Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1371375

LUẬT VĨNH HẰNG

Luật vĩnh hằng

(Suy niệm của Thom. Aq. Trầm Thiên Thu)

 

Văn hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp) phân biệt: “Đối với nhân dân, quyền lực duy nhất là pháp luật; đối với cá nhân, quyền lực duy nhất là lương tâm”. Còn văn thi sĩ Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, Đức) nói: “Có hai sức mạnh mang đến sự yên ổn: pháp luật và đạo đức”. Những ý tưởng thật hay! Kinh Thánh xác định: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Và chắc chắn chỉ có luật Chúa là tuyệt đối, được đề cập trong Tv 119 (rất dài, với 176 câu). Thật vậy, “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8).

Trong xã hội loài người, bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế giới gọi là hòa bình. Vì con người làm hư trật tự Thiên Chúa đã thiết lập nên cần phải có luật để tái lập trật tự.

Bởi vì luật có sau con người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn, gọi là “luật vị nhân sinh” – luật vì con người, chứ con người không câu nệ hoặc quá lệ thuộc vào luật. Tuy nhiên, lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa. Luật của Thiên Chúa là luật vĩnh hằng và bất biến. Còn luật của con người có thể thay đổi cho phù hợp, ngay cả luật của Giáo hội cũng thay đổi – trước đây là SÁU Điều Răn, nhưng nay là NĂM Điều Răn.

Xin “mở ngoặc” nho nhỏ: Vào các ngày Chúa nhật (và Lễ Trọng), nhiều nơi vẫn đọc “Hội thánh có SÁU điều răn…” thay vì Năm Điều Răn (*). Như vậy là không kịp cập nhật thông tin cần thiết về giáo huấn của Giáo hội. Trách nhiệm của ai đây? Có những nơi đã sử dụng kinh Năm Điều Răn Hội Thánh, nhưng kinh Nghĩa Đức Tin (Ngày Chúa Nhật hôm nay chúng con họp nhau kính lạy thờ phượng Chúa…) vẫn thấy đọc “…song phải giữ Mười Điều Răn Đức Chúa Trời cùng SÁU Luật Điều Hội Thánh…” chứ không sửa là “năm”. Chuyện nhỏ mà… không nhỏ. Lệch pha!

BIẾT LUẬT

Cựu Ước có đề cập Thập Giới (Xh 20:3-17; Đnl 5:7-21). Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng con người, đồng thời trao quyền tự do cho con người, bởi vì chính Ngài đã “đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20:3-4).

Các Phúc Âm nhất lãm lặp lại Giới Răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi sự”.

Tiếp theo, Thiên Chúa nghiêm cấm: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng “bắt chước” mà ra luật “tru di tam tộc” chăng?

Có lẽ chúng ta cảm thấy cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt”, nhưng thật ra không phải như vậy. Ngài là Đấng giàu lòng thương xót thì chắc chắn không độc đoán, và vì yêu thương mà Ngài hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ôi, Ngài quả là rất tâm lý và công bằng, Ngài “bắt buộc” về lĩnh vực này thì Ngài lại “thưởng công” về lĩnh vực khác. Đó là công lý. Chính Thánh Vịnh gia đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín, nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích rất rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng” (Xh 20:7). Và đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.

Đối với các Giới răn từ thứ ba tới thứ mười, trình thuật Xh 20:9-17 “liệt kê” chi tiết: “Ngươi HÃY nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi KHÔNG được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi HÃY thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi KHÔNG được giết người. Ngươi KHÔNG được ngoại tình. Ngươi KHÔNG được trộm cắp. Ngươi KHÔNG được làm chứng gian hại người. Ngươi KHÔNG được ham muốn nhà người ta, ngươi KHÔNG được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”. Trong tám Giới răn đó có hai cái HÃY và bảy cái KHÔNG. Rất rõ ràng, rất rạch ròi.

Là Kitô hữu, ai cũng biết luật của Thiên Chúa và luật của Giáo hội. Biết thì phải giữ. Không biết thì không có tội, biết mà không giữ thì có tội (x. Ga 9:40-41).

GIỮ LUẬT

Giữ luật không chỉ là duy trì và bảo vệ luật mà còn phải thi hành – nghiêm túc chứ không lơ là, gặp chăng hay chớ. Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Ngược lại, càng hiểu biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Hiểu biết sâu sắc về Luật Chúa, Thánh Vịnh gia đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn”. Chính các “huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9).

