Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 30

Tổng truy cập: 1374305

LÒNG TIN

Lòng tin

Mỗi năm, vào ngày Chúa nhật Phục sinh, hàng chục ngàn khách hành hương tụ họp tại Quảng Trường thánh Phêrô ở Rôma, để được lãnh nhận phép lành Phục sinh của Đức Thánh Cha. Đây là một cơ hội tuyệt vời, bởi vì người kế vị thánh Phêrô công bố thông điệp Phục sinh: “Đức Kitô đã sống lại, Allêluia”. Ngài đang làm điều mà thánh Phêrô đã làm trong ngày lễ Phục sinh đầu tiên – ngài đang xác nhận lòng tin của các tín hữu. Và có thể chắc chắn rằng điều này xác nhận lòng tin của những người có dịp may được hiện diện tại đó.

Phêrô đang làm điều mà Chúa đòi hỏi nơi ông trong bữa Tiệc Ly, khi Người nói: “Simon, Simon ơi, kìa Satan xin được sàng anh như sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh”.

Phêrô phải củng cố lòng tin nơi các anh chị em của ông! Khi chúng ta xem xét cách thức ông hành động trong suốt cuộc thương khó, thì dường như ông có vẻ là người xa lạ. Làm thế nào một người có lòng tin không kiên định như vậy, mà lại xác nhận được lòng tin cho bất cứ ai? Chúng ta hãy nhớ lại một cách ngắn gọn hành động của ông trong đêm Đức Giêsu bị bắt.

Chúng ta vẫn nhớ những lời nói can đảm của ông trong bữa Tiệc Ly: “Thưa Thầy, ngay cả khi mọi người đều mất lòng tin vào Thầy, thì con sẽ không bao giờ mất lòng tin vào Thầy”. Ông thực sự chân thành khi nói những lời đó. Ông nghĩ rằng mình can đảm và mạnh mẽ. Nhưng chỉ một lúc sau, khi Đức Giêsu cảm thấy đau buồn, cô độc và sợ hãi trong vườn Cây Dầu, Người đã yêu cầu Phêrô canh thức với Người, nhưng ông vẫn không thể nào làm được điều đó – ông đã lăn ra ngủ vùi. Ông đã bỏ mặc Đức Giêsu phải uống chén đắng một mình. Điều tệ hại hơn đã phải đến.

Một lúc sau, trong đêm hôm đó, nơi sân nhà của vị thượng tế, có người quay sang Phêrô và nói “Thế chẳng phải ông là một trong những kẻ thuộc về ông Giêsu đó sao? Chẳng phải ông đã cùng ở trong vườn với ông ta sao?”. Và điều gì xảy ra? Không phải là một lần, mà đến ba lần, Phêrô đã chối Đức Giêsu, ông chối rằng mình chưa từng bao giờ biết Người. Thế rồi gà gáy. Đến lúc đó, Đức Giêsu quay lại nhìn Phêrô, và ngay tức khắc, Phêrô nhận ra được điều mình đã làm – ông đã chối không quen biết chính người bạn của mình. Rồi ông đi ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.

Đó là giây phút thấp hèn nhất trong cuộc đời ông. Ông đã nhận ra được một sự thật rất đau lòng về bản thân. Ông không thể mạnh mẽ, không thể can đảm hoặc quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng Đức Giêsu không hề coi ông là đồ bỏ đi. Người đã nhìn thấy trước tất cả điều này. Thậm chí Người còn ngăn cản điều đó nữa. Nhưng Người vẫn tiếp tục tin tưởng nơi ông. Người biết rằng có một khía cạnh khác tốt đẹp hơn nơi Phêrô. Sau khi sống lại, Người đã phục hồi lại một Phêrô khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn ngay tại nơi mà Người đã từng ở trước đây, và đặt ông làm viên đá mà trên đó, Người sẽ xây dựng Giáo Hội của Người.

Và Phêrô đã trở nên người tốt lành. Ông được phục hồi và tiếp tục củng cố lòng tin cho những anh chị em trong cộng đoàn. Chính ông là người đã dẫn dắt các tông đồ, trong việc làm chứng về sự sống lại. (Bài đọc 1). Chính ông là người qui tụ lại những kẻ đi theo Đức Giêsu vốn đã bị tản mác. Chính trên nền tảng lời chứng của ông, mà cả cộng đoàn đều trầm trồ: “Chúa đã sống lại thật rồi, và Người đã hiện ra với ông Phêrô”.

Ông Phêrô được gọi là một vị thánh đã từng vấp ngã. Ông được nhiều người quí mến, chắc hẳn là bởi vì nhược điểm của ông làm cho chúng ta cảm thấy gần gũi với ông. Sự can đảm không đáp ứng được cho tất cả chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều chỉ là những con người hay chết, không nhất quán trong lòng tin của mình. Nhưng chúng ta không được phán xét bản thân mình và người khác qua những sai sót có tư cách nhất thời, nhưng là qua lời cam kết đối với lòng tin của mình trong cả một thời gian dài.

Chính Đức Giêsu đã xác nhận lòng tin cho Phêrô. Cũng chính Đấng sống lại đã xác nhận lòng tin của chúng ta. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin, mà lòng tin phổ biến của những kẻ tin thì củng cố lòng tin của mỗi cá nhân.

 

  1. Lòng tin

Đôi khi, chúng ta ghen tị với các tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự có mặt trong những sự kiện ở Tin Mừng. Họ được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chúng ta, nếu giống như các tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta.

Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn thấy một con người có bên ngoài hình giống như họ. Nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của lòng tin.

Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã từng được nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các tông đồ, đã từng được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin tưởng.

Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thập giá của Người gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về sự sống lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày Phục sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại.

Tất cả những điều này để lại cái gì cho chúng ta? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các tông đồ đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và nói “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải sống bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phải làm gì, để có được lòng tin?

Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì hơn 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con Thiên Chúa bước đi trên trái đất đã trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và vì thế, theo cách thức nào đó, đã lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời, thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau – tất cả đều phải làm một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.

Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục sinh, nhưng cuộc sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và sự sống sẽ chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.

 

  1. Ánh lửa Phục Sinh – Lm. Bùi quang Tuấn

Nếu cuộc đời của Đức Kitô bị chấm hết bằng cái chết thì quả đó là một thất bại ê chề, không hơn không kém. Thất bại vì không cứu được nhân loại. Thất bại vì phải chết nhục nhã dưới bàn tay con người. Chắc hẳn, sau khi đóng đinh Đức Giêsu lên thập giá, các trưởng tế và biệt phái đang dương dương nắm chắc phần thắng khi niêm phong cửa mồ với thân xác vô hồn của Ngài trong đó. Bao niềm mong đợi, tin tưởng của các môn đệ dường như cũng bị chôn sâu vào huyệt đá.

Thế nhưng, ngày thứ ba, sau hôm các tử tội bị xử tử, lúc trời vừa chớm sáng, Maria Magđalêna, kẻ được Đức Giêsu cải hoá cuộc đời, đã vội đi thăm mộ người ân nhân vĩ đại nhưng vắn số của mình. Nỗi xót xa thương tiếc thúc đẩy nàng ra bãi tha ma, khóc than cho niềm hạnh phúc quá ngắn ngủi. Ước mong của nàng là làm sao lăn được tảng đá lấp mồ, ướp chút hương trầm trên thân xác Giêsu, Đấng đã cứu mình khỏi vũng lầy tội lỗi.

Nhưng kìa, quân canh đâu rồi? Mồ trống. Xác Thầy biến mất. Chỉ còn các tấm khăn liệm được xếp lại để đó. Sững sờ. Hoảng hốt. Maria chạy ào về báo tin cho Phêrô và Gioan. Lập tức hai ông chạy bay ra mồ. Nét âu lo lộ trên khuôn mặt hai ông. Chuyện gì đã xảy ra? Phải chăng người Do thái không thoả mãn với cái chết tàn khốc trên thập giá của Đức Giêsu nên đã đánh cắp luôn xác Ngài để thủ tiêu? Hay có môn đệ nào đã lấy trộm xác lúc các lính canh đang ngủ? Nếu thế thì vô lý quá. Người ta đã cẩn thận niêm ấn cửa mồ và cho quân canh gác xung quanh cơ mà. Với lại, nếu ngủ thì làm sao biết được những kẻ trộm xác là các môn đệ? Nếu biết tại sao lại không ra tay ngăn lại?

