Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 47
Tổng truy cập: 1365595
LÒNG NHÂN HẬU
LÒNG NHÂN HẬU
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)
Trình thuật Tin mừng (Lc 15, 1-3. 11-32), được mang nhiều tên gọi: Người con hoang đàng - Người Cha nhân hậu - Chuyện người Cha và hai người con...
Hẳn trình thuật này tên gọi thì nhiều nhưng ý nghĩa quan trọng của trình trình thuật vẫn là: Lòng Chúa nhân hậu.
I. KIÊN NHẪN
Chuyện kể rằng, người cha có hai người con trai. Để chuẩn bị cho tương lai tốt đẹp cho con cái, ông đã gầy dựng cơ nghiệp cho hai con với tâm nguyện "của cha là của con" (Lc 15, 31).
Vậy mà, một ngày kia, sóng gió gia đình nổi lên khi người con thứ đòi chia gia tài và muốn tự giải quyết cuộc đời mình bằng cách bỏ nhà trẩy đi phương xa để sống riêng. Theo quan niệm người Do Thái lúc bấy giờ, trong một gia đình, chỉ khi nào người cha mất đi thì các con mới chia nhau gia tài. Cách ứng xử của người con thứ chẳng khác nào anh mong cho cha mình mau chết.
Lòng người cha đau đớn nhưng vì tôn trọng tự do của người con thứ nên ông đã chấp nhận chia gia tài để anh sống riêng. Thế là, ngay từ lúc người con thứ bước chân ra khỏi nhà cũng là lúc người cha sống những ngày mòn mỏi đợi chờ anh ta sám hối quay về với mái ấm gia đình.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng muôn điều tốt đẹp cho con người và ban cho họ làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo với vinh quanh danh dự chẳng thua kém thần mình là mấy. Vậy mà, con người đã lạm dụng quyền tự do của mình để tự định đoạt cuộc đời. Thế nên, họ đã lâm vào cảnh hư ảo và phải mang án chết. Dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ con người quay về với Chúa.
II. TỰ HẠ
Chuyện tiếp theo, người con thứ sau khi đã phung phí tài sản của cha vào những cuộc ăn chơi đàng điếm, anh đã phải đi làm công cho một ông chủ với công việc chăn heo.
Đối với người Do Thái thời ấy, heo là con vật ô uế, nên họ không bao giờ nuôi heo mà chỉ có người dân ngoại mới nuôi heo. Vậy là, người con thứ đã tử bỏ người cha, từ bỏ gia đình để đi làm công cho người ngoại và hàng ngày tiếp xúc với con vật ô uế. Tất nhiên, anh ta luôn ở trong tình trạng ô uế. Tệ hơn thế, khi cơn đói dày vò, anh ta muốn ăn thức ăn dành cho heo những vẫn không được ăn. Anh đã thua cả heo, con vật ô uế. Anh lao xuống tận đáy sâu của vực thẳm tội lỗi.Thật là bi đát!
May thay, trong cơn cùng khốn, một chút lương tâm trong anh đã trỗi dậy và khai sáng cho anh nhớ về gia đình: trong gia đình anh, biết bao người đầy tớ được cha anh đối xử nhân ái và được sống sống tốt đẹp; vậy mà giờ đây phận là con của người cha giàu có và nhân hậu mà anh lại phải sống trong tình trạng nhầy nhụa bi thảm. Để giải cứu cơn đói, anh đã quyết định "đứng lên" quay về nhà mình và chỉ giám mong được cha đối xử với anh như người làm công. Anh đã chuẩn bị cho ngày về bằng một bài diễn văn: "Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chăng đáng còn gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công vậy" (Lc 15, 18-19).
Người cha đã hằng mong mỏi ngóng chờ người con quay về. Vừa trông thấy con còn ở đàng xa, ông đã vội chạy ra đón anh, "ôm cổ anh ta và hôn lấy, hôn để" (Lc 15, 20) và không để anh đọc hết bài diễn văn. Ông đã không thể hiện tư thế của một người cha uy nghi quyền thế khiến mọi kẻ phải lạy lục xin ông ban phát ân huệ. Trái lại, ông đã tự hạ mình, nhanh chân chạy đến đỡ lấy người con tội lỗi quay về. Tình thương của người cha đã làm cho người con tội lỗi nghẹn ngào không nói được hết lời xin lỗi.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh của Thiên Chúa. Dù bao phen con người lầm lỗi phản nghịch Chúa, bỏ Người chạy theo thần của dân ngoại, nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc con người sống ngụp lặn trong tội lỗi. Biết bao lần, Người dùng các ngôn sứ, các thủ lãnh để hướng dẫn dân Chúa trở về với nẻo chính đường ngay và sau cùng Thiên Chúa còn tự hạ mình mang thân phận con người để cứu độ con người cách toàn diện.
III. CỨU ĐỘ
Người cha vui sướng xiết bao khi người con hoang đàng trở về với mái ấm gia đình. Ông tuyên bố: "Con ta đây chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay đã tìm thấy" (Lc 15, 24) và chỉ thị cho gia nhân: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dẹp vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!" (Lc 15, 22, 23).
