Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 23

Tổng truy cập: 1373484

LÒNG TIN

Lòng tin.

Trước Công đồng Vatican II, những người tín hữu có đời sống luân lý công khai bê bối, nhưng không chịu ăn năn trở lại, khi chết thường bị các cha sở cấm không cho chôn cất trong nghĩa trang của nhà thờ, vì nghĩa trang Công giáo là phần đất đã được thánh hiến, chỉ dành cho những người tín hữu có đời sống xứng đáng mà thôi.

Có một ông cụ già sống bê bối về luân lý, say sưa cờ bạc, ăn ở lung tung… Khi chết, cha sở ra lệnh cho người nhà phải chôn cất ông ở ngoài hàng rào của nghĩa trang trong xứ. Sau nhiều năm, cha sở đã đổi đi nơi khác, người con gái của ông già trở về nhà thờ cũ để thăm mộ và xin lễ cầu nguyện cho ông. Bà đi kiếm mộ cha mình ở bên ngoài hàng rào nghĩa trang nhưng chẳng thấy. Bà đành phải đi tìm người trông coi nghĩa địa ngày xưa để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Người trông coi nghĩa địa đã dẫn bà ra đúng mộ của thân phụ, nhưng đã nằm ở bên trong hàng rào nghĩa trang. Bà ngạc nhiên hỏi, “Tại sao ông lại dời mộ của thân phụ tôi?” Người trông coi nghĩa trang mỉm cười trả lời: “Chúng tôi đã không dời mộ của ông cụ, nhưng vì bên trong nghĩa trang không còn đủ chỗ chôn cất nữa, nên phải mở rộng nghĩa trang ra. Chúng tôi chỉ dời hàng rào ra mà thôi”.

Đây là điều Chúa Giêsu đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay, khi chữa bệnh cho con gái của người đàn bà xứ Canaan. Người đàn bà Canaan đến với Chúa là người ở bên ngoài những hàng rào ranh giới do sự kỳ thị phân biệt của xã hội.

Đối với những người Do thái, sự trong sạch và nhơ bẩn được phân định rõ ràng. Nếu là người Do Thái và biểu tỏ đức tin qua việc giữ luật Do Thái, người đó được coi là trong sạch. Nếu là ngoại kiều, hay là Do Thái mà không tuân giữ luật lệ Do Thái, đó là người dơ bẩn. Sự phân định ranh giới này rất đơn giản và rõ ràng!

Có hai điều làm cho người đàn bà xứ Canaan bị loại trừ trong bậc thang phân định giá trị của người Do Thái: đàn bà và dân ngoại. Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người đàn bà bị lãng quên. Trong bài Phúc Âm Mt 14, 13-21, Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều cho 5000 người ăn uống no nê, “không kể đàn bà và trẻ con”. Đàn bà và trẻ con không được kể đến, coi như không có giá trị. Hôm nay một lần nữa, thánh Matthêu nói đến người đàn bà xứ Canaan, mà không nhắc đến tên của bà. Điều này có ý nghĩa. Chắc chắn bà phải có tên. Nhưng không được nhắc đến tên chứng tỏ bà đã bị xã hội thời đó khinh bỉ và loại trừ.

Điểm thứ hai, bà là người dân ngoại xứ Canaan. Đối với người Do Thái, dân ngoại là xấu. Người Canaan, kẻ thù truyền kiếp của tổ tiên người Do Thái, còn xấu hơn nữa. “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Chúa Giêsu đã sử dụng phong tục và lối nói quen thuộc của người Do Thái để so sánh những người dân ngoại giống như chó. Xã hội Do Thái thời xưa không cưng chiều và quý trọng chó như xã hội tây phương thời nay. Gọi ai bằng chó là một điều sỉ nhục. Vì chó liếm những vết ghẻ chốc, và mang bệnh truyền nhiễm như trong câu chuyện người phú hộ và ông Ladarô.

Theo William Barclay, bởi lòng kiêu căng, người Do Thái đã gọi dân ngoại là “những con chó ngoại đạo”, “những con chó vô tín ngưỡng”. Sau này họ gọi những người theo Kitô giáo là “những con chó Kiô hữu”. Một sự diễn tả đầy khinh bỉ! Trong cuốn tự thuật của Mahatma Gandhi, vị thánh của người An Độ giáo, ông kể lại rằng trong thời gian còn là học sinh, ông đã đọc Phúc Am và nhìn thấy trong những lời giảng dạy của Chúa Giêsu câu trả lời cho vấn nạn lớn lao của người dân An Độ phải giải quyết với chế độ đẳng cấp. Đang khi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh về đức tin Kitô giáo, một buổi sáng Chúa nhật, Gandhi bước vào nhà thờ với ý định sẽ bàn thảo với mục sư về tư tưởng của mình. Tuy nhiên, vừa bước vào trong nhà thờ, người dẫn chỗ ngồi đã từ khước không tìm chỗ và đề nghị ông nên bước ra ngoài đi đến nhà thờ dành riêng cho giai cấp của ông. Gandhi đã bỏ nhà thờ và không bao giờ trở lại nữa. Sau này ông nói: “Nếu những người Kitô hữu cũng có những đẳng cấp khác nhau, thì tốt hơn tôi nên ở lại với An Độ giáo”. Vì sự kỳ thị và phân biệt mà người đàn bà Canaan và ông Gandhi đã bị loại trừ. Nhưng Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người nhìn thấy rằng ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa vượt qua tất cả mọi hàng rào ranh giới của con người dựng nên.


 

42. Lòng tin.

Người ta kể về một người đàn bà ở bãi biển. Bà ấy vừa già, lại dơ bẩn và ăn mặc dị hợm. Bà đi bộ lang thang dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ngừng lại cúi xuống nhặt một cái gì đó bỏ vào trong túi sách. Khi bà đi ngang qua đám trẻ con đang đùa vui trên cát biển, cha mẹ của những em bé này liền gọi các em lại để khỏi gần gũi với bà. Họ lo lắng và sợ hãi vì không biết bà có thể làm điều gì gây nguy hại cho các em. Họ căn dặn con cái: “Không có việc gì phải liên hệ với bà ta cả”. Sau này, họ khám phá thấy rằng bà lão đi dọc theo bờ biển và nhặt những miếng kính vỡ bỏ vào trong túi xách để trẻ em không bị đứt chân chảy máu khi chạy vui đùa trên bãi biển.

Nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng dẹp bỏ những hàng rào ngăn cách. Điều này được thể hiện bằng thái độ nhìn tất cả mọi người bình đẳng như nhau, không còn phân biệt kỳ thị nam nữ, giàu nghèo, sắc tộc, màu da, hay tôn giáo. Và trong ánh sáng đức tin, phải nhìn mọi người là anh chị em của mình, là con cái của Chúa Cha trên trời. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta điều này trong thư gửi tín hữu Galát: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”.

Đối với những người ngoài Kitô giáo, trong tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate, đoạn 5, Công Đồng Vatican II đã nói: “Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha mọi người nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với một số người, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người với Thiên Chúa là Cha và giữa con người với anh em mình, có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.

Do đó, mọi lý thuyết hay hành động đưa đến kỳ thị về phẩm giá con người và những quyền lợi do phẩm giá đó mà ra, kỳ thị giữa con người với nhau, giữa dân này với dân khác, sẽ không có nền tảng.

Vì thế, Giáo Hội bác bỏ mọi sự kỳ thị hoặc đàn áp chủng tộc hay màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì thái độ ấy xa lạ với tinh thần Chúa Kitô. Do đó, thánh Công đồng theo chân thánh Phêrô và Phaolô, khẩn thiết kêu mời các Kitô hữu: “Hãy sống ngay lành giữa người lương dân”, nếu có thể được, tuỳ khả năng mà sống hoà thuận với hết mọi người như những người con một Cha trên trời”.

Đối với những người Kitô hữu, trong tinh thần hiệp nhất, Công đồng nói: “Thánh công đồng này khuyến khích tất cả mọi người Công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất”.

Đối với những anh chị em ly khai, Công đồng Vatican II nói: “Người Công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận tôn trọng những giá trị thật sự Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm thấy nơi các anh em ly khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô và những hoạt động của quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người – và có khi phải đổ máu mới nói lên được chứng tá ấy – quả là chính đáng và có giá trị cứu rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc Người làm bao giờ cũng kỳ diệu”.

Nhìn vào tấm gương của người đàn bà Canaan, chúng ta cũng rút ra được bài học quý giá trong đời sống đức tin. Với tình yêu lớn lao của một người mẹ đối với con gái đang đau nặng, người đàn bà Canaan đã vượt qua mọi ranh giới kỳ thị của xã hội – đàn bà và dân ngoại – để kiên trì tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa Giêsu. Tình yêu là động lực dẫn đến đức tin.

Trong cuốn truyện “Anh em nhà Karamazốp”, Dostoevski kể về câu chuyện của một bà lão đang bị khủng hoảng về tinh thần và thể lý. Ngày nọ bà đến bàn luận vấn đề này với linh mục Zossima. Bà tâm sự về sự yếu kém của đức tin, cùng nỗi nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa và đời sống mai sau.

Linh mục Zossima thông cảm lắng nghe, rồi khuyên bà rằng chẳng có cách nào minh chứng rõ ràng về những điều này, nhưng vẫn có thể làm cho đức tin của bà chắc chắn hơn bằng tình yêu thương tha nhân. Hãy cố gắng yêu người láng giềng cho thật tình. Càng yêu thương, bà sẽ càng tin tưởng chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về đời sống sau khi chết. Càng yêu mến, đức tin của bà càng trở nên mạnh mẽ, và làm tiêu tan hết những nỗi nghi ngờ. Bà đã thử nghiệm và thấy có kết quả.

Linh mục Mark Link S.J., trong bài giảng Chúa nhật XX hôm nay, đã ví tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không khác gì như hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này sẽ thấy cái kia. Đức tin và tình yêu liên kết với nhau như xác với hồn. Cha cũng dùng lời của bác sĩ truyền giáo Albert Schweitzer, trong cuốn sách có nhan đề “Reverence for Life” – “Kính trọng Cuộc Sống” như sau:

“Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không? Bạn có thực sự muốn tin Ngài không? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho Ngài. Trong thời buổi đầy ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà các bạn cho kẻ khác đồ ăn, nước uống hoặc áo mặc, những nghĩa cử này Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm điều ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài cho bạn như thể Ngài là một người vẫn còn sống”.

Các bậc cha mẹ cần củng cố đức tin hãy bắt chước người đàn bà Canaan, đến với Chúa Giêsu với lòng yêu thương con cái tha thiết. Và tất cả mọi người, muốn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, hãy mở rộng tâm hồn để chấp nhận những người anh chị em không cùng tôn giáo, lập trường chính trị, văn hoá, sắc tộc hay ngôn ngữ. Bởi “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.


 

43. Chứng nhân bằng cuộc sống.

(Suy niệm của Lm. Đinh Quang Vinh)

Sau buổi cơm chiều, vị linh mục già với tràng chuỗi trên tay đang gõ đều những nhịp chân trên dãy hành lang của nhà xứ. Bỗng một loạt chuông dài từ phía cổng vang lên, không chút đắn đo, vị linh mục tiến về cổng chính. Cánh cửa bật mở, một khuôn mặt thật tiều tụy xuất hiện, kèm theo lời kêu cứu: "Linh mục ơi! Xin cứu gia đình con với"; với giọng ôn tồn ngài nói: "Mời chị vào phòng khách, có điều chi hãy từ từ giải bày".

Đón lấy ly nước mát lạnh từ tay ngài, người phụ nữ chỉ nhấp đôi chút và vội vàng cất tiếng với giọng nói thật thống thiết: "thưa linh mục, xin ngài cứu gia đình con với, xin cứu người chồng đáng thương của con. Anh ấy ngã bệnh đã hai năm nay, con đã cố gắng hết sức mình, ngay cả gia tư vốn liếng con cũng chẳng tiếc chi. Nhưng cho đến nay, mọi chuyện như muối đổ bể: bệnh tình của nhà con chẳng đỡ chút nào, còn gia đình con thì lại rơi vào khánh kiệt". "Vậy giờ đây chị muốn tôi giúp gì cho chị? Chị cứ nói, trong khả năng của tôi, tôi xin sẵn sàng giúp chị", vị linh mục cất tiếng nói. Xúc động bởi sự chân tình của vị linh mục trong tiếng nghẹn ngào chị ta bộc bạch: "thưa linh mục, gia đình con là gia đình cách mạng, chúng con là những đảng viên, tuy chúng con không biết về Chúa, cũng chẳng quen biết linh mục, nhưng nhờ những người hàng xóm Công Giáo gần nhà giới thiệu, cho nên con mạnh dạn đến đây để nhờ linh mục cầu nguyện cho nhà con qua khỏi cơn nguy biến này". Vẫn với giọng nói thật chân tình, vị linh mục hỏi: "Chị tin vào lời cầu nguyện của tôi ư?" chị đáp lời: "Thưa linh mục, giờ con biết làm gì hơn ngoài điều này; vả lại có tin con mới đến đây để cậy nhờ linh mục". "Thế thì chị hãy an tâm, tôi hứa ngay từ chiều hôm nay sẽ cầu nguyện cho chồng của chị". Cảm động bởi tấm lòng cao thượng của vị linh mục, chị ta còn chỉ biết tạ ơn và cáo biệt ngài ra về cho kịp chuyến xe chiều. Hai tháng sau, người phụ nữ ấy trở lại với người chồng của mình để tạ ơn vị linh mục. Và cũng từ đó khơi mào cho hành trình niềm tin của hai vợ chồng.

Câu chuyện trên đây cũng phần nào diễn tả Lời Chúa ngày hôm nay: Niềm tin của người phụ nữ xứ Canaan. Người phụ nữ ấy đã tin vào Đức Giêsu Kitô: Lạy Ngài là Con Vua Đavít (Mt 15,22); dẫu chỉ nghe nói về Ngài qua những người chung quanh. Niềm tin ấy được diễn tả ngày càng mạnh mẽ, nhất là khi Đức Kitô nói với chị ta: "không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con" (c.26). Đáp lời Ngài, chị ta nói: "thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống". Đây phải chăng là lời vặn vẹo hay tranh luận với Chúa Giêsu? Thưa không, lời nói của chị đượm nét khẩn cầu của một kẻ đầy lòng khiêm nhường, cúi mình trước Đấng Tối Cao; chính câu trả lời của chị như thêm một lần nữa xác tín niềm tin của mình vào Con Vua Đavít, vì chị tin rằng Ngài luôn thương đến những kẻ mọn hèn, dẫu cho là những chú "chó con" (ngôn từ mà người Do Thái thời xưa dùng để ám chỉ dân ngoại). Đọc được những tâm tình sâu thẳm ấy, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và chữa lành cho con gái chị.

Lời Chúa hôm nay còn muốn diễn tả sứ vụ của Đức Kitô: Được sai đến với những chiên lạc nhà Israel (c.24). Thực vậy, có những con chiên mà đôi lúc do những hiểu lầm hoặc chưa được nghe Lời Chúa đã không ở trong một đàn. Trong và qua Tình Yêu Thập Tự Đức Kitô đã muốn quy tụ tất cả về trong một đàn chiên duy nhất, sống sự hiệp thông, tình yêu, bình an; Ngài muốn dẫn đưa tất cả chúng ta lên Núi Thánh Ngài (Is 56,7). Sứ vụ ấy được ủy thác lại cho các Tông Đồ khi Ngài về trời, và cho chính mỗi người chúng ta, những thành phần của Hội Thánh (Đến với muôn dân, 2).

Trăn trở trước sứ vụ thật cao cả ấy, đôi lúc chúng ta cũng tự đặt câu hỏi cho mình: "Đâu là cách thế để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay?". Tôi muốn mượn lời của ĐGH Gioan Phaolô VI để trả lời cho vấn nạn này: "Người đương thời sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy", thế nên "Tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng cách làm chứng, một đời sống làm chứng bao hàm sự hiện diện, chia sẻ, liên đới" (Loan báo Tin Mừng, 21;41).

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta những bài học quý giá. Qua hình ảnh người phụ nữ xứ Canaan ta học được bài học về sống niềm tin. Chính niềm tin hun đúc và giúp chúng ta bước đi cách vững chắc trong hành trình hướng về quê trời, dẫu cho hành trình đó còn vương đầy sỏi đá; chính lối sống tín thác vào Đức Kitô, khiến ta trở thành những chứng nhân sống động của Tin Mừng, của tình yêu: rao giảng không những bằng lời nói, nhưng còn bằng chính đời sống. Thiết nghĩ khi thực thi được những điều đó ta đã thực thi phần nào sứ mạng mà Chúa uỷ thác cho mỗi người chúng ta.


 

44. Khi đời không mỉm cười – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Chuyện kể rằng: một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa. Em cẩn thận đọc cho người bán hàng tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên mảnh giấy. Người bán hàng nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú.

Sau khi đã xếp gọn các món vào giỏ cho em, ông dẫn em đến trước cái hộp đầy kẹo. Vừa mở nắp hộp ông vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui mừng rút ra một viên kẹo. Người bán hàng bèn khích lệ em và nói:

- Cháu hãy bốc cho đầy lòng bàn tay của cháu đi.

Em bé mỉm cười đáp:

- Vậy ông hãy bốc kẹo giùm con.

Người bán hàng ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao vậy?

Em bé dí dỏm trả lời:

- Tại vì bàn tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều.

***

Như em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của mình trước sự lớn lao của người khác, nên đã được ban cho dư đầy, thì người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan cũng khiêm tốn nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.

Bà còn hết lòng tin tưởng vào bàn tay lớn lao quyền phép của Thiên Chúa, nên bà xứng đáng lãnh nhận hồng ân cao cả, là con bà tức thì được chữa khỏi quỉ ám.

Đó chính là thái độ cần phải có khi cầu nguyện.

Chỉ có những lời cầu nguyện khiêm tốn, nhận mình là không và Chúa là tất cả, chẳng đòi hỏi gì mà chỉ trông đợi lòng thương xót Chúa, mới là những lời cầu nguyện đẹp nhất.

Chỉ có những lời cầu nguyện kiên trì, không bao giờ thất vọng nản chí cả khi Chúa xem ra như bỏ quên, như chối từ, mới là những lời cầu nguyện phát sinh sức mạnh.

Sức mạnh của lời cầu nguyện chính là đức tin. Sau khi đã chối từ lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo với lý do chính đáng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel”, thậm chí Người còn nặng lời với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Thế mà Đức Giêsu, cuối cùng đã để bà chinh phục: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Đứng trước lòng khiêm tốn, kiên trì và phó thác, Thiên Chúa sẽ không nỡ chối từ. Đức Giêsu không những đã ban cho người đàn bà được thỏa lòng mong ước mà còn công khai khen ngợi đức tin mạnh mẽ của bà trước các môn đệ.

Nếu Đức Giêsu đã không tiếc lời khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo, hẳn là Người muốn đưa ra một mẫu gương khi cầu nguyện: khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.

Nếu người đàn bà ngoại giáo cầu xin mà cũng được nhận lời, thì chứng tỏ Chúa không bị giới hạn trong phạm vi Giáo Hội, mà Người muốn ban ơn cho ai là tùy ý Người.

Có thể nói, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, vì thế, nhà toán học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có đức tin, con người phải quỳ gối cầu xin”. Cầu xin là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết, là nhận biết mình yếu đuối, và chỉ cậy trông một mình Người mà thôi.

***

Lạy Chúa, có ai khiêm tốn cầu xin mà Chúa chẳng nhận lời, có ai kiên trì phó thác mà chúa chẳng ban ơn. Xin thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con luôn tin tưởng cả khi Chúa xem ra như thinh lặng, để chúng con cậy trông cả khi cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Vì chúng con tin chắc rằng cuối cùng Chúa vẫn luôn chọn phần tốt nhất cho chúng con. Amen.


 

45. Người nghèo.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rất lạ lùng,và đối với chúng ta, cũng rất quen thuộc. Nó thuật lại một cuộc gặp gỡ một người đi xin xỏ. Thật vậy, người đàn bà Canaan không xin tiền bạc. Nhưng bà đi xin một ân huệ. Có những lúc, chúng ta gặp những người ăn xin, hoặc ở nơi bậc cửa nhà mình hoặc trên đường phố. Người ta tự hỏi Đức Giêsu xử sự ra sao trong những hoàn cảnh như thế.

Đức Giêsu đã cùng các môn đệ lui về miền Tia và Xiđon, đó là miền đất của dân ngoại. Dường như Người lui về đó để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, ngay sau khi đến đó có một người đàn bà đi theo quấy rầy Người, xin Người chữa lành cho con gái của bà.

Phản ứng của chúng ta thế nào, khi chúng ta gặp một người nào đó xin xỏ? Tôi nghĩ rằng ít người trong chúng ta từ chịu bố thí, mà được như thế thì quá tốt. Thông thường chúng ta từ chối giúp người khác. Chúng ta biện minh sở dĩ chúng ta không có khả năng và tốt hơn hết là không cho họ thứ gì bởi vì khi cho, chúng ta nuôi dưỡng tâm lý xin xỏ, dựa giẫm, ỷ lại.

Tuy nhiên, chúng ta có thể rút ra một niềm an ủi từ bài Tin Mừng hôm nay. Phản ứng của các Tông đồ không khác phản ứng của chúng ta. Đối với họ, người đàn bà Canaan là một kẻ quấy rầy, phiền nhiễu. Họ chỉ muốn Đức Giêsu tống khứ bà ấy càng nhanh càng tốt.

Dĩ nhiên, phản ứng của Đức Giêsu làm chúng ta ngạc nhiên. Trước hết, Người không biết bà ấy. Vì thế, Người từ chối bà và cố gắng thoái thác. Tuy nhiên bà là một phụ nữ có rất nhiều quyết tâm và không chịu chấp nhận một câu trả lời không. Sau cùng, Người phải thỏa mãn lời cầu xin của bà.

Từ đó, người ra rút ra điều gì: chúng ta sợ tiếng kêu của người nghèo. Gặp gỡ với một người ăn xin có thể là một kinh nghiệm quấy rầy phiền nhiễu. Nó có thể làm lộ ra những điều đáng ghét trong chúng ta. Nó làm nổi lên trong chúng ta những cảm giác mâu thuẫn về lòng thương xót, bực bội, tức giận và phạm tội. Chúng ta ghét điều mà chúng ta khám phá về mình. Và nếu không thận trọng, chúng ta có thể hướng lòng thù hận về người nghèo bất hạnh đã dám đến gần chúng ta.

Gặp gỡ một người nghèo có thể là một kinh nghiệm làm người ta khiêm nhường bởi lẽ nó làm chúng ta nhận ra sự nghèo nàn của chính chúng ta. Chúng ta nhận thức rằng trong lúc người ăn xin nghèo nàn về mặt vật chất, thì chúng ta nghèo nàn trong một ý nghĩa khác. Chúng ta nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự sẵn sàng giúp nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự xẵng sàng giúp đỡ một người khác, nghèo nàn khả năng yêu thương.

Tuy nhiên, dù gặp gỡ một người nghèo có thể làm phiền chúng ta, nó cũng có thể sinh ra ích lợi. Qua người nghèo, chúng ta khám phá sự yếu đuối và thương tật của chúng ta mà xét cho cùng, chúng ta là như thế. Điều đó có nghĩa là chúng ta không nên đeo mặt nạ và gán cho mình điều mình không có. Có như thế, chúng ta mới đạt đến sự giải phóng nội tâm sâu xa. Nó đặt chúng ta vào sự tiếp xúc với sự thật về chính mình.

Gặp gỡ ấy cũng có thể làm thức tỉnh và bộc lộ tâm hồn. Nó có thể đánh thức trong chúng ta cảm giác dịu dàng và thương xót, nhân từ và hiệp thông. Nó cho chúng ta thấy có thể hiện hữu nhiều hơn, yêu thương nhiều hơn, và dâng hiến chính mình nhiều hơn. Nó có thể thay đổi chúng ta. Nó phát huy chúng ta và kêu gọi chúng ta đến với nhân loại. Vì thế nó có thể dẫn đến một sự bắt đầu mới.

Và nó nhắc nhở chúng ta rằng trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều nghèo. Vị linh mục cầu nguyện trong thánh lể với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện trong thánh lễ với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện như thế là biết rằng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đều nghèo và chúng ta đặt như cầu hàng ngày của chúng ta vào lòng thương xót và tình yêu của Người. Vì thế chúng ta như người ăn mày đưa cái bát trống rỗng cho những khác qua đường. Thực tế chúng ta đã nói: “Lạy Chúa, trước mặt Ngài, con nghèo nàn như một người hành khất”.

 

home Mục lục Lưu trữ