Nhưng rõ ràng là chẳng có dấu hiệu nào của trộm xác. Các giây vải, khăn che mặt đều được sắp xếp gọn gàng. Tấm khăn liệm bó mình Đức Giêsu vẫn còn đó. Vị trí không có gì thay đổi như lúc táng xác. Nhìn vào thì trông như thân thể Đức Giêsu đã bị bốc hơi khỏi tấm khăn. Không có dấu hiệu gỡ ra.

Phêrô bước vào mộ và thấy như vậy. Gioan, người đến mộ trước nhưng vào sau, cũng thấy như thế. Nhưng Thánh kinh ghi nhận phản ứng của Gioan: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20:8).

Gioan đã tin gì? Phải chăng ông tin các lời tiên báo phục sinh của Đức Giêsu đã thành sự?

Chắc hẳn ngay giây phút “ông thấy” cũng là lúc ông nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Ông còn nhớ nữa điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12:40). Rồi sau lúc biến hình trên núi Tabo, Đức Giêsu cũng đã căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9:9).

Chưa hết, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Ngài cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18: 31-33). Và mới đây nhất là lời tâm sự của Chúa Giêsu trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26, 31-32).

Thế ra điều Gioan xác tín ngay khi bước chân vào mồ chính là: Đức Giêsu đã phục sinh. Niềm tin này không dừng chân nơi ngôi mộ trống, với các giải vải còn nguyên, nhưng tiếp tục được củng cố qua bao lần tiếp xúc ăn uống với Đấng Phục sinh của các môn đệ. Niềm tin ấy kiên cường đến độ các nhân chứng dám loan truyền với tất cả nhiệt tình, thậm chí dám hy sinh đến tính mạng cho niềm xác tín đó.

Thử hỏi có ai ngây dại khi lấy sự sống mình vun bón cho một sự chết. Nhưng nếu chỉ nói đến Chúa Giêsu phục sinh như một sự kiện của ngày hôm qua, và nếu sự kiện đó không gây một tác động chân thực nào trên cuộc sống hôm nay của tôi, thì đó cũng chỉ là một thứ ngây dại không kém.

Thế nên, âm vang của tin mừng Phục sinh phải trở nên động lực chi phối làm bừng dậy nếp sống đức tin của tôi, để rồi nó tiếp tục lan tới tất cả mọi người xung quanh. Điều đáng ghi nhận ở đây: tình yêu phải là động lực làm nên âm hưởng phục sinh.

Nhờ tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giêsu mà Maria Magđalêna đã thắng được nữ tính nhút nhát, dám đi ra mồ mả lúc trời còn tranh sáng tranh tối để trở thành người nữ đầu tiên loan báo tin mừng Phục sinh.

Nhờ tình yêu chân thành dành cho Thầy mình mà Gioan đã trở nên người nam đầu tiên, bằng niềm tin, khám phá ra tính chất bất diệt của tình yêu. Tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt mả của khổ đau, u sầu, thất vọng, nhưng sẽ chảy tràn niềm vui, vinh quang, và sự sống. Tình yêu không thể chết với cái chết mục nát. Trái lại sẽ làm sống lại những gì tan vỡ.

Chính Tình yêu Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu Kitô tử nạn. Và chính Đức Giêsu Phục sinh đã mang lại niềm hy vọng chiến thắng trên mọi khổ đau, chết chóc, thất vọng của con người. Nên chi, mừng Chúa Phục sinh, một lần nữa tôi cầu xin Tình yêu của Ngài tác động và dẫn lối con người trong mọi quan hệ hàng ngày, từ vợ chồng con cái đến bạn bè thân nghĩa, từ gia đình làng xóm đến cộng đoàn xứ đạo. Để rồi như ánh lửa được đốt lên và chuyền thắp đến mọi ngọn nến trong đêm vọng Phục sinh thế nào, người tin vào Chúa Kitô cũng sẽ là ánh sáng do tình yêu Thiên Chúa đốt cháy và thắp lên nơi tâm hồn mọi người như vậy.

 

  1. Suy niệm của Lm. Hoàng Kim Toan

Niềm tin kính “Vì loài người chúng tôi” hôm nay hoàn tất trong lịch sử trần thế. Sự hoàn tất đang chín dần trên cõi thế. Lịch sử như là thời gian trải ra, chín dần mầm ơn cứu độ, nên lịch sử cũng bao hàm quá khứ, hiện tại và tương lai. Lịch sử có hướng đi xác định như một vectơ định hướng, ngày càng đi lên và ghi ấn biết bao biến cố mới mẻ.

Đêm Hoài Mong.

Có sự đi lên, có sự chín dần nên có sự hoài mong. Sự hoài mong mang đậm ước mong của dân tộc Israen, một dân đặc thù được tuyển chọn, để chuẩn bị cho một Dân mới, dân Duy nhất của Thiên Chúa hiện diện mọi dân nước trần gian.

Niềm hoài mong của Dân Cựu Ước đã được thực hiện nơi Dân Tân Ước, nhờ Chúa Kytô đã đến thành tựu mọi lời hứa của Thiên Chúa và thực hiện mọi lời sấm của các ngôn sứ. Hình bóng của Cựu Ước nhờ thế có một ý nghĩa đích thực, chung cuộc “để lời Kinh Thánh nên trọn.”

Ơn Cứu Độ đã được Chúa Kytô thực hiện trọn vẹn trong Lịch Sử, sở dĩ có sự chín dần mầm ơn cứu độ là đối với từng người qua nhiều thời đại còn mong đợi ơn cứu độ được thể hiện nơi mỗi người và tỏ hiện trong ngày Chúa Kytô lại đến.

Việc mong đợi đó cũng nói lên hành trình còn bóng tối chen lẫn với ánh sáng, lo âu với hy vọng, cần đến ánh sáng đức tin dấn bước. Gợi lại việc mong đợi, Giáo Hội cũng thắp trên niềm hy vọng, củng cố thêm đức tin, hun đúc niềm hân hoan sốt sắng trong đêm tỉnh thức và Đêm hồng ân Cứu thế.

Đêm Tỉnh Thức

Trong Thánh Kinh ý nghĩa Bóng tối không chỉ con người nhưng chỉ lãnh vực xấu thuộc quyền của Satan và những lãnh vực chống lại Thiên Chúa và Chúa Kitô.

Ở đâu có ánh sáng, ở đấy đêm tối bị đẩy lui và ở đâu có đêm tối ở đấy thiếu ánh sáng. Đêm tối không ưa ánh sáng vì “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng” (Ga 3,20).

Đêm theo nghĩa đen là thời điểm bất trung, tội lỗi của dân Israen quay mặt với Giavê, thi hành những điều trái với Lề Luật, đi ngược lại với Giao Ước mà Thiên Chúa đã ký kết với họ. Trong đêm tuyệt vọng ấy, Thiên Chúa hằng kêu gọi họ trở về và hứa ban lại cho họ “Ánh vừng nguyệt sẽ nên như ánh vừng ô, và ánh hừng ô sẽ tăng gấp bảy, như ánh sáng bảy ngày dồn lại, vào ngày Giavê băng bó vết thương cho dân Người và chữa lành những vết đòn hằn của nó.” (Ys 30,26). Thiên Chúa đổi thay tự nội tâm cho những người quay về với Người, dù họ đã tả tơi vì điều họ đã xúc phạm nhưng Thiên Chúa đã chữa lành và thêm sức cho những bàn tay rã rượi, tăng cường cho đôi gối đã quỵ ngã. Một tương lai mới mở ra trước mặt, lòng người nao nức đáp lời gọi “Hãy bạt lối, trong chốn hoang giao hãy san bằng ngự lộ cho Thiên Chúa ta thờ. Mọi thung lũng sẽ dâng lên, mọi núi đồi sẽ lún xuống, gồ ghề sẽ thành bình nguyên, lồi lõm sẽ hoá ra đồng bằng.” (Is 40, 3-4).