Người cha ban áo đẹp nhất cho người con để từ nay anh phải rũ đi chiếc áo quá khứ cũ rách của nếp sống tội lỗi để mặc lấy chiếc áo lễ hội tràn đầy niềm vui và hạnh phúc; ban nhẫn cho người con là biểu hiện ban quyền bính, uy thế danh dự của gia đình vương giả; ban dép cho người con là biểu hiện phục hồi lại quyền tự do (người nô lệ không đi dép); ban dê đã "vỗ béo" chứ không ban dê gầy hay dê nào cũng được là biểu hiện người cha đã cho "vỗ béo" dê để sẵn sàng mở tiệc khi người con hoang trở về.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh Thiên Chúa cứu độ con người cách toàn diện. Thiên Chúa đã dọn sẵn hạnh phúc thiên đàng và chờ đợi người tội lỗi ăn năn thống hối quay về, Người "không muốn cho kẻ dữ phải diệt vong nhưng muốn họ bỏ đường tà để được sống" (Ed 18, 23). Ai trở về cùng Thiên Chúa sẽ được cải tử hoàn sinh "chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay đã tìm thấy" (Lc 15, 24).
Tiệc vui đoàn tụ đã khai mở, mọi người "bắt đầu ăn mừng" (Lc 15, 24) nhưng sóng gió gia đình lại tiếp tục nổi lên. Người con trưởng xuất hiện. Sau một ngày vất vả nơi đồng áng, về đến nhà trông thấy cảnh tượng cha mừng người em trở về, anh đã không thể chấp nhận nổi; anh không những không vào nhà mà còn buông lời xúc phạm người cha: "Còn thằng con của cha đó..." (Lc 15, 30). Thế mới lộ ra, bấy lâu nay, tuy sống gần bên cha gia nhưng người con trưởng chỉ sống tương quan với cha mình người chủ với tớ...
Lúc này, người cha lại phải xuống nước với anh: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất của những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ vì em con đây đã hết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy" (Lc 15, 31-32).Vậy là, người cha lại phải kiên nhẫn và hạ mình trước người con trưởng để mong anh quảng đại như cha sẵn sàng đón nhận em.
Một lần nữa, Thiên Chúa lại tiếp tục kiên nhẫn, hạ mình và chờ đợi để cứu độ muôn người.
KẾT
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa Chúa được Đức Giê-su diễn tả qua một dụ ngôn về một gia đình người cha và hai người con.
Câu chuyện gia đình ba cha con đã khép lại nhưng chưa có hồi kết (không biết người con trưởng sẽ ra sao). Hẳn hồi kết ấy sẽ do mỗi người tín hữu phải góp phần mình để hoàn thành bằng sự quyết tâm đứng lên sau những lần vấp ngã để trở về cùng Thiên Chúa là cha nhân hậu, đồng thời quảng đại với mọi người.
12.Phục hồi phẩm chất cao đẹp – Lm. Ignatiô Trần Ngà
* Chỉ có tội lỗi là nguyên nhân duy nhất tàn phá phẩm chất cao đẹp của con người.
Cho dù lũ lụt có thể cuốn trôi tất cả nhà cửa ruộng vườn, biến người ta thành người tay trắng, nhưng không thể cuốn trôi phẩm giá người ta.
Cho dù hoả hoạn có thiêu rụi nhiều phố xá làng mạc, cướp đi tất cả tài sản của người dân, nhưng cũng không thể thiêu rụi phẩm giá con người.
Dù tai ương hoạn nạn có cướp đi một vài chi thể của con người, khiến người ta trở nên tàn phế, nhưng cũng không thể cướp đi phẩm chất cao đẹp của người ấy.
Không gì từ bên ngoài có thể làm mất phẩm chất, mất giá trị con người, nhưng chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ diệt phẩm giá cao đẹp của họ. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy: "Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mác cô 7, 21-23)
Câu chuyện người con thứ trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ cho thấy tội lỗi làm băng hoại phẩm giá con người đến mức nào.
Sau khi đòi chia gia tài và phung phí tài sản của mình với bọn đàng điếm, người con thứ lâm vào cảnh đói khát cùng cực và phải xin làm nghề chăn heo là nghề ô nhục nhất đối với người Do-Thái.
Không có hình ảnh nào diễn tả tình trạng xuống cấp và suy đồi phẩm giá cho bằng hình ảnh một con người đói rách thảm hại, chen chúc với đàn heo bẩn thỉu hầu mong được ăn thực phẩm của heo nhưng chẳng ai cho.
Chính tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm cho giá trị con người bị suy sụp cách thảm hại như thế.
Nhưng cũng qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng: những con người bị tội lỗi làm mất giá trị có thể được phục hồi nhân phẩm cách tuyệt vời.
* Phục hồi lại phẩm chất cao đẹp của mình nhờ quay về với Chúa.
Một người giàu có bị phá sản, còn rất lâu mới có cơ may xây dựng cơ đồ, phục hồi sự nghiệp.
Một người bị mất chức, mất việc... khó lòng kiếm lại được chức, được việc ngon lành như trước.
