Người ta tung hô đón tiếp Ngài. Họ hoan hỉ hộ tống Ngài vào thành (c.9). những lời ca tụng tán dương dân chúng dành cho Ngài mang một sắc thái lễ nghi rõ rệt. Chúng được trích từ Thánh vịnh 118, và cũng được hát trong dịp lễ trại “Hosana!” là một từ ngữ Hy Bá Lai có nghĩa “Xin cứu giúp chúng tôi!”. Dần dà, lời kêu cầu xin giúp đỡ này trở thành một tiếng tán dương, một lời “hoan hô”. Chúa Giêsu đã được hoan hô, được công nhận là Mêsia, “Đấng sẽ đến” (Tv 118,26). Maccô còn làm cho thời điểm này mang tính Mêsia hơn khi ông thêm vào: “Vạn tuế vạn phúc triều đại đang tới, triều đại vua Đavit, tổ phụ chúng ta” (c.10a). dân chúng nhận ra Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, vị vua đã hoàn thành được những lời hứa hẹn của Thiên Chúa với các vị vua Giuđa (2V 7,12-16). Tiếng kêu cuối cùng của dân chúng có thể khiến ta ngạc nhiên, tựa như một âm vang: “Hoan hô Chúa!” (c.10b).
Sau cùng, thánh sử khéo léo ghi nhận đích đến của đám rước hoan hỉ này: “Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem và đi vào Đền thờ” (c.11a). Vị Vua Mêsia hoàn tất cuộc diễn hành tại nơi trung tâm của thành thánh: nơi thờ phượng Thiên Chúa. Toàn bộ hành trình của Chúa Giêsu hướng về Giêrusalem như nơi Ngài chọn để hoàn tất sứ vụ. Những cuộc gặp gỡ, tranh luận sau đó đều xảy ra xung quanh hoặc chính trong nơi thánh này của Israel (11,12-12,44). Những từ Maccô dùng để kết thúc bản tường thuật không làm ta ngỡ ngàng chút nào. Khi đã vào đền, Chúa Giêsu “rảo mắt nhìn xem mọi sự” (c.11b). Chắc hẳn Thầy đã biểu lộ sự hiện diện uy nghi của mình qua việc đảo mắt dò xét xung quanh. Và Maccô biết điều bí mật đó.
Nhưng trong cái nhìn của Chúa Giêsu vẫn ẩn náu một vẻ bình thản lạ lùng. Hội hè lễ lạc đã xong hẳn. Một tấn kịch đang hình thành và sắp mở màn. Ngài đợi đến ngày hôm sau mới ra tay hành động bởi vì trời đã về chiều. Chúa Giêsu cùng với Mười Hai môn đệ trở về nghỉ ở Bêtania (c.11b). Cuộc rút lui chiến thuật này thật đầy ý nghĩa. Bêtania, tiếng Hy Bá Lai có nghĩa là “nhà của kẻ nghèo”. Với vẻ trang trọng lạ thường, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem có thể làm người ta quên đi điều này: Con Người đến đó để trải qua cuộc khổ nạn (10,32-34).
Người ta thường cho rằng cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Giêrusalem chỉ xảy ra vắn vỏi. Mọi người đều tin rằng bản văn tường thuật hiện nay chỉ mang màu sắc hội hè sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh mà thôi. Cộng đoàn sơ khai hẳn rất thích thú đọc lại, qua ánh sáng Kinh Thánh, về một biến cố nguyên tuyền, đồng thời lại khiêm nhường nhất. Gioan đã nói lại điều đó khi ông viết: “Thoạt đầu các môn đệ không hiểu điều này, nhưng khi Chúa Giêsu đã được vinh hiển rồi, họ mới nhớ lại rằng điều đó chỉ về Ngài…” (Ga 12,16). Chúng ta chỉ kết luận rằng vào dịp lễ độc đáo đó, Chúa Giêsu đã được dân chúng tiếp rước nồng hậu nhưng vẫn hàm hồ. Những biến cố kế tiếp sẽ chứng tỏ điều này.
ÂM MƯU CHỐNG LẠI CHÚA GIÊSU (14,1-2)
Lần đầu tiên độc giả có dịp đặt mình vào bối cảnh “Lễ Vượt Qua”. Trước kia, Vượt Qua chỉ là một dịp lễ hội của dân du mục. Vào mùa xuân, khi gia súc đã qua mùa sinh sản, người ta dâng cúng cho thần thánh các con chiên sinh ra đầu tiên (x. Xh 12,1-11). Đến khi dân Israel đã định cư, họ tổ chức một lễ hội khác, cũng mang dáng dấp nông nghiệp như trên, gọi là “bánh không men”. Họ mừng mùa gặt mới. Hai lễ hội này –Vượt Qua và bánh không men- nhanh chóng được nhập làm một với nhau. Thay vì tổ chức mừng đón thiên nhiên đâm chồi nẩy lộc khi xuân đến, họ lại tưởng nhớ việc được giải phóng khỏi ách nô lệ (ra khỏi xứ Ai Cập) và thiết lập dân Thiên Chúa (Dt 16,1-8). Ở Israel, Vượt Qua đã trở thành lễ hội quan trọng và lớn nhất của dân Do Thái. Do đó không phải ngẫu nhiên mà bản tường thuật khổ nạn lại được đặt vào khung cảnh của lễ hội này. Nó tạo nên một bầu khí phụng vụ rõ nét.
Và thế là một sự diễn ra rất chính xác (c.1b). Trước đây ta thấy đã có một âm mưu chống lại Chúa Giêsu, dù mới chỉ là nét phác họa sơ sài (c.3,6). Nhưng âm mưu này chỉ liên quan đến nhóm biệt phái và các kẻ thuộc phe Hêrôđê. Nhưng khi Chúa Giêsu trở lại Giêrusalem, kế hoạch bắt Ngài được vạch ra chính xác hơn, phát xuất từ giới tư tế, và được giới thường dân hùa theo, nhất là sau “vụ việc” Đền thờ (11,15-18; 12,12). Đến bây giờ các thượng tế, với sự giúp đỡ của các ký lục, đang cố tìm ra cách thức cụ thể để bắt Chúa Giêsu. Họ “tìm mưu” hầu tránh gây kích động nơi dân chúng (c.2). Vào dịp lễ Vượt Qua rất nhiều khách hành hương tuôn về Giêrusalem, họ là những người Do Thái tản mác khắp bốn phương thiên hạ. Đó hẳn là một thời cơ thuận lợi để nổi dậy: Vả lại, Chúa Giêsu được dân mến mộ vì những lời giảng dạy sáng chói trong Đền thờ (12,12-57). Các thủ lãnh Do Thái phải nhanh chóng hành động, trước khi ngày lễ bắt đầu: phải đảm bảo trật tự công cộng.