Đêm không còn là đêm tối tuyệt vọng, bởi vì Chúa thương loài người, và cho dầu tội lỗi có vây bủa như đêm đen đi chăng nữa, thì Tình Thương của Người vẫn lớn hơn tội lỗi, công trình Cứu độ của Người vẫn không ngừng đi lên và chín dần theo năm tháng. Thiên Chúa là Đấng mở ngỏ tương lai, đi về phía trước mà quên đi chặng đường đã qua. Thiên Chúa không ngừng làm nên những cái mới. Tương lai mới dường như là một bài ca khải hoàn được hát lên từ những đổ vỡ, nay được dựng xây lại, và xác tín Thiên Chúa Cứu Độ cũng chính là Thiên Chúa Sáng tạo, luôn làm ra những cái mới, mở ra một cuộc xuất hành mới, đưa dân trở về lại với Yérusalem mới.

Là xuất hành mới nên đêm còn là đêm tỉnh thức, đêm Thiên Chúa giải cứu, đêm đưa dân ra khỏi Babylon, chốn tối tăm của dân nô lệ. Đêm của Thiên Chúa dùng Kyrô như khí cụ Giavê. “Ai đã cho chỗi dậy từ Phương Đông kẻ mà chính nghĩa hoan hô mọi nước? Trước mặt nó Người nộp các nước, Người cho nó chà đạp các Vua”. (Ys 41,2) Đêm chờ đợi còn nhiều khiếp sợ vì bình minh chưa đến, nhưng khi tỉnh thức trong đêm họ được Thiên Chúa đáp cứu, phù hộ, quyền lực của đêm đen không còn làm gì được họ và nay “chúng sẽ phải xấu hổ thẹn thuồng, mọi kẻ giận dữ với ngươi, chúng sẽ ra như không và phải diệt vong những người gây hấn với ngươi” (Ys 41,11). Đêm tỉnh thức “đừng sợ vì có Ta ở với ngươi, chớ hãi, vì Ta là Thiên Chúa của ngươi” (Ys 41, 10).

Đêm tỉnh thức sẽ hướng tới ngày loan báo “Đêm này kể với đêm kia” TV 18 tường thuật vinh quang Thiên Chúa, Đấng đã tác thành trời đất và trong niềm hân hoan của người loan báo “Đẹp thay trên các núi non, chân người sử giả, kẻ loan báo bình an, kẻ loan Tin Mừng, kẻ loan báo ơn Cứu Độ, kẻ nói với Sion: “Ngươi đã làm Vua, Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 51,7)

Như đêm chong đèn chờ trời sáng, đêm của lính canh mong chờ hừng đông, đêm mong đợi ơn cứu chuộc của dân Israen. Sau những hình phạt và những tội bất trung của dân, chưa phải là tiếng nói sau cùng của Thiên Chúa, Người hứa ban cho một số sót còn lại sau những thử thách, là những mầm mống dân Thánh được hứa ban và Đấng Messia là Vua của họ. Đêm của thử thách sẽ qua, xin cho chúng con cũng vững tin vượt qua đêm hành trình trong tỉnh thức.

Đêm Hồng Ân

Đêm cũng là thời gian yên tĩnh, để phục hồi sức lực. Đêm của thời gian tích luỹ, tăng cường sự chờ đợi và đóng góp vào việc phát triển. Đêm của Thiên Chúa tụ họp đoàn dân tản mác của Người, chính tay Người dẫn dắt và cho nghỉ ngơi bổ sức. Đêm Thiên Chúa kết giao bình an với dân của Người, Đêm không còn là đêm hoành hành của thú dữ, nơi rừng rú chúng cũng ngủ được.” (Ed 34)

Đêm còn là thời gian chờ đợi của tân nương: Dân Israen còn được coi là tân nương được Thiên Chúa cưới về vì Tình Yêu của Người. “Vì ngươi cũng như thân gái bỏ rơi, lòng dạ bời bời khi Người gọi ngươi. Nhưng nào ai nỡ rẫy từ người vợ cưới lúc thanh xuân, Yavê Thiên Chúa của ngươi đã phán. Ta đã bỏ ngươi trong chốc lát nhưng Ta sẽ thâu họp ngươi lại bởi lòng thương xót bao la” (Is 54, 6-7). Thiên Chúa đã đặt cheo sính lễ “Ta sẽ đính hôn với ngươi mãi mãi, Ta sẽ đính hôn với ngươi bằng công chính, công minh, nhân nghĩa, xót thương.” (Hs 2, 21).

Các điều ấy là những thái độ Israen phải có như một dân Giao Ước, để Thiên Chúa đính hôn mãi mãi. Hôn lễ ấy Thiên Chúa đã thực hiện trong đêm tỉnh thức của các mục đồng canh giữ chiên, họ được thiên thần loan báo “Này ta đem Tin Mừng cho các ngươi về một niềm tin to tát, tức là niềm vui cho toàn dân là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi vì Cứu Chúa, tức là Đức Kytô Chúa “trong thành của Đavít” (Lc 2,10-11). Đêm Thiên Chúa đưa dân của Người ra khỏi Ai Cập và cũng là đêm Thiên Chúa đưa dân Người ra khỏi thân phận nô lệ tội lỗi.

Đêm là khởi đầu cho ngày mới. Cũ đã qua kìa ngày mới đang thành sự, những tang thương sầu khổ đã nẩy mầm hân hoan, chốn u sầu đã thành nơi đại hội, thành nhỏ bé nay đã nức tiếng hoan hô. (Mc 5, 1), người đau khổ nay đã được vui mừng vì điều chờ đợi nay Thiên Chúa đã thành tựu. “Lời đã thành xác phàm và đã lưu trú nơi chúng tôi., và “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi”.

Sứ điệp không còn bằng lời nữa, nay đã đích thân và hữu hình trong Con Một tự nơi Cha đã làm người ở giữa nhân loại. Sứ điệp cao trọng và viên mãn loan báo nơi Chúa Con được Chúa Cha sai đen để ai tin vào Con Thiên Chúa thì được trở nên con cái Thiên Chúa.

Một vinh quang xưa kia vô hình (Xh 33,20) bây giờ lộ diện ngang qua nhân tính của Con Thiên Chúa (Ga 2, 11 & 3, 12) mạc khải lòng nhân nghĩa và sự trung tín Chúa Cha. (Xh 34, 6; Hs 2,22).

Đêm Mẹ của mọi Đêm.

Đêm được Mặt trời công chính chiếu rọi, không còn là đêm nữa, bình minh đã rạng soi “Mặt trời của ngươi sẽ không lặn và mặt trăng sẽ không còn khuyết vì Giavê sẽ là ánh sáng vĩnh tồn của ngươi và sẽ chấm dứt những ngày tang tóc của ngươi” (Is 60, 20). Người đã đến hoàn tất lời hứa của Thiên Chúa và các lời sấm của ngôn sứ, ngày mới đã thành tựu trong Con Một Thiên Chúa. “Người là Ánh sáng đích thật sáng soi cho mọi người” (Ga 1, 9). Người là Chúa Kytô, Đấng Mạc Khải độc nhất về Cha, vì Người là Con (Ga 3, 11), thế gian nhờ Người mà được cứu ” (Ga 3, 17).

Đêm đã qua đi vĩnh viễn và ngày đã là vĩnh hằng, những ai còn trong tối tăm thì chịu án xử “bởi chưng ai làm Sự Dữ thì ghét Sự Sáng, không đến với Sự Sáng, kẻo bị bắt lỗi về các việc của mình” (Ga 3, 20).

Hãy hân hoan trong đêm hồng phúc này, như lời tụng ca Exsultet vang lên trong đêm Thiên Chúa giải thoát. Thiên Chúa vì quá yêu thương loài người, tội lỗi, quyền lực tăm tối bị đẩy lui. Tội của con người lỗi phạm, trở nên tội hồng phúc. Huyền nhiệm sẽ ngất ngây bởi Tình thương của Chúa làm say ngất tâm hồn.