Nhưng thật vô cùng may mắn và hạnh phúc cho chúng ta là những người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất hết phẩm chất cao đẹp của mình... thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là có thể phục hồi lại được phẩm chất cao đẹp như trước.
Sau khi người con thứ lâm vào tình trạng đói khát, anh ta hồi tâm lại và quyết chí trở về nhà cha, để xin làm một người tôi tớ.
Khi thấy con từ đằng xa, người cha mừng rỡ chạy lại ôm lấy đứa con hoang và hôn nó hồi lâu.
Không để cho đứa con hư nói hết lời hối lỗi, ông truyền sai tôi tớ mau mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn quý vào tay cậu, mang giày sang quý vào chân cậu và hãy hạ bò tơ để ăn mừng...
Thế là từ một con người thân tàn ma dại, một thằng chăn heo hèn hạ đói khát, người con hoang đàng đã trở thành chàng công tử thượng lưu với bao nhiêu tôi tớ hầu hạ. Thay vì tấm áo rách hôi hám, cậu được mặc vào người tấm áo đẹp nhất. Thay vì đi chân đất bần cùng, cậu được mang giày dép sang trọng rồi được đeo nhẫn quý vào tay như những người quyền quý. Thay vì trước đây khao khát được ăn chung máng với đàn heo, ăn giữa đàn heo, cậu được ngồi ăn với cha, với họ hàng, với những bậc tai mắt trong làng xóm, có kẻ hầu người hạ. Thay vì những đồ cặn bã của heo, nay cậu được ăn thịt bê đã vỗ béo ngon lành. Thật khác ngày hôm qua một trời một vực. Thật là một sự thay đổi tuyệt vời, nằm mơ không thấy.
* * *
Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, là kết hợp với Đức Ki-tô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô hôm nay: "Phàm ai kết hợp với Đức Ki-tô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi." (2C 5,17)
Cơ hội trở về luôn luôn sẵn có. Lời Chúa và Hội Thánh vẫn liên tục kêu mời. Điều còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở nơi ta. Điều quan trọng là chúng ta có quyết tâm làm lại cuộc đời, sửa đổi và nâng cấp đời sống hay không.
13.Người con trở về nhà cha
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
1. Một tín hiệu không vui
Từ ngoài đồng về, người con cả nổi giận, không chịu vào nhà, và người cha đã phải ra tận nơi để năn nỉ cậu. Hai tình huống được đặt ra ở đây:
- Người con cả có vào nhà không?
- Vào hay không vào, đàng nào tốt hơn?
1.1.Tình huống một: không vào nhà, để rồi lại bỏ nhà ra đi
Có người cho rằng anh không chịu vào nhà. Anh không chịu vào, vì anh không thể tha thứ cho người em. Anh không chịu vào, vì sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm, bị chia sẻ. Anh không chịu vào, vì anh không hiểu được tấm lòng của người cha.
Hơn nữa, anh còn kết án người cha. Anh kết án cha bất công và keo kiệt. Kết án cha bất công khi anh nói: cha coi, thằng con của cha đó, một thằng ăn chơi đàng điếm trở về thì cha lại ăn mừng. Kết án cha keo kiệt khi anh phàn nàn: cha chẳng cho con lấy một con dê con để vui với bạn bè, còn giờ đây cha lại cho giết cả một con bê béo để mừng thằng con bất hiếu trở về. Như vậy đủ lý do để chúng ta kết luận: người con cả bỏ nhà ra đi.
Người con cả bỏ nhà ra đi, nói lên “niềm vui của Thiên Chúa, hình như không có lúc nào được trọn vẹn khi ở giữa Dân Người”. Một kết thúc làm cho chúng ta suy nghĩ: Thiên Chúa là như thế đó, nỗi khỗ tâm của Thiên Chúa là như thế đó.
1.2.Tình huống hai: người con cả vào nhà và ở lại với người cha.
Một kết luận xem ra có hậu, nhưng thực sự có hậu không?
Chúng ta trở lại với người con thứ, người con hoang đàng trong dụ ngôn. Từ khi người con hoang đàng trở về, mọi sự đều thay đổi. Những người làm công yêu cậu chủ, yêu cậu chủ rồi yêu luôn cả công việc cậu chủ giao phó. Vì yêu cậu chủ, nên yêu luôn cả ông chủ, vì khám phá ra lòng nhân hậu của ông chủ mà suốt cả bao năm dưới quyền người con cả, họ không thấy được điều đó. Từ đây, những người làm công có một cái nhìn so sánh giữa người con thứ và người con cả. Họ càng thương người con thứ bao nhiêu thì lại càng hận người con cả bấy nhiêu.
Đứng trước tình cảnh đó, người con cả sẽ phản ứng ra rao? Liệu anh có thể kiềm chế được tính ghen tương đã nằm sâu trong lòng cậu không?
Thật vô cùng khó! Vì lúc đầu, chỉ có người cha vui mừng vì cậu em trở về mà anh đã tức điên lên rồi, phương chi, giờ đây người cha vui mừng không những vì cậu em trở về, mà cả những người làm công cũng trở thành những người con trong nhà, được hưởng những quyền lợi như một người con trong gia đình.