XỨC DẦU THƠM Ở BÊTANIA (14,3-9)
Đây chính là lời dẫn nhập về Cuộc Khổ Nạn. Câu chuyện xảy ra ở Bêtania, một làng nhỏ gần Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu thường ghé lại nghỉ ngơi khi rời thành Giêrusalem (11,11). Người tiếp đón Ngài không ai khác hơn là chính người phong cùi trước đây tên là Simon (c.3a). Ông đã được lành bệnh và đã tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình.
Chỉ một mình Maccô ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một phụ nữ đang khi Ngài ngồi ăn ở nhà một người bạn (c.b). Ta không biết tên của người phụ nữ ấy. Tác giả Tin Mừng không chú trọng đến con người, mà là hành động của cô ta. Cô mang một bình dầu thơm quý, “rất tinh tuyền”. Có lẽ đó là loại dầu thơm chiết xuất từ một loài cây cỏ Ấn Độ. Đập bể bình ra, “Cô đổ dầu thơm trên đầu Người” (c.3c). Maccô nhấn mạnh đến sự hoang phí này. Người phụ nữ không ngần ngại đập bể bình để đổ thật nhiều và thật nhanh. Chuyện đổ dầu thơm lên đầu Chúa Giêsu là việc quá dễ dàng: Chúa Giêsu ngồi vào bàn theo lối xưa, nghĩa là Ngài tựa mình dài lên một cạnh bàn tiệc. Cử chỉ bất ngờ này mang ý nghĩa gì? Về phía người phụ nữ, chắc chắn đó là một cử chỉ tỏ lòng tôn kính Thầy. Có thể cô đã nhận ra tính cách Thiên sai nơi Chúa Giêsu. Bởi vì khi xức dầu lên đầu cho ai, người ta xác định kẻ ấy là vua. Theo như sự mong đợi của người Do Thái thì Đấng Mêsia đã được “xức dầu” (x. Is 61,1). Nhưng việc vừa xảy ra khiến các môn đệ Chúa Giêsu phản ứng dữ dội.
Người ta quên rằng ngoài Simon, Chúa Giêsu và người phụ nữ còn có nhóm Mười Hai môn đệ nữa chứ. Họ mới là những kẻ nổi xung lên, cho rằng làm như thế là phí phạm quá. Họ ước tính bình dầu thơm đó phải hơn ba trăm đồng: tương đương với ba trăm ngày công vất vả của một nông dân chớ đâu phải ít gì! (c.4-5). Thà rằng đem bán lấy tiền cho kẻ khó còn hơn. Lời phê phán này cũng có lý đấy chứ, nhưng Chúa Giêsu vẫn bênh đỡ cho hành vi của cô ấy: “Cô ấy vừa làm cho Tôi một việc nghĩa” (c.6). Các môn đệ phải nhận thức ra điều này. Người ta chẳng thiếu gì người nghèo để mà giúp đỡ. Hẳn thực là theo luật Môsê thì Thiên Chúa đã đòi hỏi dân Ngài phải ra tay cứu giúp kẻ bần hàn, xóa bỏ bất công: “Ước chi kẻ nghèo khó sẽ không có nơi ngươi” (Đnl 15,4). Nhưng cũng không nên quá nhiều ảo tưởng. “Vì sẽ không hề thiếu người nghèo khó trong xứ đâu. Bởi thế Ta truyền dạy rằng: Ngươi phải mở rộng tay ngươi cho anh em ngươi, cho kẻ bần cùng và nghèo hèn trên đất ngươi” (Đnl 15,11). Chúa Giêsu không hề phủ nhận việc phải cấp tốc giúp đỡ người nghèo. Ngoài ra, ngay chính trong đám môn đệ, vẫn có một kẻ đặc trách việc phân phát tiền bố thí. Theo Gioan, đó chính là phần vụ của Giuđa, thủ quỹ của nhóm Mười Hai (Ga 12,4-6). Vậy rõ ràng là các Tông đồ, mà đầu tiên là Giuđa, đã tỏ ra giả dối khi lên án người phụ nữ đó phí phạm. Và Chúa Giêsu bất ngờ mặc cho hành động của cô ta một ý nghĩa cao cả hơn thế nữa: vả lại, “Cô ấy đã lấy dầu thơm để chuẩn bị ngày mai táng” (c.8). Ý Chúa Giêsu muốn nói về hành động mang tính tiên tri của cô ấy. Cô đã thấy trước sự ướp thơm tử thi Chúa Giêsu. Đó là một việc rất có giá bởi lẽ ta nên nhớ rằng nấm mồ nơi chôn cất Chúa Giêsu là mồ của kẻ đã bị kêu án tử; phải nhanh chóng táng xác Ngài và cũng không cần chi mà phải ướp dầu thơm (15,46). Ta cũng nên lưu ý rằng theo đạo Do Thái hồi ấy, người ta vẫn thường coi trọng việc thực thi bác ái. Theo truyền thống thì chôn xác kẻ chết là một nghĩa cử rất đáng biểu dương, tương tự như việc bố thí cho kẻ nghèo khó vậy (x. Tb 1,16-18).
Chúa Giêsu đã không ngần ngại liên kết hành động của người phụ nữ vô danh đó với thảm kịch Ngài sắp phải chịu. Và Maccô cũng không bỏ qua việc kết thúc bài tường thuật bằng cách ghi nhận lời tuyên bố long trọng của Thầy mình là: Khắp cả thế giới hễ nơi nào được loan báo Tin Mừng, thì biến cố này cũng sẽ được biết đến (c.9). Khi ghi lại cảnh này, thánh sử biết rằng việc xức dầu ở Bêtania hẳn sẽ được nối kết với lời rao truyền “Tin Mừng” loan báo cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Ta nhận thấy Maccô rất quan tâm đến việc thông truyền Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô cho cả thế giới (1,1; 8,35; 10,29; 13,10). Tâm điểm của Tin Mừng này là cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đấng Mêsia, và dĩ nhiên, cử chỉ khiêm hạ của người phụ nữ kia phải chiếm một vị trí thích hợp ở đó.