Thánh Vịnh gia cũng chân nhận rằng “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sự “quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người ta bị gò bó, chịu lệ thuộc hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân, là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái với Ý Chúa. Và người ta thường nói: “Quan nhất thời, dân vạn đại”.

Trong cuộc sống đời thường, chúng ta thấy luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói rằng chín người mà có tới mười ý, và đôi khi có những tình huống rất khó xử. Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh  Phaolô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Thậm chí người ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24). Thật tuyệt vời!

Quả thật, Chúa Giêsu là “dị nhân” đúng nghĩa, bởi vì Ngài có những động thái “ngược đời”, hoàn toàn khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng “mới lạ” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, hiểu rộng”, nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí là bị hại. Thật phũ phàng! Thực tế cho thấy đã có những người chỉ được chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ chết từ lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ. Thật đáng buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại, và rồi có thể “bỏ của chạy lấy người”. Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”, không muốn người khác hơn mình, hoặc cố chấp, không muốn thay đổi nếp nghĩ dù vẫn biết mình cổ hủ, lỗi thời. Ngày nay người ta gọi loại người đó là “đầu đất” hoặc “đầu tôm”. Tồi tệ thật!

Đối với “nhà thông thái” Saolê, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia, và hóa thành Phaolô, và ông đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Thật vậy, có lần Thiên Chúa đã xác định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9). Khoảng cách biệt quá lớn, và chẳng bao giờ phàm nhân có thể hiểu hết Thánh Ý của Ngài. Nhưng Ngài rất công minh chính trực, công bằng tuyệt đối, chắc chắn sẽ “bù lỗ” cho những người chịu thua thiệt ở đời này.

HƯỞNG LUẬT

Trình thuật theo Thánh sử Gioan cho biết rằng…

Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.

Bản tính thẳng thắn và nghiêm túc, Chúa Giêsu nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức nên chất vấn Ngài: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga 2:18). Nhưng Ngài vẫn thản nhiên: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19).

Ui da! Ngôi Đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại chỉ nội trong 3 ngày. Ai cũng lắc đầu và nói: “Bó tay luôn!”. Bó toàn thân luôn chứ bó tay là chuyện nhỏ. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn, “nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, đúng ra là họ phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ mình nói như vậy. Và chúng ta cũng chẳng hơn gì!

Tất cả còn trong “bức màn bí ẩn”. Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.

Chắc chắn chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do Thái. Thật vậy, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và muốn “đặt vấn đề” hoặc lung lay niềm tin. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” Chúa và các vị thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm”. Quả thật, đó là điều chúng ta phải suy tư nhiều, bởi vì ngày xưa chính Thiên Chúa cũng đã từng đặt vấn đề: “Cho đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Tôi?” (Xh 16:28). Coi bộ “căng” dữ nghen!

Lạy Thiên Chúa duy nhất mà con tôn thờ, con chẳng khác những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày nay, vì khó tìm được người thực sự đáng tin cậy, trong khi xung quanh con có nhiều loại thần ô uế, thần tài, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần quyền lực,… nhất là thần hóa “cái tôi”. Đôi khi con còn mắc những chứng bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên con vẫn làm ngơ những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Con chân thành xin lỗi Chúa, cầu xin Ngài thương giúp con nhận diện chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh lòng thương xót họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời cũng xin giúp con can đảm chấp nhận mọi thứ dù trong hoàn cảnh nào. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

———————–

(*) Hội Thánh có năm điều răn:

– Thứ nhất: Dự lễ và kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc;

– Thứ hai: Xưng tội trong một năm ít là một lần;

– Thứ ba: Rước Mình Thánh Chúa trong mùa Phục Sinh;

– Thứ bốn: Giữ chay và kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc;

– Thứ năm: Góp công góp của xây dựng Hội Thánh, tùy theo khả năng của mình.

 

 

 

 

 

57. Thánh luật

(Suy niệm của Thom. Aq. Trầm Thiên Thu)

 

Bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế gới gọi là hòa bình.

Luật vị nhân sinh – luật vì con người, chứ con người không lệ thuộc luật, bởi vì luật có sau con người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn. Còn lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa.