Như vậy, chắc chắn sự ghen tương sẽ bùng nổ và chúng ta biết hậu quả của ghen tương sẽ dẫn tới đâu. Chuyện xảy ra vào thế kỷ 16 tại Ấn Độ: trong triều đình có hai viên quan, mỗi người một tính xấu. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam. Ngày kia, nhà vua có một sáng kiến để sửa đổi những tính xấu đó. Nhà vua cho triệu hai viên quan vào triều đình, cho biết sẽ trọng thưởng họ vì đã phục vụ lâu năm. Hai ông có thể xin gì tùy thích,
nhưng người đầu tiên mở miệng xin, chỉ được những gì mình muốn. Còn người thứ hai sẽ được gấp đôi. Những giây phút nặng nề trôi nhưng không ai mở miệng trước. Người tham lam nghĩ trong lòng rằng nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị lý luận: thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước, để người kia được gấp đôi.
Vì thế không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, nhà vua phải đề nghị người ganh tị nói trước. Người ganh tị lẩm nhẩm: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi, nên ông tâu với vua: tôi xin chặt đứt một cánh tay. Ông ta sung sướng với ý nghĩ: người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Thật là ngớ ngẩn! Hại ai không hại, lại hại chính thân mình. Kẻ ganh tỵ là như thế đó!
2. Điểm dừng của dụ ngôn “người con hoang đàng” trong Tin Mừng
Sau buổi tiệc hôm đó, cuộc sống của người con thứ sẽ ra sao?
Phải chăng lại âm thầm tiếp tục như những ngày tháng trước khi bỏ nhà ra đi? Phải chăng câu chuyện dừng lại ở đây?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy đọc lại quyết tâm của cậu ta: “thôi ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
Một lời cầu xin ân huệ và cũng là một quyết tâm: “xin coi con như một người làm công cho cha thôi”. Trở về và được phục vụ cha như một người làm công, được như thế cũng là mãn nguyện rồi. Thế là từ nay các quyền lợi, các ưu đãi dành cho một người con trong nhà, anh không dám nghĩ tới nữa. Giờ đây chỉ còn một việc phải làm là phục vụ và phục vụ hết mình. Quyết tâm này không những làm người cha xúc động, mà nó còn mang một ý nghĩa vô cùng lớn đối với những người làm công.
Với bao chua cay đau xót, với bao tủi hổ ê chề, khi phải đi chăn heo cho người ngoại bang, nhờ đó mà giờ đây anh có một cái nhìn khác về cuộc sống. Nơi nhà cha cậu, cậu luôn sát cánh bên cạnh những người làm công. Cậu ân cần thăm hỏi từng người một. Cậu đồng cảm với những hành vi, mỗi cái nhìn, cũng như những phản ứng của những người làm công. Nhất là cậu giúp những người làm công tìm được một ý nghĩa, một niềm vui trong cuộc sống.
Cuối năm đó tính sổ lại, người cha vô cùng ngạc nhiên, tại sao cũng một thời gian như nhau, với số người làm công như nhau, mà hoa lợi lại tăng nhiều như vậy. Người cha khám phá ra rằng: chính là do cậu chủ. Cậu chủ thương mến những người làm công, và những người làm công thương mến cậu chủ. Trước đây, khi làm việc, những người làm công chỉ mong cho mau hết ngày để tính công, nhưng giờ đây, họ cố làm cho hết việc chớ không phải hết giờ. Và với số hoa lợi bỗng nhiên dư ra như vậy, ông chủ lại chia sẻ cho những người làm công. Được quan tâm, được nâng đỡ, những người làm công lại mến chủ hơn. Càng mến chủ, họ lại càng làm việc tích cực hơn, và cứ như thế, ông chủ càng ngày càng vui hơn. Ông chủ vui hơn không phải vì tài sản càng ngày càng lớn hơn, nhưng vui hơn, vì giờ đây, nhờ chính đứa con đi hoang trở về, anh đã cảm hóa, anh đã biến đổi những người làm công trở thành những người con thực sự trong gia đình của người cha. Đây mới là điểm dừng của dụ ngôn “người con hoang đàng”. Amen.
14.Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Chúng ta đang sống trong những ngày của mùa chay thánh, Lời Chúa trong các chúa nhật mùa chay luôn mời gọi chúng ta hãy trở về với Chúa bằng con đường sám hối. Bài Phúc âm chúng ta vừa nghe cũng là một lời mời gọi sám hối trở về với Chúa để đón nhận ơn tha thứ của Chúa.
Dụ ngôn chúng ta vừa nghe đó là một trong những bài dụ ngôn đẹp nhất trong Tin mừng, nó diễn tả tình thương của Thiên Chúa dành cho con người qua hình ảnh của người cha trong gia đình. Các bạn có thể đặt tên cho bài dụ ngôn này là gì? Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn "đứa con hoang đàng", nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn "Người cha nhân hậu" mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Có mấy nhân vật chính trong dụ ngôn?