NGẢ GIÁ ĐỂ GIUĐA PHẢN THẦY (14,10-11)
Như ta đã nói ở trên, trong số các môn đệ chống đối việc người phụ nữ xức dầu thơm cho Chúa Giêsu (14,3-9), chắc chắn có “Giuđa Iscariot, một trong nhóm Mười Hai” (c.10a). nhờ vào Tin Mừng Gioan, ta biết thêm rằng chính y là người quản lý tiền bạc cho nhóm Tông đồ. Ngoài việc lo lắng chi tiêu cho cả nhóm, y còn đảm trách luôn việc bố thí cho người nghèo. Vậy mà y chẳng bận tâm gì đến những nhiệm vụ ấy, bởi lẽ “y là một tên trộm cướp… y ăn cắp” hết thảy những gì người ta cho vào trong túi ấy (Ga 12,4-6). Và ta có cần phải tưởng tượng nhiều lắm mới nhận ra chính y là kẻ biển lận và dễ bị mua chuộc phản bội lại Thầy mình nhất không? Thực tế cho thấy rằng chính y là kẻ “đã đi gặp các thượng tế, để tính chuyện nộp Chúa Giêsu cho họ”. Bù lại, y sẽ nhận được tiền (c.10b-11a). Như thế mưu mô mà họ đã âm thầm nuôi dưỡng (14,1b) nay sắp tới lúc chín muồi. Và qua những dòng đơn sơ Maccô đã chỉ cho thấy rằng chỉ vì một lợi lộc bẩn thỉu một tên phản bội đã len lỏi vào hàng ngũ bạn hữu của Chúa Giêsu. Chúa đã chọn Giuđa làm Tông đồ như những Tông đồ khác, tin tưởng y, cùng sống với y và giúp đỡ y (3,13-19). Cần ghi nhớ rằng một trong những nguyên nhân dẫn Chúa Giêsu đến cái chết lại đến từ một trong các kẻ thân cận với Ngài.
Bây giờ Giuđa chỉ còn tìm dịp thuận tiện để giao nộp Chúa Giêsu (c.11b). Dịp này sẽ xảy ra trong vài giờ nữa, không cần phải chờ đến hết ngày (14,43-50).
CHUẨN BỊ CHO BỮA TIỆC LY (14,12-16).
Trình thuật này làm độc giả ngạc nhiên bởi vì được mô tả khá chính xác. Trước hết nó cho biết thời gian và ý nghĩa của bữa ăn tiệc ly Chúa Giêsu dùng chung với các môn đệ. Về thời gian, Maccô cũng như Matthêu (26,17-19) và Luca (22,7-13)-cho rằng bữa tiệc của Chúa Giêsu xảy ra trùng hợp với bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái, được tổ chức vào đêm trước lễ Vượt Qua (c.12a). và Chúa Giêsu cũng rất ít có được khả năng ăn mừng lễ Vượt Qua Do Thái. Bởi vì hôm sau, ngay chính lễ Vượt Qua, Ngài sẽ chết. Nhưng theo luật tòa án hồi bấy giờ, người ta không thể kêu án và xử án bất kỳ ai một khi lễ Vượt Qua đã bắt đầu. Về phương diện lịch sử, trình tự thời gian mà Gioan ghi lại có vẻ hợp lý hơn. Năm ấy, lễ Vượt Qua Do Thái xảy ra vào ngày thứ Bảy, ngày Sabbat (Ga 19,31). Chúa Giêsu bị đóng đinh vào trước hôm đó, ngày thứ sáu, vào giờ mà người ta cắt tiết chiên để ăn mừng lễ (Ga 18-28). Như thế, Chúa Giêsu dùng bữa tiệc ly cùng với các môn đệ vào ngày thứ Năm. Sự xê xích thời gian này rất quan trọng. Dù sao đi nữa, chính vì lễ đã quá gần nên mới có bữa tiệc này, và người ta nhận ra ngay là cả ba Tin Mừng nhất lãm đều biến bữa tiệc này thành tiệc Vượt Qua. Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu gắn liền với “lễ Vượt Qua mới”: việc giải thoát khỏi ách sự Ác và sự Chết-Phaolô là người đầu tiên có thể nói lên: “Đức Kitô, Chiên Vượt Qua của ta, đã bị sát tế. Ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ… nhưng với bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8)..
Bản tường thuật tiếp tục với một văn phong gần như kiểu chuyện “thần kỳ”. Các môn đệ hỏi Ngài về địa điểm dọn tiệc, Chúa Giêsu trả lời khá kỳ cục (c.13-15). Có hai điểm nổi bật trong đoạn này. Điểm thứ nhất là các môn đệ sẽ gặp một người đội vò nước. Lẽ thường thì chỉ có phụ nữ mới đi lấy nước. Như vậy, Chúa Giêsu đã mặc cho đặc điểm kỳ lạ này một dấu chỉ trù định trước. Điều kỳ cục thứ hai, đó là việc tìm được một căn phòng “đã sắp sẵn” cho bữa tiệc. Hình như Thiên Chúa đã quan phòng hết mọi sự, và Chúa Giêsu được coi như là một tiên tri biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra, biết từng chi tiết một. Làm sao giải thích điều này? Hầu chắc là Maccô đã được linh hứng khi viết những trang này, theo kiểu viết Kinh Thánh thông thường hồi đó. Trong sách Samuel thứ I, tiên tri Samuel đã thấy trước được những lần gặp gỡ (theo thánh ý Chúa) và chàng trai trẻ Saul. Những cuộc gặp gỡ này phải chứng tỏ được rằng Thiên Chúa đã chọn chàng trai trẻ này để làm vua Israel (1S 10,1-10). Cũng tương tự như thế, cuộc gặp gỡ được báo trước hai môn đệ với người đàn ông đội vò nước sẽ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã quyết chọn Chúa Giêsu làm Vua -Mêsia. Đoạn này còn được xác quyết chắc chắn bằng một đoạn khác của Maccô: đoạn kể về việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1-11). Ở đó, Chúa Giêsu cũng phái hai môn đệ đi trước để tìm gặp con lừa con. Biến cố này rõ rệt là mang tính chất Mêsia và lần nào thì sự việc cũng xảy ra y như những lời dặn dò trước cả. Mọi sự đều diễn ra phù hợp với nhận định tiên tri của Thầy (c.16).