Đêm diễm phúc, đêm của mọi đêm báo trước ngày hừng sáng, Thiên Chúa vì yêu thương loài người đã tự phó nộp chính Con Duy Nhất của Người làm giá chuộc tội chúng ta.

Hãy Mừng Vui Lên!

Hãy hân hoan, hãy vui mừng Thiên Chúa đã yêu thương loài người chúng ta. Hãy kín múc tận nguồn ân sủng, hãy bước đi trong ánh sáng vì ngày mới đã xuất hiện. Hãy Vui lên và reo hò lên mừng Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Hãy làm cho môi miệng này tràn ngập những lời, vang lên câu tán tụng và vẫn là “chưa bưa chưa đã được chí muôn sao”. Hãy tán tụng bằng tất cả các âm điệu của trần thế, bằng tất cả những hỷ hoan trong ngày Chúa đoái thương, bằng những nhạc điệu trầm bổng và những Thánh Ca cùng Thánh Vịnh. Mừng vui lên!

Mừng vui lên, từ nay nhân loại bước đi không chỉ còn nhìn thấy dấu chân riêng của mình, cho dầu lịch sử có nhiều bóng tối như thế nào chăng nữa, ngày mới, ngày ánh sáng đã ló dạng bình minh. Mừng vui lên, Hãy đàn ca lên, hãy reo hò lên bởi lịch sử mới đã xuất hiện và ngày mới đã bắt đầu.

Hãy vui mừng, hãy hân hoan trong ngày Thiên Chúa giải thoát, từ nay nhân loại đã và đang vội vã đi về lòng Chúa yêu thương. Cái vội vã của những khám phá khi Chúa làm nên những cái mới, khi chính Người là Đấng Mới. Mừng vui lên, đừng ôm sầu lẻ bóng, đừng hát lại bản tình cũ, sống cuộc đời cũ nữa làm chi. Hãy đi về phía trước như bóng đêm không còn bao phủ khi bình minh ngày mới bắt đầu. Hãy vui mừng luôn trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta.

Lạy Chúa, Đêm thật diễm phúc được long trọng hát lên bài hát Exsultet. Mừng vui khôn tả, đọng trên từng đôi môi, vọng trong từng câu hát, thấm từ sâu trong tâm hồn lời tán dương Thiên Chúa: “Vì loài người chúng tôi”.

Xin cho con biết được một lần cúi đầu trước tình Thương của Người, để cuộc đời của con nhận ra chính Người là Đấng Cứu Độ con. Xin cho con mọi ngày sống trong hồng ân cứu độ của Chúa.

 

  1. Ngày Giao ước hiệu lực – Phaolô Ngô Suốt

Ngày trọng đại, vui mừng, mang nhiều ý nghĩa nhất của Kitô Giáo đó là ngày đại lễ Phục Sinh hôm nay. Chính ngày hôm nay, tuy mang tính cách nội bộ, dành riêng cho “Dân Thiên Chúa”, nhưng làm cho tất cả các ngày lễ khác có ý nghĩa, kể cả lễ Giáng Sinh. Nếu như Chúa không sống lại từ cõi chết hôm nay, tất cả nền tảng đức tin của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, vô ý nghĩa; cuộc khổ nạn, bị đóng đinh vào thập giá của Chúa Kitô, trở thành một tin buồn khủng khiếp, chứ không phải là Tin Mừng.

Trong ngày thứ sáu chịu nạn, Chúa Giêsu bị đóng đinh, bị giết chết và táng xác trong mồ, vì tình yêu vô biên, Thiên Chúa Cha không nỡ để mất con mình, đã làm cho con mình sống lại. Cũng chính nhờ vào tình yêu này mà người Kitô hữu sẽ được cứu thoát, được cho sống lại ngày sau hết. Sự kiện người đàn bà tội lỗi đã hoán cải, cũng như người môn đệ từng chối bỏ Ngài, được gặp gỡ Ngài trước tiên, khi Ngài từ cõi chết sống lại, cho chúng ta thấy tình thương lạ lùng của Ngài dành cho nhân loại. Nói cụ thể Chúa không hề bỏ rơi bất cứ ai, dù cho họ có bỏ rơi, chối bỏ Ngài. Giống như các môn đệ của Chúa, tuy họ không dự phần vào cuộc khổ nạn với Ngài, vẫn được Ngài chia sẻ vinh quang Phục Sinh của mình.

Nhờ sự sống lại của Ngài mà người Kitô hữu chúng ta có sự sống mới, trở thành tạo vật mới; nhờ vào đó tội lỗi của nhân loại được tha thứ. Chúng ta có thể tuyên tín rằng Ngài chính là Con Thiên Chúa làm người: khi bị đóng đinh và quằn quại chết trên thập giá Ngài đúng là con người bằng xương bằng thịt; khi sống lại từ cõi chết Ngài đúng là Thiên Chúa toàn năng. Hôm nay, ngày Giao Ước của Thiên Chúa và nhân loại thực sự bắt đầu có hiệu lực. Sự sống lại của Ngài là “Tờ Cam Đoan” của Thiên Chúa, đối với lời hứa cứu độ nhân loại của Ngài.

Chúa Kitô Phục Sinh đã chiến thắng thế gian với tất cả tội lỗi của nó. Đây là một đại phúc cho thế giới tội lỗi. Ngày xưa khi Adam phạm tội, bị đuổi đi, cửa thiên đàng đóng kín lại từ đó. Hôm nay khi Chúa sống lại, Ngài khải hoàn vinh hiển, cánh cửa thiên đàng lại được mở ra cho nhân loại. Qua cái chết khổ nhục rồi được sống lại, Ngài dạy chúng ta đừng trốn chạy thập giá, vì thập giá là nơi treo Đấng Cứu Độ, trốn tránh thập giá tức chúng ta quay lưng lại với tình yêu; trốn tránh thập giá chúng ta sẽ mất ơn cứu độ. Ngài dạy chúng ta tín thác vào Ngài, khi thật sự tín thác chúng ta sẽ lạc quan trong cuộc sống, cũng như không ngần ngại đặt hết tin tưởng vào tương lai của mình. Ngài đặt trong tâm hồn chúng ta lòng ao ước được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài, từ nay chúng ta được tự do, được giải thoát khỏi sự buộc ràng của tội lỗi và cái chết.

Chúng ta vui mừng vì sự sống lại của Ngài, tin tưởng buổi sáng phục sinh rồi sẽ đến với từng người, dĩ nhiên hiện nay chúng ta còn rất nhiều đồi Canvariô phải leo, còn ngã quỵ nhiều lần với thập giá oằn vai, như Ngài từng trải qua. Ngày xưa ông Simon phải vác đỡ với Ngài, từ nay Ngài sẽ thay ông Simon để giúp bạn và tôi. Nói cách khác mỗi người sẽ phải đi theo con đường khi xưa Chúa đã đi qua. Tin như thế, đâu còn gì để chúng ta sợ hãi, lo âu. Chỉ cần trung tín với đức tin của Ngài, như Ngài đã trung tín, chắc chắn chúng ta được sống trong hy vọng và bình an viên mãn như Ngài hứa hẹn.

Tóm lại, Phục Sinh là mầu nhiệm cốt lõi, một bảo chứng hùng hồn nhất cho ơn cứu độ. Đây là tâm điểm, là chóp đỉnh và là hy vọng của những người tin vào Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã ban đất hứa cho dân Do Thái, đồng thời đã dẫn dắt họ tiến về vùng đất “sữa và mật” đó. Hơn cả ngày xưa, ngày nay Thiên Chúa không chỉ ban đất hứa vĩnh cửu cho nhân loại, nhưng chính Ngài, khi Ngài từ cõi chết sống lại, đã trở thành Đất Hứa, là Ơn Cứu Độ, là Tin Mừng sống động cho nhân loại. Biến cố Phục Sinh là niềm vui của sự sống mới, là sự chiến thắng vĩnh viễn trên thần Chết – kẻ thù cuối cùng, và như thế là niềm vui lớn nhất của người tín hữu. Ước gì tình yêu của Thiên Chúa sẽ hiện hữu sống động trong tâm hồn từng người chúng ta, và niềm vui sướng Phục Sinh được trải rộng đến cho thân nhân, bạn bè. Chúng ta không quên cầu nguyện cho nhân loại sớm nhận biết ánh sáng Phục Sinh của Ngài, sớm nhận biết chân lý, để rồi được cùng nhau hân hoan tung hô “Chúa đã sống lại” Allêluia.