Người cha trong dụ ngôn có 2 người con. Có lẽ người ơng có phần kém mai mắn, mặc dù ông rất giàu có nhưng có hai đứa con không có hiếu với mình. Người con thứ thì đã quá rõ. Lẽ ra khi lớn khôn thay vì anh phải phụng dưỡng cha già(thì anh lại lm gì n).anh lại đòi chia gia tài, một hành động thất khó chấp nhận theo quan niệm của người Do thái. Vì người con chỉ được phép đòi chia gia tài khi cha chết hoặc người cha tự ý chia cho các con khi thấy mình già yếu. Hành động của người con thứ khác nào nguyền rủa cho cha mình mau chết. Người con cả xem ra có hiếu hơn, biết nghe lời cha hơn. Anh đang từ ngồi đồng trở về, anh cĩ thi độ thế no khi biết em mình đ trở về? anh cĩ vui? Những lời của anh nĩi cho thấy tấm lịng của anh, bấy lu nay anh sống với cha chỉ là làm vì bổn phận hơn là vì yêu mến cha. Anh luôn nhìn cha mình bằng thái độ sợ sệt giống như người làm công hơn là con. Điều làm cho người cha đau lòng chính là thái độ của anh đối với em. Anh không muốn coi mình có người em này, anh không gọi nó là "em con" nhưng là "cái thằng con của cha kia". Anh không hề thông cảm và tỏ ra tha thứ cho những lầm lỗi của em, cũng không hề thấu hiểu cho nỗi đau của cha khi phải mất con.
Thái độ của anh cả như thế cịn thi độ của người cha như thế no? Ơng trch mắn quở phạt anh ta, ơng khơng muốn nhận lại con?. Chng ta nghe tiếp cu chuyện. Sau khi người con thứ phun phí hết tài sản của mình, bước vào con đường nghèo đói, nghèo đến độ muốn ăn đồ ăn của heo mà cũng không được. Khi anh lâm vào con đường cùng thì anh mới nhớ đến cha, nhớ những ngày mình được sống sung túc trong nhà cha mà không phải lo nghĩ gì. Hành động quay về của anh có thể chỉ xuất phát từ sự cùng cực của mình, muốn trở về để tìm cái ăn mà sống, chứ chưa thật sự vì yêu mến cha. Anh chỉ muốn cha anh coi anh như là một người làm công thôi, chứ không dám nghĩ tới địa vị làm con của mình. Anh đau biết rằng ngày anh ra đi cũng là lúc mà hằng ngày người cha vẫn luôn trông ngóng mong anh trở về. Anh còn ở đằng xa thì cha đã thấy anh, chạy ra ôm lấy con mình. Ơng không đợi cho người con nói hết lời xin lỗi mà ngay lập tức đã sai đầy tớ mang áo, mang nhẫn ra đeo cho anh để phục hồi địa vị làm con cho anh. Dụ ngôn không kể cho chúng ta biết tâm trạng của người con thứ lúc đó như thế nào, chắc chắn đó sẽ là những giọt nước vì hạnh phúc vì được yêu thương và tha thứ của cha.
Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến ai qua 3 nhân vật trong dụ ngôn?
Người cha? Ám chỉ Thiên Chúa
Người con thứ? Ám chỉ những người có tội biết ăn năn
Người con cả? Ám chỉ những người Biêt phái và những ai tự coi mình tốt và không biết tha thứ
Qua bài dụ ngôn hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: nếu chúng ta phạm tội Ngài vẫn yêu thương chúng ta, vẫn tìm kiếm và trông chờ chúng ta trở về. Điều mà Ngài mong muốn nơi chúng ta là phải biết đứng lên và can đảm và trở về. Biết bỏ đời đi hoang để trở về sống hiếu thảo với Cha. Tình thương va lòng tha thứ của Thiên Chúa không bao giờ thiếu, quan trọng là chúng ta có biết đưa tay đón nhận hay không. Mỗi khi chúng ta phạm tội, là chúng ta đang trở thành người con hoang đàng, là chúng ta đang bỏ Chúa đó. Vậy mỗi khi chúng ta phạm tội với Chúa thì chúng ta trở về với Chúa bằng cách nào? (qua bí tich giải tội- Chúa rất vui khi chúng ta đi xưng tội). Mỗi khi chúng ta phạm lỗi với anh chị em chúng ta phải làm gì? (xin lỗi- quyết tâm không làm điều đó nữa). Mỗi khi chúng ta phạm lỗi, chúng ta không được tuyệt vọng, và không được nghĩ rằng lỗi của tôi nặng quá không biết Chúa có tha hay không, Chúa luôn luôn tha cho chúng ta chỉ cần chúng ta biết chạy đến với Chúa. Chúa luôn mở rộng đôi tay đón chúng ta trở về
Một bài học khác chúng ta có thể thấy được qua bài dụ ngôn này đó là mình phải biết tha thứ cho người khác. Chúa tha thứ cho chúng ta khi chúng ta có lỗi, và Chúa còn thương chúng ta nhiều hơn vậy thì chúng ta cũng phải biết tha thứ cho những lỗi lầm của người khác. Mỗi khi chúng ta tha thứ cho người khác đó là chúng ta đang trở nên giống Chúa. Các bạn thấy khi mình làm ai giận, hay làm điều gì lỗi với người khác khi được ban mình bỏ qua không giận nữa, tiếp tục chơi với mình, mình có vui không nè?
Mùa chay luôn mời gọi chúng ta biết trở về với Chúa bằng cách từ bỏ con người tội lỗi của mình. Sám hối và trở về với Chúa bằng những việc làm cụ thể, chẳng hạn tôi quyết tâm bỏ bớt đi tật hay nói dối, hay chửi thề nói tục, hay cãi lại cha mẹ. Và sống con người mới là người con của Chúa biết yêu thương người khác, biết tha thứ cho anh chị em, và mau mắn chạy đến với Chúa qua bí tích giải tội khi chúng ta lầm lỗi. Khi làm như thế đó là chúng ta đang sống trong tâm tình là người con của Chúa.
15.Ba cha con.
Câu chuyện về đứa con phung phá, còn có thể được gọi là câu chuyện về tấm lòng của một người cha, hay nói đúng hơn là câu chuyện về ba cha con.
Thực vậy người con thứ chỉ là một tay giang hồ hèn nhát. Phải chi nếu vì thương cha nhớ mẹ mà anh ta trở về thì còn khá, đằng này chỉ vì đói khát, thèm ăn cả cám heo mà cũng chẳng được, thôi thì đành trở về. Mà đã trở về thì cũng phải ca mấy câu cho xong chuyện với ông già.
Nhưng người cha là một nhân vật tuyệt vời. Ông đã món mỏi chờ đợi kẻ đi hoang. Ông nuôi một con bê và ngày ngày ra tận ngoài đường trông ngóng. Bằng chứng là khi đứa con rách nát trở về thì ông đã nhận ra nó tự đàng xa và chạy lại ôm choàng lấy nó mà hôn. Ông đã tha thứ cho nó từ lâu rồi, nên đâu có để ý đến sáu câu nó vội ca lên khi gặp ông. Ông truyền mặc áo đẹp cho nó, xỏ nhẫn và xỏ giày cho nó. Đây là những biểu tượng của người con trong gia đình. Nó chỉ muốn làm đầy tớ để được ăn no, nhưng ông đã trả lại cho nó địa vị người con để được hưởng mọi quyền lợi. Rồi ông lại truyền giết con bê nuôi sẵn để thiết tiệc mừng đứa con như đã chết mà nay sống lại.
Nhân vật thứ ba của câu chuyện là người con cả. Anh ta là một người siêng năng, cần cù, hết mình tận tuỵ với cha, nhưng lại tự ti và ích kỷ: Là con trưởng nhưng lại chỉ biết sống như một người đầy tớ, như một kẻ nô lệ, không ý thức rằng hễ đã là con thì cũng có quyền thừa kế, nghĩa là được làm chủ gia tài của cha. Trái lại, anh ta chỉ biết làm công để được nuôi trong nhà mình như một kẻ xa lạ. Vì không ý thức địa vị là con, là chủ của mình, nên anh ta chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha thì chớ, anh ta lại còn trách móc hằn học ghen tương.
Bọn biệt phái khi nghe câu chuyện này thì đã hiểu ngay cái ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắm tới. Người cha là Thiên Chúa hay cũng có thể nói là chính Ngài. Đứa em giang hồ là những quân thu thuế và kẻ tội lỗi, mà Ngài thường ưu ái. Còn cậu cả chính là họ. Bởi vì họ thường lấy làm chướng tai gai mắt khi thấy Ngài đi lại và ăn uống với phường tội lỗi. Điều Chúa Giêsu khiển trách, đó là họ tuy đạo đức, chẳng hạn như đọc kinh nhiều, ăn chay lắm, nhưng lại thiếu lòng nhân ái, thiếu tình thương người, và như vậy là thiếu chính cái mà Thiên Chúa đòi hỏi vì Thiên Chúa đã phán: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ.
Ngày nay, khi nghe đọc dụ ngôn này, không hiểu chúng ta, những người vốn tự hào là những con chiên ngoan, có dám can đảm nhận ra nơi mình hình ảnh cậu cả hay không. Bằng chứng là vẫn thấy nhiều người sẵn sàng lên án, ném đá những người ngoại tình, những kẻ tội lỗi. Không thiếu những người được coi là đạo đức thánh thiện, lại rất khắt khe với kẻ tội lỗi. Tệ hơn nữa, người ta còn nhân danh sự thánh thiện của Thiên Chúa mà đòi xử phạt kẻ có tội.
Những thái độ trên hoàn toàn đi ngược lại tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tỏ lộ lòng nhân từ khoan dung của Cha chí ái. Qua đó, Chúa Giêsu nhắm thẳng vào những kẻ thiếu tình huynh đệ, cõi lòng của họ chai đá, không biết cảm thông nỗi đau khổ của người khác và cũng chẳng biết chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa, là được đón nhận những đứa con hư hỏng biết tìm đường trở về.