Ta kết thúc đoạn này bằng cách lưu tâm đến việc lặp lại tới hai lần tính từ “Vượt Qua” (c.12b và 12d) và danh từ “vượt qua” (c. 14,16) là nhằm mục đích kêu mời độc giả chú trọng đến ý nghĩa tối hậu của bữa tiệc Chúa Giêsu sắp tham dự. Nó là dịp lễ mừng nhắc nhở lại việc ra khỏi Ai Cập, đồng thời chính là dịp loan báo sự chết và sống lại của Đấng Mêsia cứu thế.
102. Chú giải của Fiches Dominicales
BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ
THEO THÁNH MACCÔ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một trình thuật có sự liên kết rất chặt chẽ.
Trình thuật Cuộc Khổ Nạn chiếm một khoảng lớn trong Tin Mừng Máccô, bởi vì nó chiếm đến hai chương, gồm một đoạn nhập đề và hai phần, tất cả đều liên kết với nhau rất chặt chẽ.
Nhập đề (14,1-11) mở đầu trình thuật bằng ba phối cảnh, hướng dẫn độc giả vào cuộc, đó là:
+ Âm mưu chống Đức Giêsu, nguồn gốc của tấn thảm kịch (14,1-2).
+ Xức dầu tại Bêtania (4,3-9), cử chỉ có tính tiên tri báo trước việc táng xác.
+ Giuđa phản bội (4,10-1 1) khai mào thảm kịch.
– Phần thứ nhất (14,12-52) của trình thuật xoay quanh bữa tiệc Vượt Qua của Đức Giêsu với các môn đệ.
+ Chuẩn bị bữa Tiệc ly (14,12-16).
+ Thông báo việc Giuđa phản bội (14,17-21).
+ Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể (14,22-26).
+ Tiên báo việc Phêrô chối Người (14,27-31).
+ Lời cầu nguyện trong vườn Ghetsêmani (14,32-42).
+ Đức Giêsu bị bắt (14,43-52).
– Phần thứ hai dẫn chúng ta vào giữa tấn thảm kịch, qua việc Xét Xử và Lên án Tử cho Đức Giêsu (14,53-15,47).
+ Vụ Xét Xử diễn tiến trong hai giai đoạn:
Toà án Do Thái, trước Thượng Hội Đồng (14,53-65)
Toà án Rôma, trước tổng trấn Philatô (15,1 -15). Trong hai giai đoạn này, có kèm hai sự cố.
Phêrô chối Thầy (14,66-72)
– Quân lính nhạo cười Chúa (1 5,16-20)
+ Thi hành án tử cho Đức Giêsu (15,21 -47).
– Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá (1 5,21 -32)
– Đức Giêsu chết trên thập giá (15,33-41): trọng tâm của trình thuật.
Sau cùng, Đức Giêsu được mai táng.
2. Chóp đỉnh của trình thuật: một người ngoại giáo tuyên xưng đức tin.
Trong khuôn khổ của quyển sách này, chúng tôi không thể quảng giải từng chi tiết của trình thuật, chỉ xin nhấn mạnh một vài điểm tiêu biểu mà thôi.
– Những biến cố được thuật lại cách hờ hững, làm chúng ta bực bội. Như thế, cùng với Máccô và các môn đệ, ta có thể nhận thức được rằng: việc thực thi kế hoạch của Thiên Chúa làm cho con người cảm thấy thật hụt hẫng. Thập giá đúng là cớ vấp phạm. Vậy mà chính ở đó mầu nhiệm Con Thiên Chúa được mạc khải! (E.Charpentier, trong “Lire ba Bible” số 55, trang 113).
Sự Thinh Lặng của Đức Giêsu thật đáng kinh ngạc.
E.Charpentier, giải thích: “Đức Giêsu biết rằng mầu nhiệm của Người vượt quá tầm hiểu biết của loài người. Người biết rằng: chúng ta bị “tắc nghẽn”. Bởi vậy, trong cuộc đời công khai, Người đã từ chối nói ra Người là ai. Trong cuộc thương khó, Người chịu vén mở một chút bức màn thinh lặng bởi vì Người đã bị kết án tử và không còn nguy cơ diễn dịch danh hiệu của Người theo nghĩa ham muốn quyền lực” (Sđd).
Mặc dù bị thúc bách bởi những câu thẩm vấn, Người chỉ mở miệng ba lần sau khi bị bắt:
+ Khi vị thượng tế hỏi Người có phải là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa không, Người đáp: Phải, chính thế. Rồi Người giới thiệu mình là “Con Người”, Đấng mà ngôn sứ Đaniel đã loan báo sẽ đến vào ngày tận thế, để phán xét chung.
+ Khi Philatô hỏi với ẩn ý chính trị rằng Ngài có phải “Vua dân Do Thái” không, Đức Giêsu xác nhận lời ông: “Chính như ngài nói đó”. Nhưng rồi Ngài thinh lặng (“Đức Giêsu không trả lời gì nữa”) ngay cả khi liên quan đến số phận Ngài; điều đó nhắc ta nhớ “Người Tôi Tớ đau khổ trong sách Ngôn sứ Isaia: “Bị ngược đãi Người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xé lông ” (Is 53,7).
+ Sau cùng, trên thập giá, Người mượn lời kêu than của người vô tội bị bách hại trong TV 21: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” để nói lên tiếng than van trong cơn nguy khốn và kết thúc bằng lời ca hy vọng tuyệt vời.
Sự Cô Đơn nghiệt ngã của Đức Giêsu nổi rõ trong Tin Mừng Máccô: Bị mọi người bỏ rơi, Người bước đi thui thủi một mình trong đêm tối thập giá.
– Chính trong giờ phút Đức Giêsu chết bị mọi người bỏ rơi, trong khi gánh mọi đau khổ, mọi tang tóc của nhân thế, chúng ta nghe vang lên Lời Tuyên Xưng Đức Tin của viên sĩ quan Rôma, chóp đỉnh của Tin Mừng: Quả thật người này là Con Thiên Chúa”.
– J. Hervieux nhận xét: “Máccô đã tô đậm sự cố này. Trong nhân vật sĩ quan Rôma, (người đứng trông coi việc thi hành án tử), ông nhìn thấy các dân ngoại đang ăn năn trở lại. Ngay lập tức, người ngoại này đã tặng Đức Giêsu danh hiệu cao cả trên mọi danh hiệu. ngài không những là Đấng Mêsia dân Do thái trông đợi mà còn là “Con Thiên Chúa”. Tác giả đặt vào danh hiệu này ý nghĩa mạnh mẽ nhất để chứng tỏ nét độc đáo trong đức tin Kitô giáo: Thiên Chúa làm trong Đức tin Kitô giáo Thiên Chúa làm người trong Đức Giêsu Kitô.