THẬP GIỚI

Thiên Chúa đã tạo dựng con người, cho con người tự do, vì chính Ngài “đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20:3-4).

Phúc âm nhất lãm lặp lại Giới răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi sự”.

Rồi Thiên Chúa nói tiếp: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng có luật “tru di tam tộc” chăng?

Nghe cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt” nhưng thực ra không phải vậy. Ngài không độc đoán, vì Ngài luôn yêu thương và hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ngài rất tâm lý và công bằng, Ngài “bắt buộc” cái này thì Ngài lại “thưởng công” cái khác. Công lý là thế. Chính tác giả Thánh vịnh đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín, nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng” (Xh 20:7). Đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.

Sách Xuất hành, chương 20, câu 9-17 “liệt kê” các Giới răn từ thứ ba tới thứ mười: “Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian hại người. Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”.

VUI, BUỒN VÌ LUẬT

Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Càng hiểu biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Tác giả Thánh vịnh đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn”. Chính các “huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9). Tác giả Thánh vịnh chân nhận “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sư “quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người ta bị gò bó, lệ thuộc, hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân, là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái với Ý Chúa. “Quan nhất thời, dân vạn đại”, người ta thường nói vậy.

Cuộc sống luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói: “Chín người mười ý”, và đôi khi có những tình huống rất khó xử. Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh  PhaoLô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Người ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24).

Thiên Chúa là “dị nhân” đúng nghĩa, với những động thái “ngược đời”, hoàn toàn khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng “mới” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, nhìn rộng”, nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí là bị hại. Thức tế cho thấy đã có những người chỉ được chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ đã chết lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ. Thật là buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại rồi có thể “bỏ của chạy lấy người”. Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”, hoặc không muốn người khác hơn mình!

Riêng thánh Phaolô, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia, và đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Cũng có lần Thiên Chúa đã nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9).

THỰC HÀNH LUẬT

Thánh sử Gioan kể: Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.

Ngài nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga 2:18). Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại chỉ nội trong 3 ngày. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn, “nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, hẳn là phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ mình nói như vậy!

Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.

Chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do Thái, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và nghĩ: “Kỳ vậy ta?”. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” chính Chúa và các vị thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm”! Thật đáng để chúng ta phải trầm tư suy nghĩ nhiều với câu hỏi của Chúa: “Cho đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Tôi?” (Xh 16:28).

Lạy Chúa, chúng con chợt thấy mình như những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày nay, vì khó tìm được người đáng tin cậy, trong khi xung quanh chúng con có nhiều thần ô uế, thần bạc tiền, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần quyền lực,… Đôi khi chúng con còn mắc những bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên chúng con vẫn bỏ mặc những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Chúng con xin lỗi Chúa. Xin Ngài thương giúp chúng con nhận ra chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh lòng thương họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời giúp chúng con dám chấp nhận mọi thứ dù phải thiệt thân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

58. Nhà Ta là nhà cầu nguyện

(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)

 

Theo luật Môsê thì việc thờ phượng gồm có mục dâng con vật sống để làm lễ vật hi sinh. Luật Môsê buộc cha mẹ phải dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa trong đền thờ. Đó là lý do tại sao sau khi Chúa cứu thế giáng sinh thì được cha nuôi và mẹ Người dâng vào đền thờ. Khi dâng Chúa trong đền thờ, ông Giuse và bà Maria vì nghèo nên chỉ mang được đôi chim câu làm lễ vật.

Vào dịp lễ Vượt qua của người Do Thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật, Người lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi Đền Thờ. Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Chúa Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh đền thờ? Thưa rằng việc dâng hiến lễ vât của họ đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì coi việc dâng lễ vật như là bổn phận phải làm một cách bất đắc dĩ mà thiếu tâm tình bên trong.