Để kết luận, là những kẻ tội lỗi chúng ta hãy can đảm trỗi dậy trở về cùng Chúa, đồng thời cũng hãy có thái độ khoan dung độ lượng với những kẻ tội lỗi, như thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa nghe.
16.Ơn Cha – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi nói về tình yêu và sự hy sinh của một người cha, người ta thường ví von như biển cả bao la, như cây cao bóng cả, như núi cao vời vợi. Một tình yêu không vồn vã nhưng trầm lắng và rộng lớn bao la. Một tình yêu không cần diễn tả bằng lời, không cần biểu lộ bằng những cử chỉ trìu mến thân thương, đôi khi tỏ ra cương quyết nhưng lại là chỗ dựa vững chắc nhất cho con cái vào đời.
Tình thương và tấm lòng người cha như thế, đã được ca sĩ Ngọc Sơn diễn tả qua bài hát "Ơn Cha" như sau:
Ơn Cha như Thái Sơn cao bao tầng
Ngoài tuy cương quyết mà lòng thương mến
Ơn Cha như đuốc soi cao trên đường
Đuốc soi tâm hồn dắt con tìm hướng
Ơn cha như bóng cây xanh trên ngàn
Tình Cha tha thiết, lòng cha âu yếm
Ơn Cha như mái hiên che năm trường
Gió mưa xa gần, nắng mưa không sờn.
Vâng, chính tình thương mênh mông biển cả của người cha luôn phủ lấp cuộc đời của những người con, là hành trang theo con vào đời, là kỷ niệm luôn ghi khắc trong tim của những người con, đến nỗi có nhiều người vẫn thầm hát với cha rằng:
"Mai con lớn lên rồi
Ra đi tung cánh trong đời
Dù xa vô bờ vẫn nhờ đến tình mẹ cha".
Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cùng chiêm ngưỡng tình yêu của Thiên Chúa tựa như tình của một người cha trong gia đình. Một người cha có hai con. Hai đứa con hai cách sống. Hai đứa con hai mối bận tâm của cha. Mỗi đứa mỗi tính. Vì cha mẹ sinh con trời sinh tính. Cha yêu thương cả hai. Nhưng cả hai xem ra đều phụ lòng cha. Người con cả chăm chỉ, cần cù nhưng lại tham quyền, tham lợi. Con người anh còn thiếu lòng độ lượng biểu lộ qua việc hay ganh tỵ và đòi hỏi quyền lợi. Anh đã từng thốt lên rằng: "Cha coi, đã bao năm nay con hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy một con bê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con cha kia, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê béo ăn mừng".
Người con thứ thuộc loại "bán trời không văn tự". Anh đã hoang phí cả gia sản lẫn cuộc đời đến bạc nhược tinh thần và thể xác. Cuộc đời anh chỉ tìm kiếm những thoả mãn xác thịt tầm thường. Thích ăn ngon, mặc đẹp và vui thú bên những cô gái chốn lầu xanh. Cuộc sống thác loạn đã làm cho anh tan gia bại sản, thân xác tiều tụy, anh chỉ còn biết chăn heo để sống qua ngày.
Cha vẫn im lặng. Sự im lặng này không đồng nghĩa với việc đồng ý cách sống của hai con. Cha im lặng vì tôn trọng tự do của hai con. Tự do để chọn lựa. Tự do chọn lựa là nét đẹp cao qúy của con người mà không một loài nào có được ân huệ đó. Có chọn lựa nên vẫn có sai lầm. Có chọn lựa nên vẫn có nuối tiếc. Nuối tiếc vì chọn sai, vì lầm lạc. Cha không kết án ai. Cha không muốn mất đi bất kỳ người con nào. Khi người con thứ ra đi. Cha hằng ngày mong ngóng chờ con trở vể. Chỉ cần nó trở về là cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của nó rồi. Khi người con cả bộc lộ bản tính thật của mình. Coi con bê béo hơn cả tình cảm cha con và tình nghĩa anh em. Cha vẫn từ tốn, dịu ngọt với anh. Cha muốn anh hãy vui với phận mình, và nhất là hãy vui vì luôn được sống trong tình thương của cha.
Hai người con trong phúc âm dường như vẫn lúc ẩn lúc hiện trong con ngừơi chúng ta. Chúa cho chúng ta được tự do thừa hưởng một gia sản rất qúy báu và phong phú đó chính là sự sống làm người. Thế nhưng, có những lúc chúng ta đã hoang phí cuộc đời trong những đam mê lầm lạc, trong những vui thú mau qua. Có những lúc chúng ta thường hay xét nét, ganh tỵ và đòi hỏi Chúa trả công cho chúng ta. Có những lúc chúng ta thất vọng chán chường vì yếu đuối lầm lỗi. Có những lúc chúng ta vì những con bê béo là danh lợi thú mà quên cả tình nghĩa cha con. Chúa vẫn không chấp nhất tội chúng ta. Chúa không kết án chúng ta. Chúa vẫn im lặng. Chúa mong chúng ta sớm nhận ra tình thương của Chúa để hồi tâm trở về cùng Chúa. Sự chờ đợi của Chúa là vô tận. Tình thương của Chúa là vô biên. Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi và rộng lòng tha thứ hết mọi lỗi lầm của chúng ta.