Người ta nhận ra cảnh trái ngược trong trình thuật: trong khi người Do Thái (đám đông qua lại, các lãnh đạo dẫn đầu) chỉ biết cười nhạo, báng bổ Đấng Mêsia bị đóng đinh, thì một người dân ngoại lại nói lên lời biểu lộ một đức tin tinh tuyền nhất (…).
Đồng thời Máccô dẫn độc giả tới chóp đỉnh của Tin Mừng. Ngay từ đầu sách, ta còn nhớ câu hỏi về Đức Giêsu: “ Ông này là ai” Với lời tuyên xưng của Phêrô, đại diện cho nhóm Mười Hai, ngưỡng cửa thứ nhất đã được bước qua: Đức Giêsu chính là Đấng” Mêsia (8,29). Nhưng đức tin mới chớrn nở còn cần phải đào sâu. ” Cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu đã tạo điều kiện cho việc đó. Với việc viên sĩ quan tuyên xưng đức tin, bước quyết định đã hoàn tất: Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa, điều mà Tihên Chúa Cha đã công bố khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (1,11). Và, theo nguyện ước của Đức Giêsu khi xảy ra biến cố tẩy uế Đền Thờ, giờ mọi dân tộc có thể nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa (11,17). Đã hẳn, nhờ ánh sáng của Chúa Phục Sinh và việc dân ngoại gia nhập Giáo Hội sơ khai, tư tưởng cao siêu này mới được hình thành. Hơn nữa, nó còn là kết quả của một cuộc suy tư dài lâu nơi cộng đòan Kitô hữu (gần 40 năm). Chúng ta không nên coi thường vấn đề thời gian” (“Ltevangile de Marc”, Centurion, trang 230).
– Sau cùng, địa vị của PHự Nữ, tuy rất âm thầm kín đáo, cũng rất có ý nghĩa. Họ đi theo Chúa – việc hi hữu đối với một Rabbi Do Thái – trong sứ vụ ở Galilê, họ đi lên Giêrusalem, họ can đảm theo Chúa cho đến núi Sọ, trong khi các môn đệ bỏ trốn hết. Họ được thánh sử nhắc đến ở đây, trong tư thế “nhân chứng” duy nhất: “họ đứng nhìn”, “đứng xa xa, bởi vì họ là phụ nữ, nên không được phép lại gần người thụ hình. Họ làm nên dây liên kết ba biến cố diễn tiến liền sau: cái chết của Đức Giêsu, việc táng xác trong mồ, và nhất là vào buổi sáng Phục Sinh, việc khám phá rằng “Đức Giêsu Nagiarét”, Đấng bị đóng đinh, đã chỗi dậy (16,6).
BÀI ĐỌC THÊM
Bí mật rồi cũng được mạc khải
(“La Bible du dimanche” trang 403-404).
Xuyên suốt Tin Mừng, Máccô đã bảo vệ phẩm cách thiên sai của Đức Giêsu, bằng cách bao trùm lên Người vẻ bí mật và thinh lặng, mỗi khi Người chạm trán với sự chậm tin hoặc sự mù quáng của dân chúng. Trong suốt cuộc khổ nạn, vẻ bí mật và thinh lặng này đã trở thành nỗi cô đơn của Đức Giêsu vì Người xác tín mình là Đấng Mêsia.
Người đã đánh mất cử toạ là quần chúng và người thân cận, khi mà những biến cố đầu tiên của cuộc Thương Khó làm cho các tông đồ lìa bỏ Ngài. Trong vườn Ghetsêmani, những môn đệ lẽ ra phải thức với Người thì đã thiếp ngủ (Mc 14,37-40), họ đã chạy trốn lúc Chúa bị bắt (14,50), dù phải chạy trần truồng vì hoàn cảnh bắt buộc (15,51 -52). Trong cuộc tra vấn, khi Phêrô bộc lộ tính nhát đảm (14,62-71) và hai nhân chứng dối trá tố cáo Người (14,56-60), thì chỉ còn một nhân chứng dám hai lần phát biểu ủng hộ Người, đó là con gà trống đáng thương. Nỗi cô đơn quả là khủng khiếp: người ta nhạo cười Đức Giêsu khi Người tự nhận mình là Đấng Cứu Thế; Người là vua, nhưng là vua giấy trong căn phòng của đám lính gác; Ngài được giới thiệu cho quần chúng, nhưng họ lại là một đám đông la ó xin xử tử Ngài. Trên thập giá, khi mà các môn đệ đứng xa xa để tránh bị lộ (15,40), Đức Kitô cảm thấy cô đơn đến độ dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ Người luôn (15,34-35).
Đức Giêsu chịu đựng nỗi cô đơn càng lúc càng dữ dội, trong thinh lặng tuyệt đối (Mc 14,6; 15,3-4). Trái với các thánh sử khác, Máccô chỉ ghi lại một lời ngắn gọn duy nhất của Chúa trên thập giá. Sự thinh lặng này đánh dấu sự cách biệt giữa quan niệm mà Đức Giêsu hiểu về sứ mạng của mình với quan niệm của những thù nghịch nghĩ về Ngài. Nó chứng tỏ rằng Đức Giêsu luôn trung tín với chính mình giữa những cơn thử thách.
Nhưng vừa khi cái chết đóng dấu ấn vào nỗi cô đơn, thì Đức Kitô liền được tung hô là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa (Mc 15,39), và một nhóm môn đệ lại hình thành quanh Người (Mc 15,40-43). Đức Giêsu không còn cô độc; Giáo Hội được thiết lập và những người ngoại giáo cũng thuộc về Hội Thánh ấy.”
103. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG – KIỆU LÁ
1. Dân chúng nô nức reo hò mừng đón Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Họ là những kẻ đã được chữa lành bệnh, và được Người cho ăn no thỏa mới ngày nào đây. Lời hoan hô của họ rút ra từ Tv 117-118, một bài hát ngày Lễ Lều ca ngợi, cảm tạ những ơn lành Thiên Chúa đã thông ban cho Israel. Ở đây người ta ca ngợi Chúa Giêsu vì hy vọng người đến cho họ ăn no thỏa, cứu chữa họ khỏi bệnh hoạn tật nguyền và nhất là tái lập triều đại vàng son của Đavít. Họ là những kẻ mong chờ vị Cứu Thế theo mối lợi, theo tham vọng riêng. Các môn đồ cũng phấn khởi hân hoan vì cái ngày họ nôn nóng mong chờ dường như sắp đến: họ thầm mơ sẽ được ngồi bên hữu, bên tả Thầy. Còn nhà cầm quyền thì sửng sốt kinh ngạc. Lại chấn động, họ nhốn nháo cả lên: “phải chăng tên Giêsu đầy ma thuật kia bắt dầu cho nổ bùng cuộc cách mạng?”.
2. Nhưng từ trong thái độ, cách đi đứng, Chúa Giêsu đã tỏ ra một ý muốn khác hẳn. Thay vì cưỡi ngựa chiến với quân đội tiên hô hậu ủng, Người chỉ cưỡi lừa con như vị vua khiêm tốn, nhân liền mà Dacaria 9,9 đã tiên báo. Người thuận để cho đoàn lũ hoan hô. Nhưng việc Người tiến vào Giêrusalem không theo như kiểu họ tính toán. Quyền năng của Người là để phục vụ chứ không để cai trị. Người không muốn ngự trong cung điện nhưng muốn hiện diện trong tâm hồn mỗi người… để thông cảm với tất cả những vui buồn đau xót của kiếp nhân sinh. Con đường Người phải đi qua để đến với nhân loại là con đường gian khổ với cái chết trên thập giá.
3. Từ xưa, trong một thánh vịnh, vua Đavít hầu như đã diễn tả trước cảnh bị nhạo báng đau khổ và hấp hối của Chúa Kitô trên núi Sọ (Đáp ca). Trong một thị kiến trước 7,8 trăm năm, tiên tri Isaia cũng đã tiên báo phần nào những sỉ nhục, tra tấn, cười nhạo trong nhà thượng tế cai pha và trong dinh tổng trấn (Bài đọc 1). Vì là chương trình cứu thế, là thánh ý Chúa Cha, nên Chúa Kitô đã chấp nhận từ bỏ chính mình, vâng lời cho đến chết trên thập giá (Bài đọc 2). Cuộc Khổ nạn và cái chết đau thương của Người (được tả lại thực rõ ràng, sống động và tỉ mỉ do Mc trong Tin mừng thứ hai (Bài Thương khó). Tuy nhiên cuộc Khổ nạn và cái chết tức tưởi ấy lại có một kết thúc huy hoàng: vì nhờ đó toàn thể loài người được ơn cứu độ, còn Chúa Kitô thì không phải hổ thẹn như Isaia đã tiên báo, mà được Thiên Chúa cho phục sinh, tôn vinh và tặng ban danh hiệu là Chúa (Bài đọc 2).
3. Đời sống tùng phục Chúa Cha cho đến chết của Chúa Kitô vừa là tấm gương vừa là con đường phải theo. Nếu kết thúc cuộc đời đau khổ và cái chết thảm thương của Người là sự sống lại và tôn vinh, thì kết cuộc nếp sống tuân theo thánh ý Chúa của Kitô hữu cũng sẽ là sống lại vinh hiển và sự sống vĩnh cửu, và được tặng một danh hiệu chỉ mình kẻ ấy biết (x Kh 2,17; 3,12).
104. Chú giải của William Barclay.
RƯỚC LÁ (Mc 11, 1-10)
VUA ĐẾN (11,1-6)
Chúng ta sang giai đoạn chót của chuyến đi. Trong hành trình cuối cùng có lúc Chúa Giêsu lui về vùng Xêdarê Philipphê ở phía bắc, có lúc ở vùng Galilê rồi đến vùng đồi Giuđê và vùng bên kia sông Giođan. Ngài đã đi trên đường xuyên qua Giêricô và đang tiến đến Giêrusalem. Tại đây, chúng tôi phải lưu ý vài điều, bằng không chúng ta không thể hiểu được câu chuyện. Khi đọc ba sách Matthêu, Máccô và Luca, chúng ta sẽ tưởng đây là lần đầu Chúa Giêsu đến viếng Giêrusalem. Các sách ấy chỉ quan tâm kể lại công tác của Chúa Giêsu tại xứ Galilê. Chúng ta phải luôn nhớ rằng các sách Phúc Âm đều rất ngắn. Trong phạm vi ngắn gọn đó, các sách ấy phải tổng kết phần công tác suốt ba năm cho nên các tác giả bị bắt buộc chọn lọc những điều mà họ quan tâm và được biết rõ đặc biệt. Nhưng khi đọc Phúc Âm Gioan chúng ta thấy Chúa Giêsu rất thường đến Giêrusalem (Ga 2,13; 5,1; 7,10). Thật vậy, Chúa Giêsu thường lên Giêrusalem vào những ngày đại lễ. Ở đây chẳng có gì mâu thuẫn. Ba sách Phúc Âm đầu tiên quan tâm đặc biệt đến sứ vụ tại Galilê, còn sách Phúc Âm thứ tư quan tâm đến Giuđê. Thật ra ba sách đầu không hề khẳng định Chúa Giêsu không thường đến Giêrusalem. Các sách ấy vẫn đề cập tình bạn thân thiết của Ngài với Mátta, Maria và Lagiarô tại Bêtania, mối thân tình được nói lên bằng nhiều lần thăm viếng. Có sự kiện Giuse ở Arimathia vốn là bạn của Chúa Giêsu trong âm thầm. Nhất là câu nói của Chúa Giêsu chép ở Mt 23,37 khi Ngài bảo Ngài vốn thường hội họp dân chúng tại Giêrusalem lại như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh nó, nhưng họ lại không bằng lòng. Chúa Giêsu không thể nói thế trừ khi trước đó Ngài đã hơn một lần kêu gọi họ, nhưng chỉ được đáp lại bằng thái độ lạnh lùng. Chính sự kiện đó giải thích biến cố về con lừa ở đây. Chúa Giêsu không đợi đến giờ phút chót mới quyết định công việc. Chúa biết những gì Ngài sắp làm. Từ lâu Chúa đã sắp xếp với một người bạn của Ngài về những việc Ngài sắp làm. Khi sai các môn đệ đi, Ngài chỉ dùng một mật khẩu đã được dàn xếp từ trước “Chúa cần dùng nó”. Đây không phải là một quyết định thình lình, bất chợt của Chúa Giêsu. Đây là một việc căn bản để Chúa Giêsu xây dựng cả cuộc đời Ngài trên đó.