 

  1. SLCTTY/141 – Kinh ngạc

Biến cố Phục sinh đã xảy ra với nhiều kinh ngạc. Kinh ngạc về sự chết! Kinh ngạc về các tông đồ! Kinh ngạc vì Ngài đã sống lại! Kinh ngạc vì Ngài đã hiện ra với những người phụ nữ trước hết và sai họ đi loan báo Tin Mừng!

“Vào thời Chúa Giêsu, phụ nữ là giới bị thua thiệt. Họ không được bình đẳng với đàn ông. Phần lớn họ không có cơ hội học hành, không được đối xử đồng đều về mặt pháp lý, và không được tham gia một số công tác dành cho nam giới. Tình trạng này được cải thiện từ từ nhờ thái độ và lời giáo huấn của Chúa Giêsu”.

Trong bản tường thuật của Matthêu về sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta nghe kể bà Maria Mácđala và một bà Maria khác đến mộ với sự buồn bã, vì nghĩ rằng xác Ngài vẫn còn nằm trong mộ. Tuy nhiên, các bà đã cảm nghiệm một sự kinh ngạc vĩ đại nhất trong cuộc đời. Chúa Giêsu Kitô không còn chết nữa, Ngài đã sống lại!

Từ kinh ngạc chuyển sang vui mừng. Matthêu kể rằng: “Hai bà vội vã ra khỏi mồ vừa sợ hãi vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người”. Sự buồn rầu và tuyệt vọng của họ đã bị đánh tan bởi sự kinh ngạc và vui mừng khi nghe tin Chúa đã sống lại.

Chúng ta cũng đã có những cảm nghiệm giống như các bà khởi từ sự buồn bã, tăm tối và thất vọng chuyển sang kinh ngạc và vui mừng. Điều này có thể xảy ra trong nhiều hình thức khác nhau đối với mỗi người trong cuộc đời. Đó có thể là một tình huống tuyệt vọng đã trở nên sáng sủa hơn. Điều chúng ta nghĩ rằng xấu nhất, nhưng với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, đã trở nên tốt hơn như khi một người ốm đau được ơn chữa lành, một người vô thần đón nhận ánh sáng đức tin, những kẻ thù địch hòa giải với nhau, những kẻ bị giam cầm được thả tự do…

Cha Manton đã kể lại cảm nghiệm ấy qua câu chuyện như sau. Vào ngày Thứ Tư Tuần Thánh trong năm cuối cùng của cuộc thế chiến thứ hai, tôi đã trông thấy một bà quỳ trước bàn thờ Đức Mẹ, nước mắt tuôn rơi. Tôi tự hỏi, “Bà ấy có chuyện rắc rối gì đây?” Bà sụt sùi, thò tay vào trong túi sách màu đen rút ra cái điện tín nhàu nát. Rồi lại khóc nức nở, “Con nhận được cái điện tín này cách đây 2 tiếng đồng hồ”. Điện văn với hàng tin, “Bộ chiến tranh rất tiếc phải báo tin cho bà biết rằng con trai của bà đã bị mất tích tại chiến trường”.

Tôi chẳng biết phải làm gì để an ủi bà ngoài những tiếng lầm bầm hứa hẹn cầu nguyện cách riêng cho con bà. Sáng hôm sau, Thứ Năm Tuần Thánh, tôi lại thấy bà mẹ đó quỳ trước bàn thờ Thánh Thể, khuôn mặt buồn sầu hơn bao giờ hết. Dường như bà đã già đi nhiều chỉ qua một đêm. Bà giống như Chúa Giêsu chịu hấp hối trong vườn cây dầu…

Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, tôi thấy bà ngồi ở hàng ghế đầu tiên, nhìn vào khoảng trống của bàn thờ với cây thập giá phủ khăn tím. Bà giống như Đức Mẹ Maria đang đứng dưới chân thập giá. Đây là ngày Thứ Sáu khổ nạn của tâm hồn bà.

Bước sang đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, trước khi chúng tôi bắt đầu nghi thức Vọng Phục Sinh, bà tiến đến nói với tôi một tin mừng. Dường như đây không phải là người đàn bà của ngày hôm trước. Đây là một người đàn bà mới với cái điện tín mới. Con trai của bà an toàn, đang là một tù binh chiến tranh. Bà đã không thể nói với tôi được điều gì, chỉ đơn giản đẩy chiếc điện tín vào tay tôi. Rồi bà lại khóc nữa, nhưng những giọt nước mắt của niềm vui và hạnh phúc. Khi bà ra về, tôi gọi lớn, “Chúc mừng Phục sinh”… và từ nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt của người mẹ, tôi biết bà đã cảm nghiệm được ý nghĩa của niềm vui Phục sinh nhiều hơn tôi. Đó chẳng phải là sự sống lại của con bà hay sao?

 

  1. CSTM/88 – Niềm tin

Có một cuốn phim, tựa đề là “Đức Giêsu Kitô”, đây là một cuốn phim nhạc nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu. Bằng ngôn ngữ của âm nhạc, tác giả cuốn phim đã cố gắng diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu theo tâm thức của con người thời nay, giúp cho người xem có thể học hỏi và hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nhưng có một thiếu sót lớn nhất của cuốn phim nhạc này là đã không đề cập đến việc Chúa Giêsu sống lại. Cuốn phim kết thúc cuộc đời của Chúa bằng cái chết treo trên thập giá.

Cuộc đời Chúa Giêsu chết là hết chăng? Những người không có niềm tin Kitô giáo xem cuốn phim này sẽ kết luận như thế. Bởi vì “chết là hết”, đó là ý nghĩa thông thường của con người. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu sau cái chết nhục nhã của Ngài: tất cả mọi hy vọng của họ đều tan thành mây khói. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ đã xảy ra: Ngày thứ ba sau khi tử nạn, Chúa Giêsu đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử, một biến cố đã làm phát sinh một tổ chức lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Kitô giáo.

Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.

Tuy nhiên, biến cố Phục sinh cũng có những dấu hiệu bề ngoài chứng thực, như ngôi mộ trống, không có xác Chúa Giêsu ở đó. Ngài hiện ra cho mấy phụ nữ đến thăm mộ và nhất là một số môn đệ, họ nhận ra Ngài khi thấy những thương tích của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và trò chuyện ăn uống với Ngài. Rồi Ngài đã làm cho các môn đệ sau khi gặp gỡ, truyện trò, ăn uống với Ngài phải tin và xoay chuyển tầm nhìn của họ về Ngài: từ hồ nghi không tin đến tuyên xưng Ngài chính là Đức Kitô, đồng thời xoay chuyển cả lối sống của họ: từ thất vọng sợ hãi trở thành tin tưởng, can trường, rồi đồng loạt đi khắp nơi loan báo và minh chứng Ngài đã Phục sinh. Minh chứng cách trung thành và can đảm, không sợ bị đánh đòn, chế nhạo, cầm tù, mà còn sẵn sàng chịu tử hình nữa. Việc ngôi mộ trống, việc Ngài hiện ra nhiều lần, việc các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục sinh, tất cả đều có thật.

Quả thực, việc Chúa Giêsu sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ cũng như với tất cả mọi người, vì là nền tảng cho niềm tin và sự cứu độ của mọi người. Đối với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau khổ và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã sống lại và được tôn vinh) làm cho Ngài trở thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới, vì Ngài là hoa quả đầu mùa của nhân loại mở đường vào hạnh phúc thật vĩnh hằng. Sự sống lại chứng tỏ giáo huấn của Ngài là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc chắn đạt tới hạnh phúc ấy. Sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn đệ về Ngài và xoay chuyển cả lối sống của các ông. Sau hết, sự sống lại là bảo đảm cho mọi người được sống lại thật và có thể được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng như Ngài.

Trải qua hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện Chúa Kitô Phục sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới của Ngài.

 

  1. Thiên Chúa Quan Phòng

Có hai người bộ hành đi lên đường đi đến một phương xa. Họ dùng một con lừa để chuyên chở hành lý. Để cho con lừa có bạn, họ mang theo một chú gà cồ. Và đêm đến họ đốt đuốc để soi đường. Một người bộ hành là một tín hữu rất đạo đức. Trên miệng ông lúc nào cũng có câu nói: “Thiên Chúa là Đấng tốt lành trong tất cả mọi sự”. Người bạn đồng hành của ông thì lại là một người rất cứng lòng tin. Ông rất bực mình mỗi khi ông nghe người bạn ông thốt lên những lời ca tụng lòng thiện hảo của Thiên Chúa.

Lên đường chừng vài phút đồng hồ, ông đã cảnh cáo người bạn có lòng tin như sau: “Rồi đây anh sẽ thấy anh tin Chúa đến độ nào”. Trước khi mặt trời lặn, họ đến một ngôi làng nhỏ. Họ tìm một nơi để qua đêm. Họ gõ cửa khắp nơi, nhưng không có ai đón tiếp họ. Cuối cùng họ đành phải ra khỏi làng và tìm đến bìa rừng để qua đêm.

Trong cảnh màn trời chiếu đất, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: “Nào, Chúa của anh có tốt không?”. Người bạn đồng hành luôn tin tưởng ở Chúa quan phòng bình tĩnh đáp lại: “Đây là chỗ tốt nhất Chúa dành cho chúng ta ngủ qua đêm này”.

Đêm đó, họ nằm ngủ dưới một gốc cây lớn nằm sát bìa rừng. Họ cột chú lừa vào một gốc cây gần đó. Họ chưa kịp đốt lên ngọn đuốc thì một tiếng mạnh từ xa vang lại. Thì ra, chỉ trong chớp nhoáng, một chú sư tử đã đến cắn xé con lừa và mang đi. Vừa thương tiếc cho chú lừa, vừa lo sợ cho thân phận của mình, hai người bộ hành chỉ còn biết leo lên cây để tránh tai họa.

Vừa tức giận, vừa mỉa mai, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: “Nào, Chúa của anh còn tốt nữa không?”. Người tín hữu ngoan đạo dõng dạc tuyên bố: “Nếu con sư tử không bắt gặp con lừa trước, thì chắc chắn nó đã bổ nhào trên chúng ta rồi. Chúa là Đấng tốt lành”.

Một vài phút sau, con gà cồ bỗng kêu la thất thanh. Hai người bộ hành mới trèo cao hơn. Họ nhận ra con gà cồ đang nằm trong nanh vuốt của một chú mèo rừng. Người bạn cứng lòng tin chưa kịp thốt ra một lời cay đắng nào, thì người tín hữu ngoan đạo đã chúc tụng như sau: “Tiếng kêu thất thanh của con gà cồ lại một lần nữa giúp chúng ta thoát nguy hiểm. Cám ơn Chúa là Đấng tốt lành”.

Họa vô đơn chí. Chỉ vài phút sau đó, một cơn gió mạnh ùa đến, ngọn đuốc bỗng tắt ngụm đưa hai người vào trong cảnh tối tăm ghê rợn. Lần này con người cứng lòng tin lại lên tiếng mỉa mai như sau: “Xem chừng như Chúa của anh làm việc phụ trội trong đêm nay”. Lần này, người tín hữu ngoan đạo chỉ biết giữ thing lặng.

Sáng hôm sau, hai người mon men trở lại làng để mua thức ăn. Họ mới hay biết rằng đêm hôm đó một băng cướp đã vào làng và họ đã vơ vét tất cả tài sản của dân làng. Nhìn cảnh tượng hoang tàn của ngôi làng và nhìn lại sự toàn vẹn của mình, người tín hữu ngoan đạo mới đắc thắng giải thích cho người bạn như sau: “Anh đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Giá như đêm hôm qua, chúng ta thuê được một chỗ trọ trong làng, thì có lẽ chúng ta cũng không thoát khỏi tay của bọn cướp. Nếu cơn gió lớn không làm tắt ngọn đuốc của chúng ta, thì hẳn bọn chúng đã nhìn thấy chúng ta. Bạn thấy chưa, trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa là Đấng thiện hảo”.

Tin ở Thiên Chúa quan phòng không có nghĩa là bảo rằng tất cả mọi tai họa rủi ro xảy đến trong cuộc sống đều do Chúa gửi đến, nhưng có nghĩa là, khi đứng trước một bất hạnh mà mình không thể tránh khỏi, chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa thiện hảo và quyền năng đến độ có thể biến sự bất hạnh ấy thành khởi điểm của một hồng ân cao cả hơn.

Trong ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi để nhìn vào biến cố trong cuộc sống bằng cái nhìn lạc quan và tin tưởng ấy. Cái chết ô nhục của Đức Kitô trên thập giá quả là một bất hạnh và là một tội ác, nhưng Thiên Chúa quyền năng và yêu thương đã biến thành khởi điểm của nguồn ơn cứu thoát.

Giữa muôn nghìn thử thách, hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa đang dành cho chúng ta một ân huệ cao cả hơn ngoài sự chờ đợi của chúng ta. Chúng ta hãy xưng tụng tình yêu quan phòng của Ngài.

 

  1. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Trong tâm thức ta hiện nay, Đức Giêsu đóng vai trò gì? Ngài đang sống và hoạt động tích cực, hay Ngài đã chết và không hoạt động gì cả? Nếu Ngài đang hoạt động, tất nhiên đời sống ta sẽ đổi mới rõ rệt. Ít lâu nay, đời sống tâm linh ta có gì thay đổi tích cực không? Điều đó chứng tỏ gì?
  2. Làm sao để Đức Giêsu sống lại trong tâm thức ta? để Ngài hoạt động tích cực trong ta hầu ta được biến đổi thành con người mới?

Suy tư gợi ý:

  1. Đức Giêsu đang sống hay đã chết trong tâm hồn ta?

Đức Giêsu đã sống lại. Điều ấy có ảnh hưởng gì đến ta không? Đức tin dạy ta rằng: «Nếu Đức Kitô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng ta là vô ích» (1 Cr 15,14). Thật vậy, nếu Đức Giêsu không sống lại, thì cho dù có Ngài, cũng sẽ không có Kitô giáo, vì người ta không có một bằng chứng cụ thể và chắc chắn nào để tin rằng Ngài là Con Thiên Chúa. Và nếu như thế, ta cũng như mọi Kitô hữu khác đều chẳng phải là Kitô hữu, và lúc ấy đối với ta, Đức Giêsu cũng chỉ là một đạo sư như bao đạo sư khác. Nhưng nếu Ngài đã thật sự phục sinh và ta đã là Kitô hữu, thì sự phục sinh của Ngài có ảnh hưởng gì đến ta một cách hiện sinh không? Có làm ta thay đổi cuộc sống hiện nay của ta không? Biết bao lễ phục sinh qua đi, mà lòng ta hay cuộc sống ta đâu có gì thay đổi! Ta vẫn là ta, vẫn có biết bao thói hư thật xấu như trước, chẳng thay đổi bao nhiêu, đôi khi tệ hơn!

Tại sao? Vì ta đã coi sự phục sinh của Đức Giêsu như một biến cố xảy ra hoàn toàn ở bên ngoài ta, chứ không xảy ra chút nào trong bản thân ta cả. Một nhà tu đức nói: «Nếu Đức Giêsu chỉ sinh ra tại Bê-lem, chỉ sống tại đất nước Do Thái, chỉ chịu chết trên đồi Can-vê, và chỉ phục sinh trong lịch sử cách đây 2000 năm, mà không sinh ra, sống, chịu chết và phục sinh ngay trong tâm hồn ta, tại đây và lúc này, thì tất cả những biến cố ấy của Ngài đều hoàn toàn vô ích đối với ta». Vì thế, điều quan trọng để sự phục sinh của Ngài có ích lợi cho ta, là Ngài phải phục sinh ngay trong bản thân ta, trong tâm thức của ta.

Theo niềm tin và sự tuyên xưng của ta, Ngài vẫn đang sống và hiển trị, nhưng dường như tất cả đều xảy ra ở bên ngoài ta. Còn ở trong ta, trong tâm thức ta, Ngài đã chết và đã được an táng từ lâu. Thỉnh thoảng ta chỉ tưởng nhớ đến Ngài như một người đã sống cách đây 2000 năm, tương tự như ta vẫn nhớ đến ông bà tổ tiên ta, hay đến một đức Trần Hưng Đạo nào đấy trong lịch sử. Trong tâm thức ta, Ngài được coi như một người quá cố. Một người chết như thế đương nhiên chẳng có thể ảnh hưởng hay thay đổi gì ta được!

  1. Hãy phục sinh Đức Giêsu trong tâm thức ta

Vậy, để được biến đổi nên một con người mới, mạnh mẽ, tốt đẹp, tràn đầy thần khí của Thiên Chúa, trước hết ta phải phục sinh Đức Giêsu ở ngay bản thân ta, trong tâm hồn ta, trong tâm thức ta. Ngài có thật sự sống và hoạt động trong ta, thì ta mới được biến đổi để trở nên như Ngài.

Trong Tin Mừng có đoạn mô tả Đức Giêsu ngủ say như chết, bất động, trên thuyền của các tông đồ giữa cơn phong ba bão táp, để mặc các tông đồ phải đối phó trong hốt hoảng sợ hãi (x. Mt 8,23-27; Mc 4,35-41; Lc 8,22-25). Đó chính là hình ảnh mô tả thật chính xác tình trạng của Đức Giêsu trong tâm hồn ta: Ngài đang ngủ, hay Ngài đã chết, nghĩa là Ngài bất động. Nếu Ngài thức hay sống trong tâm hồn ta, tất nhiên Ngài sẽ hoạt động, Ngài sẽ làm những việc lạ lùng, thậm chí phép lạ để biến đổi ta, tương tự như Ngài đã làm sóng gió yên lặng sau khi các tông đồ đánh thức Ngài dậy trên thuyền.

Cuộc đời ta, tâm hồn ta nhiều khi ảm đạm, buồn tẻ, không có gì hứng thú hay khởi sắc về mặt tâm linh, chính vì ta đã để Đức Giêsu ngủ yên hay còn nằm chết trong ngôi mộ của tâm thức ta. Lúc nào Ngài cũng hiện diện trong ta, đầy quyền năng của một vị Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng làm mọi sự để biến đổi ta nên hoàn thiện, mạnh mẽ, để cứu giúp ta khi gặp cùng khốn. Nhưng thái độ lãng quên và hờ hững của ta đối với Ngài đã khiến sự hiện diện của Ngài trong ta thành một hiện diện thụ động của một xác chết, hay của một người đang ngủ. Một cách khách quan, Ngài vẫn luôn hiện diện trong ta từng giây phút, nhưng ta không hề ý thức điều ấy, ta chẳng nhớ gì đến Ngài. Ngài hiện diện ở đó, nhưng đối với tâm thức ta, Ngài dường như không hiện diện. Nói cách khác, Ngài dường như vắng mặt trong tâm thức ta. Chính vì thế, sự hiện diện khách quan nhưng thụ động của Ngài chẳng đem lại lợi ích gì cho ta, chẳng làm cho đời sống ta thêm dồi dào phong phú, bình an hạnh phúc, đang khi ta rất cần và rất mong điều ấy. Ngài hiện diện nhưng chẳng khác gì vắng mặt, Ngài vẫn sống nhưng chẳng khác gì đã chết, vẫn thức nhưng chẳng khác gì đang ngủ, vì ta đã không để Ngài hiện diện hay sống động trong tâm thức ta. Ngài giống như một kho tàng rất lớn chôn dấu ngay trong nhà ta, nhưng vì ta không biết, nên ta nghèo vẫn hoàn nghèo, và kho tàng ấy chẳng ích lợi gì cả.

Nếu nhờ ý thức, Ngài trở nên hiện diện trong tâm thức ta, lập tức sự hiện diện ấy sẽ trở thành sự hiện diện hoạt động, hữu ích. Ngài sẽ biến đổi ta một cách hữu hiệu. Cũng như khó tàng bị chôn dấu kín kia, nếu được biết đến và đem ra sử dụng, sẽ đem lại một cuộc sống hết sức phong phú và hạnh phúc.

  1. Sự phục sinh của Ngài trong ta tùy thuộc vào ta

Ngài ngủ hay thức, chết hay sống trong tâm hồn ta, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào ta có đánh thức hay để Ngài sống và hiện diện trong ta hay không. Ngài để ta hoàn toàn tự do quyết định điều đó. Trong chương trình của Ngài, rất nhiều việc Ngài đòi hỏi sự cộng tác tự nguyện của ta thì mới thành sự. đó là cách Ngài trọng phẩm giá của ta, là hình ảnh của Ngài, một Thiên Chúa hoàn toàn tự do. Phẩm giá đó buộc Ngài phải tôn trọng tự do của ta, Ngài không muốn đơn phương làm mọi việc, dù Ngài có thể làm, nhất là sự hoạt động tự do trong tâm thức ta.

Như vậy, tuy Ngài hiện diện và hoạt động cùng khắp, nhưng vẫn có chỗ mà ngài không thể tự do hiện diện và hoạt động theo ý Ngài. đó là hiện diện và hoạt động trong tâm thức ta. Tâm thức ta là một không gian bất khả xâm phạm đối với chính Ngài, nghĩa là chính Ngài cũng không dám xâm phạm. Ngài chỉ vào đó để hiện diện và hoạt động trong tâm thức ta khi nào ta cho phép Ngài, bằng cách hướng về Ngài, ý thức được sự hiện diện khách quan của Ngài và nhất là hết mình sống với sự hiện diện đó. Sự hiện diện của Ngài trong tâm thức ta chỉ đạt tới tuyệt đỉnh và trở nên tích cực hoạt động khi nào ta có thể nói được như thánh Phao-lô: «Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20).

Muốn thế, ta phải để Đức Giêsu chiếm trọn bầu trời tâm thức ta. Bình thường, «cái tôi» của ta chiếm trọn bầu trời ấy, vì lúc nào ta cũng nghĩ về ta, về quyền lợi, hạnh phúc, đau khổ của ta. Mọi hoạt động của ta đều bị cái tôi ích kỷ đó chi phối, điều khiển, huy động, khiến ta lúc nào cũng chỉ biết lo cho bản thân mình. Nhưng càng lo cho bản thân ta bao nhiêu, ta càng cảm thấy thiếu thốn, trống rỗng và đau khổ bấy nhiêu, vì đòi hỏi của ta thì vô hạn, mà sức của ta thì có hạn. Trong bầu trời tâm thức đó, ta chỉ dành một khung rất nhỏ cho Thiên Chúa và người khác. Vậy, nếu muốn Đức Giêsu luôn hiện diện sống động và sử dụng được toàn bộ năng lực của Ngài trong ta, ta phải dành trọn bầu trời tâm thức của ta cho Ngài. Ngài phải là một ưu tư, lo lắng lớn lao nhất của ta, và ta chỉ nên dành một khoảng trời bé nhỏ nào đó cho chính ta thôi. Làm như thế là ta đã phục sinh Ngài, đã đánh thức Ngài dậy trong ta, để Ngài thi thố quyền năng của Ngài. Làm như thế là ta đã đào được cái kho tàng quí báu nhất mà ta vẫn vùi sâu chôn chặt trong tâm thức ta, để biến kho tàng ấy trở nên ích lợi cho ta. Và đương nhiên sau đó, nhờ sự sống và hoạt động của Ngài trong ta, ta sẽ hoàn toàn được biến đổi, cuộc sống trở nên phong phú và hạnh phúc hơn.

Cầu nguyện

Lạy Cha, có lẽ Đức Giêsu đã chết từ lâu trong tâm thức con, hoặc con đã để Ngài ngủ quá say trong tâm thức con, khiến cho sự hiện diện của Ngài trong con không gây nên một tác động nào ích lợi cho bản thân con, cho đời sống tâm linh của con. Xin Cha hãy giúp con đánh thức Ngài dậy, hoặc làm cho Ngài sống lại trong tâm thức con, để sự sống đích thực của Ngài triển nở trong con, và biến đổi đời sống con.

 

  1. SLC – Niềm hy vọng sống lại

Trong những ngày này, chúng ta hớn hở mừng vui. Tiếng Alleluia không ngừng vang lên trên môi miệng chúng ta. Tại sao chúng ta hát đi hát lại điệp khúc hân hoan ấy? Phải chăng vì Đức Kitô đã chiến thắng kẻ thù? Phải chăng vì Ngài đã thực hiện một phép lạ vĩ đại nhất: sống lại từ trong kẻ chết? Tất cả những điều đó làm cho chúng ta vui mừng khi nghĩ về biến cố Phục sinh. Tuy nhiên, niềm vui còn dạt dào hơn nữa, khi chúng ta ngắm nhìn ngôi mộ rỗng của Ngài. Niềm vui dạt dào ấy đã được thánh Phaolô diễn tả như sau: Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại thế nào thì Ngài cũng sẽ dùng quyền năng để cho chúng ta được sống lại như vậy. Đó chính là một niềm an ủi tuyệt vời nhất, một ý nghĩ cao sâu nhất xuất phát từ ngôi mộ phục sinh: Nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ được sống lại.

Chúng ta thường nghe thấy lời phàn nàn và kết án như sau: Đạo Công giáo là một đạo quá nghiêm khắc bởi vì Đức Kitô đã nói: Ta đến không đem sự bình an, nhưng đem gươm giáo. Với lưỡi gươm lưỡi giáo này, phải chăng Ngài đã cắt đứt xác thịt và cuộc đời chúng ta? Đọc kinh, đi lễ, bố thí mà thôi chưa đủ, Ngài còn muốn chúng ta phải dâng hiến trọn cuộc sống cho Ngài, từ tư tưởng, lời nói đến việc làm. Tôi không được phép hưởng thụ những điều bất chính, dù chỉ trong tư tưởng mà thôi. Tôi muốn ăn uống no say, nhưng hôm nay lại là ngày giữ chay, nên tôi không được phép. Tôi muốn nằm ngủ nướng cho đẫy con mắt, nhưng hôm hay là Chúa nhật, tôi có bổn phận phải thức dậy để đi tham dự thánh lễ…Cho dù tội lỗi có hấp dẫn và quyến dũ, luôn mời gọi và lôi kéo đến đâu chăng nữa, thì chúng ta cũng không được phép chạy theo. Công giáo là một đạo nghiêm khắc, đòi chúng ta phải làm chủ thân xác, chế ngự những thèm muốn và hy sinh đời sống cho Đức Kitô. Thế nhưng, cái đạo nghiêm khắc ấy đã đem đến cho chúng ta một tin mừng, đã hứa ban cho chúng ta một điều không ai có thể đem lại được, đó là: nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi chúng ta cũng sẽ được sống lại. Nghĩa là một ngày kia, chúng ta sẽ tìm lại được cuộc sống vĩnh cửu đã mất đi vì tội lỗi.

Niềm tin vào sự sống lại trước hết đã được chính Chúa Giêsu truyền dạy. Ngài đã nói nhiều lần để chứng tỏ tầm mức quan trọng của nó. Thực vậy, Phúc âm thánh Gioan đã ghi lại: Giờ đến, khi mọi kẻ trong mồ nghe tiếng Ngài và bứơc ra. Những người làm lành sẽ sống lại để được sống. Còn những kẻ làm dữ sẽ sống lại để bị luận phạt…Thánh ý của Cha, Đấng đã sai Ta là: bất kỳ ai thấy Con và tin ở Ngài, thì có sự sống vĩnh cửu. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết…Ai ăn thịt Ta và uông máy Ta, thì sẽ có sự sống đời đời.

Trước khi làm phép lạ cho Lagiarô sống lại, Ngài đã phán với Martha: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời. Sau cùng, khi bọn Sađucêô, những kẻ không tin vào sự sống lại dã nêu lên vấn nạn về một người đàn bà có bảy đời chồng và như vậy khi sống lại, bà ấy sẽ thuộc về ai? Chúa Giêsu đã trả lời cho họ như sau: Lúc bấy giờ, không còn vấn đề vợ chồng. Họ sẽ không chết nữa, nhưng sẽ trở nên như thiên thần. Họ sẽ là con cái của Thiên Chúa và của sự sống lại.

Chúng ta có thể suy ngắm về chính sự sống lại của Ngài để tìm thấy ở đó niềm hy vọng ủi an. Thực vậy, vào buổi sáng ngày thứ nhất, các bà đạo đức đi ra mồ để xức thuốc thơm cho thi thể Chúa. Vừa đi, các bà vừa thầm nghĩ: Ai sẽ lăn giùm tảng đá lấp cửa mồ? Phải, trước khi Đức Kitô phục sinh, một tảng đá nặng cũng đã lấp kín phần mộ của chúng ta và của những người thân yêu. Tảng đá của chết chóc, đau khổ và tuyệt vọng. Bởi vì ngôi mộ chính là trạm chót, để rồi sau đó sẽ chấm dứt cuộc sống cũng như tình thương, sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ cũng như mọi ước mơ. Phải chăng đó là sự chấm dứt của chính con người? Thế nhưng, Đức Kitô đã phục sinh. Tảng đá nặng đã bị lăn qua một bên, bởi vì Ngài đa giải quyết được vấn đề từng làm cho chúng ta băn khoăn lo nghĩ: Sau cái chết, sẽ còn lại gì? Sự phục sinh của Ngài chính là bảo chứng cho lời Ngài đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời.

Từ khi Đức Kitô nghỉ yên trong ngôi mộ, thì ngôi mộ đã trở nên một cái gì thánh thiện đối với chúng ta. Và hơn thế nữa, kể từ khi Đức Kitô sống lại, thì tất cả chúng ta, những con người phải chết, sẽ chờ mong buổi sáng phục sinh huy hoàng. Trước Đức Kitô, con người phải chết và trên bia mộ chúng ta ghi: Đây là nơi an nghỉ trong bóng tối và trong tuyệt vọng. Nhưng từ khi Đức Kitô phục sinh, chúng ta có thể ghi trên bia mộ ấy như sau: Đậy là nơi an nghỉ trong tin yêu và hy vọng.

Sau cùng, chúng ta có thể dùng suy luận để thấy được rằng: sự sống lại là một cái gì thích hợp với chương trình của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa. Thực vậy, chúng ta chỉ là người bao lâu hồn còn kết hiệp với xác. Giữa hồn và xác luôn có một liên hệ mật thiết. Nếu hồn mà buồn thì nước mắt sẽ tuôn trào. Nếu hồn mà vui thì khuôn mặt sẽ rạng rỡ. Bởi đó, sự phát triển toàn vẹn của con người đòi buộc hồn xác phải kết hiệp với nhau sau một thời gian bị cái chết tạm thời chia rẽ. Hơn thế nữa, việc sống lại còn là đều thích hợp với sự công bằng của Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta đã tham dự vào tất cả những hành vi thánh thiện cũng như tội lỗi. Vì thế, sự công bằng đòi buộc: nếu thân xác đã tham dự vào những hành động tội lỗi thì cũng phải có những hình phạt dành cho thân xác. Trái lại, nếu thân xác đã tham dự vào những hành động thánh thiện, thì cũng phải có những phần thưởng dành cho thân xác.

Tóm lại, chúng ta sống là để chuẩn bị cho cái chết và chúng ta chết là để được sống đời đời.

 

home Mục lục Lưu trữ