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy chọn lựa lại cách sống sao phù hợp với đạo lý làm con cái của Chúa. Hãy tập sống trong sự quan phòng, xếp đặt của Chúa. Hãy tin tưởng phó thác cậy trông vào Chúa để chúng ta luôn vui với phận mình. Nhất là hãy biết noi gương Chúa để xót thương kẻ cơ hàn và lấy lòng nhân hậu mà đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu lòng thương xót và từ bi luôn gìn giữ chúng ta trong hồng ân của Chúa và giúp chúng ta luôn sống theo tinh thần của phúc âm: mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Amen.
17.Trở về với tình Cha
Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe, là một câu chuyện tuyệt vời trong Tin Mừng Luca. Qua đoạn phúc âm ngắn này, Luca cho thấy lòng bao dung nhân từ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi qua hình ảnh người cha nhân hậu. Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để trả lời cho những tiếng xì xầm, bàn tán của người Pharisêu và các kinh sư về việc Người hay tiếp đón những người thu thuế và những kẻ tội lỗi.
Người Pharisêu và các kinh sư tự hào về sự công chính của mình, họ cho rằng mình là người đạo đức vì họ tuân giữ các lề luật một cách nghiêm khắt, giữ các tập tục của họ đưa ra và buộc Thiên Chúa trả ơn cho họ. Vì thế, đôi khi họ tuân giữ hơn những gì mà luật đòi buộc. Họ thường khinh chê, xa lánh và kết án những người bị coi là "tội lỗi". Qua câu chuyện dụ ngôn, Đức Giêsu không những muốn người thu thuế và người tội lỗi ăn năn sám hối mà chính các người biệt phái và các kinh sư cũng cần phải sám hối để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Thật thế, sau khi tội nguyên tổ xâm nhập, tội lỗi lan tràn vào thế gian. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Người xót thương và tìm cách cứu thoát con người. Ngài hứa ban Đấng Cứu Chuộc để giải thoát con người, giao hoà con người với Thiên Chúa, với vũ trụ vạn vật và với chính họ - chính bản thân chính con người mình. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của tình thương và lòng nhân ái. Ngài xót thương và thi ân. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Phúc âm chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, có cơm ăn, có áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng (Lc 15, 22).
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc... Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? Thưa, không phải vậy đâu. Nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám trở về. Bởi có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy anh trở về. Đó chính là tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương và tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chết, là "mất đi". Tình yêu Thiên Chúa đã mở ra lối thoát, đã cảm hóa con người tội lỗi. Nếu không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có một chỗ đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mọi mơ ước của chúng ta: "Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự" (Rm 5,25).
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là "tìm lại được", là "sống lại". Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho công việc này sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người cha bao dung, nhân hậu,
Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: "Em con đã chết, nay lại sống" thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: "cái thằng con của cha kìa...".
Rất có thể, chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, nhưng nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng, tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng, chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài. Vì thế, chúng ta hãy lắng nghe lời từ tốn nhân từ dịu dàng của người cha: con à! Lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha điều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. (Lc 15, 31 - 32). Mỗi lần sống ích kỷ cho riêng mình là chúng ta đã bỏ rơi người cha. Mỗi lần chúng ta xét đoàn, lên án hay không tha thứ cho anh em mình là mỗi lần chúng ta xa rời tình yêu Thiên Chúa. Mỗi khi chúng ta lỗi phạm đến Chúa chúng ta luôn xin Chúa tha thứ lỗi lầm cho chúng ta; Thiên Chúa luôn tiếp nhận chúng ta, ngay cả những lúc chúng ta có nhiều lỗi lầm nhất. Vậy tại sao chúng ta không đối xử nhân từ với những thiếu xót và lỗi lầm của anh em mình. Chúng ta không đồng tình với tỗi nhưng chúng ta cảm thông với những người tội lỗi. Chúng ta phải mừng khi một người anh chị em nào đó trong cộng đoàn chúng ta đã phạm tội nhưng nay trở về. Hay một người nào còn sống trong tình trạng tội lỗi, chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều hơn nữa. Nhất là chúng ta cần cảm thông nâng đỡ để người ấy có cơ hội quay về, đặc biệt trong mùa chay này. Mỗi lần làm như thế, chúng ta đón nhận được lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, đồng thời chúng ta cũng muốn thể hiện lòng nhân từ ấy cho tha nhân.
Hôm nay, chúng ta cần nhìn lại bản thân mình. Chúng ta là những người đang sống tốt, sống đạo đức nhưng bấy lâu nay chúng ta có thật sự yêu mến Thiên Chúa hết lòng và bác ái đối với tha nhân chưa? Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và cho anh chị em khám phá ra tình yêu Thiên Chúa như Phê rô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và biết trở về với tình Cha. Đồng thời xin cho chúng con sống yêu thương tha nhân và đối xử với họ như anh em mình. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam