Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 30

Tổng truy cập: 1374085

LÒNG HƯỚNG VỀ TRỜI CAO

Lòng hướng về trời cao - Huệ Minh

Ngày hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Chúa Giêsu trở về nhà Cha sau khi Ngài đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Chúa Giêsu hồi hương trong vinh quang phục sinh và được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa.

Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.

Trang Tin Mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.

Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta , đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi.... để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.

Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn... nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội sứ mạng tiếp nối sự hiện diện của Người, Người cũng đòi chúng ta phải có một sự chọn lựa dứt khoá như Người. Chính vì thế, rất có thể đã xảy ra là tại một nơi nào đó, có sự hiện diện của người Kitô hữu, của Giáo Hội, nhưng lại không có sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Sở dĩ như vậy là vì sự chọn lựa của chúng ta đã đi ngược lại với sự chọn lựa của Chúa Giêsu. Chẳng hạn như khi chúng ta có những hành động bất công, bóc lột kẻ khác, thì chính bản thân chúng ta đã bôi nhọ và xoá bỏ sự hiện diện của Đức Kitô.

Người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Chúa Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Dt 10, 22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ biết ngước mắt nhìn lên cao, mà điều quan trọng đó chính là chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà bằng cả việc làm và đời sống, nhất là bằng sự dấn thân, để thực hiện một sự lựa chọn rõ rệt. Con Thiên Chúa khi làm người và ở giữa chúng ta, đã thể hiện một sự lựa chọn rõ rệt, Ngài không hiện diện một cách chung chung, và vô thưởng vô phạt, nhưng đã hiện diện như một Tin Mừng cứu độ cho nhiều người, đồng thời như một hòn đá vấp ngã đối với một số người khác.

Mừng Lễ Chúa Thăng Thiên hôm nay, Chúa muốn nhắn gởi cho chúng ta một sứ điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.

 

3. Niềm an ủi

Biến cố Chúa về trời đem lại cho chúng ta niềm an ủi nào?

Niềm an ủi thứ nhất đó là sự hy vọng vào cuộc sống vinh quang. Thực vậy, nếu để ý chúng ta sẽ thấy rằng: Núi cây Dầu là nơi đã tiếp nhận những giây phút đau khổ cũng như vinh quang của Ngài. Ngọn núi ấy còn in những vết máu trong cơn hấp hối vào đêm thứ năm Tuần Thánh. Ngọn núi ấy đã nghe thấy tiếng van xin tha thiết của Ngài, đã chứng kiến hành động phản Chúa của Giuđa. Nhưng ở đâu có đau khổ Ngài sẽ biến nó thành vinh quang. Chính vì thế mà Núi cây Dầu đã được chọn làm nơi giã biệt và về trời vinh hiển của Ngài. Đó là một niềm an ủi vì chúng ta sẽ tìm thấy vinh quang ở chính những đau khổ phải chịu cũng như chúng ta chỉ ngắt được những bông hồng thắm trên những gai nhọn của nó, hay như lời Đức Kitô đã phán: Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ trước khi được bước vào chốn vinh quang. Chúng ta cũng vậy, sau một cuộc sống đầy chông gai thử thách, chúng ta sẽ được trở v62 trời với Chúa trong niềm hạnh phúc bất diệt.

Niềm an ủi thứ hai đó là Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha để cầu bầu cho chúng ta. Chắc hẳn Ngài sẽ trình bày mọi nhu cầu, mọi ước vọng và mọi sự trợ giúp chúng ta cần đến như lời thánh Phaolô đã viết: Chúa Giêsu đã chết, đã sống lại và ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Ngài chuyển cầu cho chúng ta luôn mãi. Và thánh Gioan cũng nói: Nếu chúng ta trót phạm tội, thì hãy vững tâm vì chúng ta có được một vị trạng sư thần thế trước toà án tối cao đó là Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, bao giờ chúng ta cũng kết thúc lời nguyện bằng câu: Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Sau cùng niềm an ủi thứ ba đó là Chúa Giêsu về trời để dọn cho chúng ta. Điều ấy muốn nói lên rằng quê hương chúng ta không phải là mặt đất này nhưng là ở chốn trời cao. Nhìn vào thực tế chúng ta phải thú nhận rằng: chúng ta đã bén rễ quá sâu vào cuộc sống trần gian, chúng ta đã quá quyến luyến và đã có quá nhiều ràng buộc vào những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu. Chúng ta sẵn sàng bán cả linh hồn cho một nắm bụi đất. Dân Do Thái trong sa mạc đã quỳ gối thờ lạy bò vàng thế nào thì con người hôm nay cũng đang đi vào con đường ấy, họ đã tôn thờ những thần tượng chóng qua thay cho Thiên Chúa, như lời phát biểu châm biếm sau đây: Tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu hiện giờ là tôn giáo bóng đá.

Bởi đó ngày hôm nay, sau khi đã hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Chúa Giêsu đã về trời để nói với chúng ta rằng: cuộc sống trần gian chỉ là như một chiếc thang dẫn các con tới quê trời. Khốn cho các con nếu các con quên đi điều đó. Khốn cho các con nếu các con ra sức biến đổi trái đất trở thành một thiên đàng vĩnh cửu. Khốn cho các con nếu các con không biết dùng cuộc sống này để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết cho tương lai mai hậu.

 

4. Quê trời

Dựa vào đâu chúng ta xác quyết được rằng: Còn có một cuộc đời khác, còn một thế giới khác, còn một quê hương khác là Nước Trời?

Chúng ta không chụp được hình, chúng ta không bắt được làn sóng của thế giới ấy, không một ai đã nhìn thấy, không một ai đã có kinh nghiệm. Nhưng sở dĩ chúng ta tin là bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải, đã tỏ lộ cho chúng ta. Thực vậy, chúng ta không thể biết nếu Đức Kitô đã không nói đến Nước Trời bằng những từ ngữ khác nhau. Chúng ta không thể biết nếu thánh Phaolô đã không viết: mắt không thể nhìn, tai không thể nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những kẻ yêu mến Ngài. Chúng ta không thể biết nếu thánh Gioan đã không mô tả: Ở đó sẽ không còn thời gian và không gian, buổi sáng và buổi chiều, đói khát và cơm áo, tội lỗi và sự chết. Ở đó chỉ còn Thiên Chúa và vương quốc của Ngài, ở đó Con Chiên sẽ dẫn chúng ta đến nguồn suối mát. Chúng ta không thể biết, nếu hôm nay Đức Kitô đã không về trời để củng cố niềm tin của mọi tín hữu suốt dòng thời gian, giúp họ hăng say công bố Tin Mừng, chịu đựng mọi thử thách, chấp nhận mọi đau khổ.

Thế giới của kẻ chết sẽ lớn gấp ngàn vạn lần thế giới chúng ta đang sống. Vậy thế giới đó ở đâu? Có phải là ở ngoài các vì sao? Có phải là ở giữa không trung bao la? Có phải là ở dưới lòng đại dương sâu thẳm? Không, tất cả đều không đúng. Vậy thế giới ấy ở đâu? Tôi xin thưa thế giới ấy ở bất kỳ nơi nào có Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào chúng ta được nhìn thấy và chiêm ngắm Ngài, thì đó là Nước Trời, thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Còn trái lại, ở bất kỳ nơi nào không có Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào chúng ta không được nhìn thấy và chiêm ngắm Ngài, thì đó là hoả ngục, là chốn đoạ đày.

Ngày kia thánh Tôma nói với các tông đồ: Nào chúng ta cùng đi để được chết với Ngài. Thì bây giờ chúng ta cũng có thể đối lại câu nói ấy: Nào chúng ta cùng đi để được sống với Ngài. Chúng ta sẽ sống với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu. Niềm tin ấy đã thiêu đốt biết bao nhiêu con tim suốt 20 thế kỷ. Phải, chúng ta cần đến khoa học kỹ thuật, nhưng chúng ta luôn nhớ rằng: khoa học kỹ thuật không giúp chúng ta tránh khỏi cái chết. Và sau cái chết sẽ còn lại một cuộc sống khác, trải dài đến muôn ngàn đời. Nếu có ai hỏi tôi rằng: điều đó có chắc chắn như ngày mai sẽ là ngày thứ hai hay không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi tôi rằng: điều đó có chắc như mặt trời mọc vào ban sáng và sẽ lặn vào ban chiều không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi tôi rằng: Điều đó có chắc như mùa xuân sẽ trở lại khi mùa đông qua đi hay không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Phải, còn hơn thế nữa, vì có thể có một ngày Chúa nhật mà sau đó không còn ngày thứ hai. Có thể có mặt trời mọc vào ban sáng mà không còn buổi chiều để lặn. Có thể có một mùa đông mà sau đó, mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng sẽ không bao giờ, phải, không bao giờ xảy ra rằng lời Chúa sẽ chẳng được thực hiện: Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời. Vì ý của Cha Ta là hễ ai tin vào Con Ngài thì sẽ có sự sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết. Hãy tin Chúa bằng cách bước theo Ngài, bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy, để nhớ đó chúng ta sẽ được sống đời đời, sẽ được về trời trong niềm hạnh phúc bất diệt với Chúa.

 

5. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Biến cố Đức Giêsu lên trời là một biến cố lịch sử. Vì biến cố này đã diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định, có sự chứng kiến của nhiều người và đã được sách Cộng Vụ Tông Đồ và các sách Tin mừng ghi lại. Bài đọc I cho chúng ta biết, sau thời gian thi hành nhiệm vụ ở thế gian, Ngài chịu nạn chịu chết, sống lại và hiện ra với nhiều người.

Hôm nay, trước mặt các Tông đồ, Ngài được cất nhắc lên trời (x. Cv 1, 1-11). Cũng trong khung cảnh đó, bài Tin mừng cho chúng ta biết, theo lời hẹn trước, Mười một Tông đồ đã đến Galilê gặp Đức Giêsu. Trước khi lên trời, Ngài trao cho các ông sứ mạng loan báo Tin mừng (x. Mt 28,18-20).

Qua biến cố trên và qua những lời nhắn nhủ của Đức Giêsu, chúng ta thử hỏi: Biến cố Đức Giêsu lên trời nói gì với mọi người chúng ta hôm nay?

1. Biến cố Đức Giêsu lên trời khẳng định cho chúng ta rằng: Có Thiên Đàng.

Có đời sau, có Thiên đàng là niềm tin căn bản của người Kitô chúng ta. Niềm tin này luôn được củng cố bởi Kinh Thánh.

Chính Đức Giêsu đã khẳng định: Ngài bởi thượng giới (x. Ga 8,23), Ngài tự trời mà xuống (x. Ga 6, 38). Ngài nói với Matha rằng: “Ta là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Ta thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: “Tôi bảo thật anh: Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43); Ngài nói với các Tông đồ: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”(Ga 14,2-3). Ngài khuyên nhủ mọi người rằng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6, 19-20); “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).

Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn chứng minh cho chúng ta về sự hiện diện của Thiên đàng: Trong dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó cho chúng ta biết: ông La-da-rô chết và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham (x. Lc 16, 18 – 31). Trong dụ ngôn những nén bạc: người đầy tớ tài giỏi và trung thành được vào hưởng niềm vui của chủ anh (Mt 25,21). Trong bài Tin mừng nói về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 41- 45) cũng cho chúng ta biết về phần thưởng của kẻ lành là được “thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn từ thuở tạo thiên lập địa”…

Trong bài đọc II hôm nay, thánh Phaolô cho chúng ta biết: Đức Kitô đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được làm chúa muôn loài muôn vật: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,22-23). Ngài còn nói: “Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).

Tóm lại, tin vào sự sống lại, tin vào Thiên đàng là đức tin căn bản mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Và, biến cố Đức Giêsu lên trời một lẫn nữa củng cố đức tin của chúng ta.

2. Biến cố Đức Giêsu lên trời giúp chúng ta sống niềm hy vọng sẽ được lên Thiên Đàng

Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn cho hết thảy mọi người được lên Thiên đàng. Bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Nhưng, Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người. Vì vậy, để được lên Thiên đàng, xin được nêu lên một số cách thế mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hiện sau đây: Đó là những kẻ tin và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu đã trả lời với ông Nicôđêmô rằng: “Tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,3); Đó là những người đi theo con đường thơ ấu thiêng liêng của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Nghĩa là họ trở nên như trẻ nhỏ, vì nước trời là của những ai giống như chúng (x. Mt 19,14); Đó là những ai thực hiện tám mối phúc thật (x. Mt 5,1-12), chẳng hạn như: Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ; Đó là những người tình nguyện sống khiết tịnh vì Nước Trời như các linh muc, tu sĩ (x. Mt 19,12) và những người từ bỏ mọi sự trần gian vì danh Chúa (x. Mt 19, 27-29); Đó là những người tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với Chúa (x. Mt 21,31-32), như người trộm lành (x. Lc 23,39-43), như Augustinô, như Maria Madalêna...; Đó là những người biết làm việc từ thiện, bác ái (x. Mt 6, 20; Mt 25,31-46); Đó còn là những người biết dọn mình xứng đáng để ăn uống Mình và Máu Thánh Chúa, vì “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”(Ga 6,54)…

Tóm lại, ai cũng có thể được lên Thiên đàng. Nhưng để được lên Thiên đàng cần thực hiện những điều Đức Giêsu chỉ cho như vừa nêu trên, và duy trì tình trạng đó, đặc biệt trong giờ kết thúc cuộc đời này. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nói rất rõ rằng: “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ ‘nhìn thấy Ngài’ mặt đối mặt” (Số 1023); “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy không trọn vẹn, dù không được chắc chắn sự cứu rỗi đời đời, phải trải qua sự thanh tẩy sau khi chết, cũng sẽ đạt được sự thánh khiết cần thiết để bước vào sự vui thoả của Thiên Chúa” (Số 1054).

3. Biến cố Đức Giêsu lên trời mời gọi chúng ta thực thi bổn phận loan báo Tin mừng.

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại rằng: Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng. Ngài nói như sau: “Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng. Thiên Ðàng không có nơi cho người cùng khổ.”

Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng.”

Sau giấc mơ ấy, biết bao nhiêu người cùng khổ, cô đơn đã được chăm sóc và chết êm ái trong vòng tay yêu thương của Mẹ Têrêxa Calcutta và các nữ tu của Mẹ. Thế rồi, cùng đi với Mẹ Têrêxa lên Thiên Đàng là một đội quân đông đảo, họ là những người cùng khổ, cô đơn, những người bị bỏ rơi bên lề xã hội. Thật đúng như ai đó đã nói: “Không ai lên thiên đàng một mình.” Đó là bài học cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay. Để lên Thiên đàng, không phải chỉ lo cho chính mình mà còn phải giúp cho người khác nữa, bằng việc chu toàn bổn phận truyền giáo. Bổn phận đó đã được Đức Giêsu đề cập đến trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.”(Mt 28,19).

Nhưng phải loan báo Tin mừng như thế nào? Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc rao giảng, rao giảng lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện (x. 2Tm 4,2), để có thể nói được như Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc cầu nguyện, hy sinh như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã làm. Đặc biệt, chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng một đời sống thấm nhuần Giáo huấn của Đức Giêsu trong gia đình, trong giáo xứ và ngoài xã hội. Đối với gia đình: vợ chồng luôn sống đúng với những lời cam kết trong Bí tích Hôn Phối bằng cách biết yêu thương chung thủy, giúp đỡ nhau phần hồn phần xác; cha mẹ biết tôn trọng sự sống, sinh sản và giáo dục con cái theo đức tin Công giáo; con cái kính trọng, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ, ông bà. Tất cả mọi thành viên trong gia đình biết siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích. Đối với giáo xứ: các thành viên luôn biết chu toàn những bổn phận mà Giáo xứ đề ra như tham gia các sinh hoạt chung của giáo xứ, đóng góp công của xây dựng giáo xứ, sống tình liên đới với mọi người xung quanh. Đối với xã hội: hãy luôn ý thức sống tinh thần truyền giáo nơi mỗi môi trường sống của mình bằng đời sống công bằng, bác ái, yêu thương.

Ước mong rằng, nhờ lời rao giảng, nhờ lời cầu nguyện và đặc biệt nhờ đời sống chứng tá của chúng ta nhiều người sẽ biết Chúa, biết tìm đến với Giáo hội để biết con đường tới Thiên đàng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lên trời và sẽ trở lại đón chúng con. Xin cho chúng con luôn xác tín mạnh mẽ vào sự sống đời sau, biết sống niềm hy vọng và thực hiện những điều Chúa chỉ cho để được lên Thiên đàng. Đồng thời, xin cho mỗi chúng con luôn biết chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Amen.

home Mục lục Lưu trữ