Bếtphaghê và Bêtania là hai làng gần Giêrusalem. Có thể Bếtphaghê có nghĩa là Nhà Trái Vả, còn Bêtania có nghĩa là Nhà Trái Chà Là. Cả hai chắc ở gần nhau vì chúng ta biết theo luật Do Thái, Bếtphaghê là một trong những làng nằm trong giới hạn được phép đi trong ngày sabát, nghĩa là không quá một dặm trong khi Bêtania vốn được thừa nhận là nơi tạm trú cho khách hành hương đến dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem không còn chỗ trọ.
Các ngôn sứ Israel vốn có một phương pháp đặc biệt để truyền đạt thông điệp của họ. Khi ngôn từ không gây ấn tượng cho dân chúng, họ thực hiện một số điều mang kịch tính, dường như muốn nói “Nếu các ngươi không chịu nghe, thì các ngươi sẽ bị bắt buộc phải thấy” (đối chiếu với trường hợp đặc biệt trong 1V 11,30-32). Những hành động đầy kịch tính này có thể gọi là những lời cảnh cáo bằng động tác hoặc những bài giảng mang kịch tính. Đó là phương pháp Chúa Giêsu đang áp dụng ở đây. Hành động của Chúa Giêsu là một lời tuyên bố rõ ràng đầy kịch tính. Ngài chính là Đấng Mêsia. Nhưng chúng ta phải cẩn thận ghi nhận những gì Ngài đang làm. Ngôn sứ Dacaria đã nói “Hỡi con gái Sion, hãy mừng rỡ. Hỡi con cái Giêrusalem hãy reo vui. Này vua ngươi đến cùng ngươi, Ngài là Đấng công chính ban ơn cứu rỗi, nhu mì và cỡi lừa, con của lừa mẹ… (Dcr 9,9). Toàn thể nội dung của câu này có nghĩa là nhà Vua giá lâm trong hòa bình. Tại Palestine, lừa cái không phải là con vật bị khinh dể, nó là một con vật quý phái. Khi một vị vua ra trận thì cỡi ngựa, nhưng khi ngự giá với ý nghĩa hòa bình, thì cỡi lừa cái. Ngày nay, lừa cái bị chúng ta khinh rẻ, nhưng vào thời Chúa Giêsu, nó là con vật dành cho bậc đế vương. Chúng ta phải chú ý là Chúa Giêsu muốn tự xưng là vị vua thuộc loại nào. Ngài đã đến với thái độ khiêm nhu, hạ mình, Ngài đến trong hòa bình, vì hòa bình. Thiên hạ đã chào đón Ngài với tư cách: con vua Đavít, nhưng họ không hiểu.
Đó là nhà vua mà dân chúng đang trông đợi. Thi ca Do Thái từ xưa vẫn củng cố cho dân Israel các ý niệm ấy, họ vẫn trông đợi một nhà vua sẽ đánh tan, giày xéo và nghiền nát. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài lại đến một cách khiêm hạ, nhu mì, cỡi lừa cái.
Ngày hôm đó, lúc Chúa Giêsu cỡi lừa vào thành Giêrusalem là Ngài tự xưng vương, nhưng là Vua Hòa Bình. Hành động của Ngài hoàn toàn trái ngược với tất cả những gì mọi người đang trông chờ, đang hy vọng.
ĐẤNG ĐANG NGỰ ĐẾN (Mc 11,7-10)
Con lừa các môn đệ Chúa đem về chưa có ai cỡi. Việc này phù hợp với con vật được dùng cho mục đích thánh, phải không bao giờ được sử dụng cho bất cứ mục đích nào khác. Cùng một cách này được áp dụng cho con bò cái tơ sắc hoe mà tro của nó tẩy sạch mọi ô uế (Ds 19,2; Đnl 21,3)
Toàn thể bức tranh này là hình ảnh của cả một đám quần chúng đang hiểu lầm. Nó cho thấy một đám người chỉ nghĩ về vương quyền bằng hình thức chinh phục mà từ lâu nay họ vẫn mơ tưởng. Bức tranh này khiến người ta nhớ lại hình ảnh mà Simô Macabêô đã vào thành Giêrusalem 150 năm trước đó, sau khi đã chiến đấu và quét sạch quân thù. “Và người vào thành, ngày 23 tháng 7 năm 171, với lễ cảm tạ và nhành chà là, có đàn cầm, đàn sắt, trống lớn, đàn dây, thánh ca và bài hát, vì một số thù địch đông đảo đã bị trừ diệt khỏi xứ Israel” (1Mcb 13,51). Họ đã tìm cách chào đón Chúa Giêsu trong cương vị một người chiến thắng mà không bao giờ mơ tới loài người chiến thắng mà Chúa Giêsu đang muốn trở thành.
Chính những tiếng reo hò của đám đông tung hô Chúa Giêsu đã cho thấy họ đang suy nghĩ những gì. Khi họ cởi áo trải xuống đất trước mặt Chúa Giêsu, họ làm đúng y như điều quần chúng đã làm lúc Giêhu được xức dầu để làm vua (2V 9,13). Họ la lớn “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa”. Đây là câu trích dẫn Thánh vịnh 118,28, thật ra thì phải đọc khác hơn một chút là “Đấng đến đang được chúc phúc trong danh Chúa”.
Chúa Giêsu đã tự xưng là Đấng Mêsia nhưng theo một cách thức nhằm cố gắng chứng tỏ cho dân chúng thấy họ đã hiểu sai các ý niệm về Đấng Mêsia. Nhưng họ vẫn không thấy được điều đó. Toàn thể cuộc chào mừng của họ chỉ phù hợp cho vị anh hùng chinh phục kẻ thù của dân Israel mà không phù hợp với Vua tình yêu.
Trong hai câu 9, 10 có từ Hôsana. Từ này luôn luôn bị hiểu sai. Người ta hay trích dẫn và sử dụng nó dường như nó có nghĩa là đáng chúc tụng, nhưng nó chỉ đơn giản là từ chuyển âm từ Do Thái có nghĩa là “Hãy giải cứu tức khắc”. Nó đã xuất hiện đúng hình thức đó ở 2Sm 14,4 và 2V 6,26 nơi nó được dùng để bày tỏ việc dân chúng muốn được vua giúp đỡ, bảo vệ. Khi dân chúng hô to Hôsana, đó không phải là lời tung hô tán tụng Chúa Giêsu như người ta vẫn tưởng khi trích dẫn từ ấy. Đó là tiếng kêu gào Thiên Chúa hãy can thiệp, giải cứu dân Ngài ngay bây giờ, vì Đấng Mêsia đã đến.
Không hề có biến cố nào bày tỏ rõ lòng can đảm của Chúa Giêsu cho bằng biến cố này. Trong hoàn cảnh mà mọi người đều nghĩ Chúa Giêsu sẽ lén lút vào thành Giêrusalem, sẽ tránh mặt các nhà cầm quyền đang muốn tiêu diệt Ngài. Thế mà Ngài lại vào thành Giêrusalem theo một hình thức khiến mọi mắt đổ dồn vào Ngài. Một trong những điều nguy hiểm nhất mà một người có thể thực hiện là đến với thiên hạ bảo rằng mọi quan điểm, mọi khái niệm họ đang thừa nhận đó đều sai lầm. Bất cứ ai cố nhổ tận gốc các giấc mơ ái quốc của thiên hạ cũng phải gặp rắc rối. Nhưng đó lại chính là việc Chúa Giêsu đang cố ý làm ở đây. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đang đưa ra lần chót tiếng kêu gọi của tình thương và đang làm việc ấy bằng thái độ can đảm của bậc anh hùng.
105. Con đường vinh quang và thập giá
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Tuần thánh bắt đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá: Phụng vụ hôm nay gồm hai phần vui buồn đan xen vào nhau: Trong phần đầu lễ chúng ta cùng nhau rước Chúa Giêsu khải hòan vào thành Giêrusalem (x Mc 11,1-10). Phần thứ hai là thánh lễ với bài Thương Khó (x Mc 14,1-15,47). Từ đó chúng ta cùng rút ra bài học sống đức tin thế nào trong những hòan cảnh vui buồn trong cuộc sống
1. CON ĐƯỜNG KHẢI HÒAN VÀO THÀNH GIÊRUSALEM:
Trong giờ phút này, chúng ta hãy chiêm ngắm cảnh tượng Đức Giêsu đang long trọng tiến vào thành Giêrusalem. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con. Có nhiều người trải áo và rải cành cây trên lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính. Những tiếng reo hò vang dậy: Người ta tung hô Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Vua thuộc dòng dõi Đavid, là Đấng sẽ đến để giải phóng Israel. Đức Giêsu im lặng để dân chúng tung hô hầu ứng nghiệm lời tuyên sấm: “Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của người đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Dcr 9,9).
2. CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ: QUA ĐAU KHỔ VÀO VINH QUANG:
Sau những giây phút tưng bừng náo nhiệt này, chúng ta được nghe bài thương khó: Chúa Giêsu hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua, hầu mang lại ơn cứu độ cho loài người. Quả thực, Ngài là Vua, nhưng là Vua Mục Tử: “Đến không đòi được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Ngài đã chọn con đường cứu thế theo thánh ý Chúa Cha là “qua đau khổ vào trong vinh quang”, qua cuộc Tử Nạn để bước vào mầu nhiệm Phục Sinh.
3. CON ĐƯỜNG SỐNG ĐỨC TIN HÔM NAY:
Từ hai biến cố trên, mỗi chúng ta phải sống đức tin thế nào trong cuộc sống đời thường?:
– Không ai vô tội: Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của hoạ sĩ REMBRADT thế kỷ 17, là bức họa “Ba Cây Thập Tự”. Khi chiêm ngưỡng tác phẩm này, hầu như ai cũng đều bị thu hút nhìn vào trung tâm của bức tranh: Ở giữa hai cây thập giá của hai kẻ bất lương, thập giá của Đức Giêsu vượt lên cao hơn. Dưới chân thập giá của Chúa là cả một rừng người, trên mặt ai nấy đều lộ vẻ căm thù oán hận, trong đó có cả khuôn mặt của nhà danh họa tác giả bức tranh… Qua đó ông muốn nói rằng: Mọi người chúng ta không ai là không dính líu vào tội đã đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá.
– Phải luôn tự kiểm: Mỗi người chúng ta hãy tư kiểm điểm: Nếu có mặt trong thời điểm xảy ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm đó, tôi có vác đỡ thập giá cho Chúa như ông Simon Kyrênê đã làm không? Có biểu lộ đức tin và lòng sám hối như người trộm lành trên cây thập giá không? Có can đảm đứng dưới chân thập giá để nhận những lời trăn trối cuối cùng của Chúa như Mẹ Maria và môn đệ Gioan… hay không? Chúng ta cũng đừng nghĩ rằng mình sẽ không chối Thầy như Phêrô, hoặc không hèn nhát trốn chạy như các môn đệ, hay không bán Thầy như Giuđa, hoặc không kết án bất công như Philatô, không hùa theo kẻ mạnh để đàn áp bắt nạt người tấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng, không đánh đòn và đóng đinh tay chân Chúa Giêsu vào thập giá như bọn lính hung ác…
– Điều kiện theo Chúa: Đã hơn 2000 năm qua đi, tất cả những gì xảy ra thời Đức Giêsu vẫn còn tiếp diễn. Mỗi người chúng ta cũng được Đức Giêsu mời theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, váv thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những sự thử thách như bệnh tật, thất bại gặp phải, những lời nói nhục mẠ bất công… Đó là những thập giá do Chúa cho xảy đến để thử thách đức tin của ta và khích lệ ta theo Chúa đến cùng
– Làm gì trong cuộc sống hôm nay?: Trong tuần Thánh, chúng ta hãy năng tham dự các lễ nghi Tuần Thánh tại Nhà thờ để có dịp chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hầu gia tăng lòng tin yêu để luôn chọn đi theo con đường của Chúa: Con đường hẹp và leo dốc, con đường khiêm nhu dấn thân và phục vụ tha nhân. Con đường này sẽ dẫn chúng ta về tới thành thánh Giêrusalem trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết luôn tin cậy bước đi theo Chúa, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan và ngàn lần quảng đại hơn con. Xin cho con luôn dấn thân theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, vượt qua mọi nỗi sợ hãi, can đảm lướt thắng những yếu đuối, và biết phó thác trọn vẹn vào tình thương của Chúa. Ước gì khi gặp phải những đau khổ thử thách, chúng con sẽ cảm nghiệm được tình Chúa thương con và trung thành bước theo con đường của Chúa đến cùng.- Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam