Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 22

Tổng truy cập: 1373471

LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA

LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

I)Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Nếu chúng ta tìm hiểu kỹ về Thiên Chúa, chúng ta sẽ gặp nhiều bất ngờ. Thiên Chúa mà ta tưởng rằng đã hiểu rất rõ lại không như ta tưởng; suy nghĩ của Ngài nhiều khi không giống suy nghĩ của chúng ta; cách đối xử của Ngài cũng lắm bất ngờ.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu Ngài hơn, và nhất là biết suy nghĩ và cư xử như Ngài.

II)Gợi ý sám hối

Chúng ta ít lo tìm hiểu Chúa nên đã không sống như Ngài.

Cách chúng ta đối xử với người khác dựa trên quyền lợi bản thân hơn là dựa trên lòng tốt.

Nhiều khi thấy một người khác được điều gì tốt, thay vì vui mừng, chúng ta lại khó chịu.

III) Lời Chúa

*1. Bài đọc I (Is 55,6-9):

Kẻ có tội thường sợ Thiên Chúa trừng phạt nên trốn lánh Ngài. Mà càng trốn lánh Thiên Chúa thì càng lún sâu trong tội.

Qua lời ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa khuyến khích họ cứ an tâm trở về. “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi”: Ngài không nghĩ đến trừng phạt mà chỉ nghĩ đến cứu vớt, Người không bắt tội mà chỉ thứ tha.

*2. Ðáp ca (Tv 144):

Tv này ca tụng sự vĩ đại của Thiên Chúa, sự vĩ đại này chính là tấm lòng của Ngài: nhân hậu, từ bi, kiên nhẫn, xót thương và tốt lành với tất cả mọi người.

*3.Tin Mừng (Mt 20,1-16a):

Dụ ngôn này phản ảnh hai cách suy nghĩ:

Cách suy nghĩ của đám thợ làm vườn nho là suy nghĩ theo công bằng: kẻ làm ít giờ lẽ ra phải được lãnh ít hơn người làm nhiều giờ. Ðây cũng là suy nghĩ của loài người chúng ta.

Cách suy nghĩ của ông chủ vườn nho: vẫn trả đủ lương cho những người làm nhiều giờ, nhưng vì lòng tốt nên cũng trả cho người thợ làm giờ cuối cùng đủ một đồng. Ðây là cách suy nghĩ của Thiên Chúa.

*4. Bài đọc II (Pl 1,20c.24-27) (Chủ đề phụ):

* Trong các Chúa nhựt XXV-XXVIII, bài đọc II được trích từ thư Phaolô gởi tín hữu Philipphê.

Ðây là bức thư Phaolô viết trong khi bị cầm tù. Trong thời gian Phaolô ở từ, tín hữu Philipphê đã thường xuyên thăm viếng, trợ giúp và còn phái người tới chăm sóc cho Phaolô.

Trong đoạn thư này, Phaolô nghĩ đến hai tình huống:

Một là ông sẽ được tha tự do: khi đó ông sẽ tiếp tục rao giảng Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô, và Ngài sẽ được vẻ vang.

Hai là ông bị xử tử: cái chết của ông vì Tin Mừng cũng sẽ làm vẻ vang Ðức Kitô.

Vì thế Phaolô kết luận: “Dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô cũng sẽ được vẻ vang nơi tôi”

IV) Gợi ý giảng

*1. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài người

Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai?

Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.

Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Ðối với từng đứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất…

Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm một người buôn bán vô tình.

*2. Công bình và thương xót

Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.

Thực ra chẳng có gì là không công bình cả: Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức công bình: ông đối xử theo lòng thương xót.

Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình à đối xử với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.

Vả lại, đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bằng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.

Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Ðó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả. Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Ðến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó McCarthy rất hối hận vì đã vội kết án những con người tội nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau:

“Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi

và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”

“Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu

thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”

Lạy Chúa

Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi

Bởi vì trí óc chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội.

Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng con

để chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn.

Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác

Xin giúp chúng con ý đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công

Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.

*3. Giờ thứ 11

Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất ngờ: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.

Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh họa: Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Ðức Giêsu: tôi đã giữ các giới răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Lần kia Phêrô áy náy trình với Chúa: Thưa Thầy, này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy thì sao? Bồn chồn hơn nữa, hai người con Ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu trong Nước của Ngài. Nhưng, đối với những “kẻ trước hết” ấy, Ðức Giêsu đã không dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Ðúng vậy, hai “kẻ sau hết” này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.

Nói “trước hết” và “sau hết” là tính theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.

*4. Hãy có một não trạng mới

Ðiểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng:

a/ Não trạng của những thợ làm nhiều giờ là óc tính toán: làm gì cũng là để tính công, công càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.

Ðây là não trạng của đa số tín hữu chúng ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc kinh dự lễ bao nhiều lần, làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.

Với não trạng ấy, chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán sòng phẳng cho chúng ta.

Nhưng trong não trạng ấy, ta là ai, Thiên Chúa là ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì? Ta chỉ là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng làm ăn.

Sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình vô nghĩa.

b/ Thực ra, Thiên Chúa đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công.

Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).

Não trạng thoải mái và hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.

Cần phải thay đổi não trạng: sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.

*5. Chuyện minh họa

Ðây là diễn tiến một cuộc chạy đua 3000 mét.

Lúc bắt đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh và tới đích.

Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.

Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạng ba bục bên trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào cổ họ.

Nhưng ông chủ tịch ngỏ ý muốn gặp 3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông. Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.

Nhà vô địch bực bội phản đối:

– Như thế là không công bình!

– Tại sao? Ông chủ tịch hỏi lại.

– Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng.

– Thì anh đã được thưởng rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh. Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn đường 3000 mét như anh. Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được tất cả còn họ thì chẳng được gì?

  1. V) Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.

1-Chúa Giêsu đã giao cho hàng Linh mục sứ mạng rao giảng Tin Mừng / và cử hành các bí tích mà phục vụ dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các ngài luôn trung thành / khôn ngoan và nhân hậu.

2-Trên thế giới ngày nay / hình như lòng khoan dung không còn ngự trị trong các sinh hoạt trần thế / do đó con người vẫn còn điên cuồng tàn sát lẫn nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng khoan dung ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt trong đời sống con người.

3-Hiện tại có biết bao người đang âm thầm hy sinh cả cuộc đời trên cánh đồng truyền giáo / để giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn / và nâng đỡ những anh chị em ấy / giữa muôn vàn thử thách trong đời sống chứng nhân của mình.

4-Tính ganh tị làm cho con người trở nên mù quáng / hẹp hòi / ích kỷ / thậm chí vu khống để bôi nhoi danh dự / để hạ người khác xuống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết can đảm sửa chữa tận gốc tật xấu kinh niên này.

CT: Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết sống như Chúa: luôn cư xử quảng đại và khoan dung với hết thảy mọi người, nhờ đó chúng con sẽ nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời. Chúa hằng sống và hiển trị…

VI)Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đây, kẻ thì biết Chúa vào giờ thứ nhất, người thì chỉ mới biết Ngài vào giờ thứ 11. Nhưng Chúa đã thương tất cả chúng ta, cho tất cả chúng ta làm con trong nhà Ngài. Vậy tất cả chúng ta hãy trìu mến dâng lên Ngài lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy.

VII) Giải tán

Thiên Chúa đối xử với mọi người bằng lòng tốt. Xin Chúa giúp anh chị em ra về cũng đối xử bằng lòng tốt với mọi người.

 

CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN-A

DỤ NGÔN NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO- Chú giải Giáo hoàng Học viện Đà Lạt

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ”: Bây giờ ta đã quen với loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống như gia chủ, nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò chính.

“Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền”: Quan tiền tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình thường của một ngày làm việc thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương đã thỏa thuận với nhau.

“Giờ thứ ba, ông ra.. “: Dù theo qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ.

“Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh”: Qua câu nói đó, các người thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một phần quan tiền.

“Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết”: Đây là một việc dị thường đối với tập tục đương thời, nhưng trình thuật cố ý kết cấu như vậy để làm cho ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ chứng kiến lòng tốt lạ lùng của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.

“Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy”: Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong hai chuyện: vất vả suốt 12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và hơn nữa đã phải hái nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến sau lại được hưởng khí trời mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc khó khăn cho họ quyền được trả lương cao hơn.

“Này bạn”: Toán thợ giờ thứ nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả lời của mình như thế (x. Lc 15, 31). Người ta vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với kẻ không biết tên; ở đây nó vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi…”. Trong 3 đoạn Tân ước có lối gọi này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì đó.

“Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay mắt bạn lườm nguýtvì tôi tốt lành”: Câu này là kết luận thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc cho nó tất cả tầm quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để hiểu dụ ngôn. Chữ “ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác cảm”, “mắt dữ tợn”, một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và Huấn ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người. Nếu đặt thành ngữ “mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa các hạn từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: “Hay mắt bạn dữ lợn vì tôi tốt lành?”. Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của một tính khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa tốt lành nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho người này, ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.

“Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết”. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần tất yếu hay hơn nữa, như mộ phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên buộc lòng phải ép lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó. Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64 của ngài: “Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thướng như nhau” (PG 58,614). Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.

Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với dụ ngôn mà nó được coi như là lại giải thích. Ta thất ngay rằng câu tục ngữ không thể nào phát xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau được. Theo châm ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ đầu hết phải trở nên rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn hiện thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa nào đó, ta có thể chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là những kẻ đầu tiên được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có tính cách bề ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thướng, đều ngang hàng như nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng lợi lộc hơn khi được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay sau cũng chả ăn thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy. Tục ngữ nói đến sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng đều.

Chính bản văn giúp ta xác quyết lối giải thích vừa nêu. Các người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi đến độ căm tức, đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về chuyện bị đẩy lui vào hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thay họ phàn nàn, chống đối gì điểm này. Xin nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ cần được trả lương đầy đủ, còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn nàn ở chỗ là: dù đã lao công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương như những kẻ đến làm việc sau cùng.

Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu trả lời duy nhất thích hợp: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn, bạn đã chẳng thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải tôi sao?”. Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi câu nói ấy của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà chỉ là sự bình đẳng trong đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn…Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế… Há tôi lại không được phép…. sao?”

Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự (loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu kết luận bề ngoài. Như trong nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã được thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng hay do truyền khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch khác. Dù sao, các câu kết luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn (chứ không ngược lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một loại văn thể như thể. Vì đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có lẽ câu kết luận đó cũng được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho dụ ngôn và để thay thế cho câu nhập đề lịch sử.

KẾT LUẬN

Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình diện ân sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo sĩ thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền lãnh nhận, xác định phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn bị dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần thưởng tương ứng với công nghiệp của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng tốt của Thiên Chúa và không nại tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy vọng của ta sao?

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Ta không thể dựa vào trình thuật này để kết luận rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ. Như thế sẽ đi ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì lòng tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của ta với Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo lường được cũng như giản lược được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là ân sủng.

2) Đó là một sự thật trước tiên có tính cách hạ con người xuống vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là kẻ có thể thực sự nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm hữu nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được. Vì theo sự thật đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái tự do của Thiên Chúa, bởi những ý định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó cũng là một sự thật đầy an ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi một gách vô cùng nặng nề. Vì nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn, dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở ta, ta vẫn có thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà bản thân họ không thể tự sức mình làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.

3) Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ đời này, ta nhận thấy những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có được quyền phê phán giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh hơn, giàu có hơn ta v.v… Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài thích tỏ ra nhân hậu ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.

4) Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương, tha thứ con người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo lộn mọi tính toán đê tiện của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung sướng vì Ngài chẳng để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình yêu bao la của Ngài.

5) Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được ưu đãi thực sự trong dụ ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên, họ đã “vác nặng cả một ngày thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã làm họ khỏi nỗi sợ thất nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò các người khác, những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín hữu đã anh dũng trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so với những kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh nghiêm được sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì biết mình ở trong tay Thiên Chúa.

CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- A

LÝ LẼ CỦA TRÁI TIM– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:

1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.

2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.

3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.

Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?

2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?

3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?

home Mục lục Lưu trữ