Vì thế trong Phúc âm hôm nay Chúa lên tiếng cảnh giác họ: Đừng biến nhà cha ta thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc trần tục hoá và thương mại hoá Đền Thờ. Phúc âm thánh Matthêu (21:14), Maccô (11:17), và Luca (19:36) còn trích Sách tiên tri Isaia để cảnh giác họ: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp (Is 56:7). Người Do thái thường tỏ ra tôn kính đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật của họ. Họ thường cảm tạ Thiên Chúa cho họ có được đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật. Nếu bạn có dịp sang Giêrusalem mà đến đền thờ đã bị phá huỷ, chỉ còn lại một phần tường đền thờ, mà người ta gọi là tường ô nhục, bạn sẽ thấy người Do thái gục đầu vào tường mà than khóc, vì đền thờ của họ đã bị phá huỷ mà chưa xây được đền thờ mới. Còn thực tế và cụ thể hơn, người Hồi giáo khi vào đền thờ của họ, phải để giày bên ngoài. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giày, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giày nào là của mình trong hai ngàn chiếc giày thì sẽ lộn xộn và khó khăn thế nào? Tuy nhiên để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.

Sống ở đô thị hay ở ngoại quốc, ta có dịp va chạm với nhiều người thuộc các tôn giáo khác nhau, và được mời đến nơi thờ phượng của họ, có thể giúp ta làm tăng triển, hoặc làm giảm căn tính tôn giáo của mình khi vào nhà thờ. Nếu vào nhà thờ có Mình Thánh Chúa ngự, mà ta tỏ ra những cử chỉ như đi đứng nghêng ngang, xỏ tay túi quần giống như vào xem viện bảo tàng hay nhà triển lãm thì ta cần xét lại cái căn tính tôn giáo của mình.

Kinh Thánh hôm nay nhắc nhở cho ta: Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi (Tv 69:10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ gìn sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết trong nhà thờ, nơi thờ phượng thì không chạy nhảy, la hét, không xả rác rưởi, không chơi đồ chơi phát ra tiếng động… Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn, và bảo trì nhà Chúa.

 

 

 

 

 

59. Nhà Ta là nhà cầu nguyện

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

 

Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Ðức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền bạc và mua bán súc vật trong quảng trường của Ðền thờ, Người liền lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò ra khỏi Ðền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 3:15). Luật Do thái cấm chỉ việc mua bán trong khu vực Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung thứ cho dịch vụ này. Việc dung thứ có thể hiểu được vì những người từ xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ được hiểu là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết vì việc mua bán vẫn có thể được thực hiện bên ngoài các cổng ngoại tường Ðền thờ. Vậy nếu việc mua bán súc vật và đổi tiền được coi là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ? Thưa rằng dịch vụ hối đoái để trả thuế Ðền thờ và mua bán súc vật để hiến dâng đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì phải mua một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến. Rồi súc vật hiến dâng phải chịu sự khám xét của nhân viên đền thờ để được chứng nhận con vật không có vết tì ố. Thực tế thì viên chức Đền thờ muốn có độc quyền cho người đấu thầu bán súc vật trong khu vực đền thờ cho nên người dân nghĩ rằng họ phải mua súc vật được đấu thầu bên trong thì mới được bảo đảm là con vật có đủ tiêu chuẩn cho việc hiến dâng. Rồi họ còn phải trả tiền khám xét súc vật nữa. Do đó người nghèo cũng phải mua súc vật của họ với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường.

Thứ đến việc đổi tiền để nộp thuế cho Ðền thờ cũng có gì không chỉnh. Theo luật Do thái, mỗi người nam công dân Do thái phải đóng thuế đền thờ, tương đương với hai ngày công. Ðức Giêsu cũng đóng thuế đền thờ (Mt 17:27). Thuế đóng cho Ðền thờ mỗi năm một lần bằng tiền Do thái vì tiền Rôma có hình vua ngoại đạo là Xêdarê, nên không được lưu hành trong Ðền thờ. Ðổi từ tiền Rôma hay những loại tiền ngoại quốc khác sang tiền Do thái phải trả tiền huê hồng đáng kể cho quầy đổi tiền.

Ðền thờ Giêrusalem đồ sộ, nguy nga và lộng lẫy vừa được xây cất lần thứ ba là qùa tặng của vua Hêrôđê, có lẽ nhắm mục đích chính trị hầu làm vừa lòng dân chúng hơn là sùng đạo. Như vậy không có vấn đề dân chúng phải trả nợ. Do đó dịch vụ buôn bán súc vật và đổi tiền chỉ còn đem tiền lời chồng chất lên ngân khố Đền thờ. Còn nhóm người đổi tiền và buôn bán súc vật cũng đã phải trở nên giầu có. Rồi hàng đại tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng phải có món tiền bỏ túi riêng. Vì thế mà Ðức Giêsu lên tiếng cảnh giác họ: Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ. Phúc âm thánh Mát-thêu, Mác-cô, và Luca còn ghi lại lời Ðức Giêsu trích dẫn sách ngôn sứ Isaia ghi: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện (Is 56:7), rồi dùng lời ngôn sứ Giêrêmia (Gr 7:11) để khiển trách họ vì họ đã biến nơi thờ phượng thành sào huyệt của bọn cướp (Mt 21:14; Mk 11:17; Lk 19:46). Khi người Do thái hỏi xem Ðức Giêsu lấy dấu chỉ nào mà tỏ uy quyền làm như vậy, thì Chúa dùng cơ hội này tiên báo về việc phục sinh của Người: Các ông cứ phá huỷ Ðền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2:19). Ở đây Chúa muốn nói đến đền thờ là thân thể phục sinh của Người sau khi đã nằm trong mộ ba ngày, mà họ không hiểu. Ngay cả các môn đệ cũng chưa hiểu nổi. Khi có mấy môn đệ trầm trồ khen ngợi Ðền thờ, thưa với Chúa: Thầy xem kìa: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đai thay (Mk 13:1) thì Chúa trả lời: Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ (Mc 13:2). Năm bảy mươi sau công nguyên, tướng Titô của đế quốc La mã cho đem quân đội đến phá huỷ Ðền thờ, chỉ để chừa lại một phần của bức tường Đền thờ đế chứng minh cho hậu thế biết rằng quân đội La mã hùng mạnh đến thế nào. Trong một nhóm linh mục hành hương sang Thánh địa khi thăm một phần bức tường than khóc Đền thờ còn tồn tại, ghé vào tai linh mục bạn nói: Chu choa! Sao người ta có thể phá huỷ bức tường này vậy (khi chưa có chất nổ, xe tăng và xe ủi).

Phúc âm hôm nay nhắc đến việc các môn đệ nhớ lại lời Thánh kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa làm hao mòn thân tôi (Tv 69:10). Luật Chúa ban cho Mosê dậy dân Người phải giữ ngày Sabát (Xh 20:8-10) là ngày thứ Bảy, ngày thánh, ngày lễ nghỉ. Khi Ðức Giêsu sống lại vào ngày thứ Nhất trong tuần, Giáo hội mới chuyển sang ngày Chúa nhật để thờ phượng và nghỉ ngơi. Do lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà Giáo hội hoàn vũ cũng như giáo phận địa phương còn đưa ra những luật lệ nơi thánh đường và trong khuôn viên nhà thờ trong giờ thờ phượng công cộng để bảo đảm cho giáo dân khỏi bị chia trí trong khi thờ phượng. Vậy thì lòng nhiệt thành với việc nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, khi đến nhà thờ làm việc thờ phượng và cầu nguyện.

Do đó Giáo hội đòi hỏi khi đến nhà thờ ngày Chúa nhật để thờ phương cách công cộng, người công giáo nên ăn bận thế nào, tỏ ra những cử chỉ ra sao để giúp khơi dậy tâm tình đạo đức thích hợp. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng và nhắc cho con cháu tránh những cử chỉ và hành động gây chia trí cho người khác. Có linh mục kia nhận được lá thư của một người đàn ông có kí tên, mà ngài không quen biết, được trích nguyên văn như sau: Thưa Cha, tôi đi nhà thờ hằng ngày, hầu hết bảy ngày trong tuần và lần nào ở hàng ghế đầu, đều thấy mấy bà rất trẻ, rất khoẻ mạnh, mang hài cao, mặc váy ngắn, tóc tai ngắn ngủi, đi lễ rất trễ, cứ chạy xoong xoong lên hàng ghế đầu để gần các cha. Có những bà ăn mặc không được kín đáo, mà ngồi gần như vậy, thì không tốt mấy. Tôi xin Cha đề nghị với Cha sở xem có cách nào giảỉ quyết? Ông cha nhận được thư thì thắc mắc sao ông này có mắt quan sát hay thiệt.

Giáo hội còn đưa ra những nguyên tắc về phụng vụ, về thánh nhạc, về kiến trúc thánh và nghệ thuật thánh và mở những lớp huấn luyện nhằm cải tiến những bộ môn trên. Không cần phải đào sâu, mà chỉ cần hiểu biết sơ qua cũng thấy thánh nhạc, dụng cụ nhạc khí dùng trong nhà thờ và các cơ sở thánh thì mầu sắc, âm thanh, ánh sáng, vật liệu và phẩm chất của vật liệu xử dụng phải khác biệt. Vậy thì những mầu sắc hay bóng đèn mầu loè loẹt nhấp nháy có thích hợp trong nhà thờ không? Người am hiểu nghệ thuật, kiến trúc và hội họa thánh khi đến thánh đường mà thấy không phải là nghệ thuật, kiến trúc và hội hoạ thánh, khiến họ có thể chia trí, khó chịu và còn ẫm ức nữa. Những xứ đạo nghèo ở miền quê, thì chưa có đủ điều kiện, khả năng và phương tiện để đạt tới mức độ khả quan đó thì người ta cũng thông cảm. Còn những xứ đạo lớn ở thành thị: có nhân lực, vật lực và nhân tài có thể gửi người đi học để được huấn luyện về kiến trúc và hội hoạ thánh, về những nguyên tắc phụng vụ và thánh nhạc và nhạc khí để rồi cho áp dụng.

Việc kiến thiết và tu bổ nơi thờ phượng công cộng nhất là trên cung thánh tại những xứ đạo có những điều kiện và phương tiện trên, phải nhờ đến kiến trúc sư có khả năng và được huấn luyện về kiến trúc và nghệ thuật thánh chứ không phải là việc làm vá víu có tính chất mộc mạc của thợ cây nhà lá vườn. Nếu công trình kiến trúc lớn và phức tạp, kiến trúc sư còn phải nhờ đến giới chuyên môn khác như kĩ sư điện, kĩ sư máy móc, kĩ sư âm thanh, kĩ sư ánh sáng, kĩ sư đo độ co dãn của vật liệu tuỳ theo thời tiết… Bức họa hình thánh để tôn kính cũng phải được nghiên cứu và theo dõi việc thực hiện của hoạ sĩ chứ không phải như cho vẽ tấm phông cho buổi trình diễn văn nghệ. Khuôn viên nhà thờ cũng phải được kiến thiết sao cho có vẻ thẩm mỹ làm đẹp mắt nữa.

Một linh mục kia có lần đến xin đồng cử hành cuộc Khổ nạn của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh tại một xứ đạo kia. Linh mục khách được trao cho cây thập giá có tượng chịu nạn để cho giáo dân hôn kính. Chiều đứng cây thập giá dài độ sáu mươi phân. Hình như cả cây thập giá và tượng chịu nạn làm bằng kẽm. Linh mục đó quan sát cây thập giá thấy chia trí vì không khơi dậy được tâm tình đạo đức. Chân tượng chịu nạn quá dài sánh vói thân hình tượng. Hai đầu gối giang ra quá xa và nhô lên quá cao khỏi thân cây thập giá cho thấy việc thiết kế tượng chịu nạn thiếu cân đối và thiếu nét thuần phong mĩ tục. Linh mục đó nói cầm thập giá bằng tay trái thấy khá nặng, rồi còn phải đưa chân tượng vào gần miệng cho giáo dân hôn kính và tay kia cầm khăn lau chân tượng sau mỗi lần có người hôn kính. Linh mục đó lại nói thấy hơi mỏi tay và còn phải cẩn thận kẻo nhỡ đầu gối của tượng chịu nạn đụng vào trán hay xương gò má của người hôn kính thì cũng có thể làm họ đau. Câu chuyện này có ý nhắc nhở việc cung cấp tượng chịu nạn cần cân nhắc xem chọn tượng nào, cho treo ở đâu và có nên dùng để cho giáo dân hôn kính, hầu khỏi làm họ chia trí không?

Nghệ thuật và kiến trúc thánh gồm biểu hiệu bàn đến ở đây là kiến trúc và nghệ thuật Kitô giáo. Do đó muốn hội nhập văn hoá mà đem nét văn hoá bản xứ vào mà không chọn lọc, đào thải và thích ứng, có thể trở thành lạc lõng, méo mó. Và khi đem một nét văn hoá hay phong tục không phải là Kitô giáo vào đạo Kitô, thì giống như việc cắt râu ông nọ cắm cằm bà kia vậy, nếu không cho rửa tội cho sản phẩm văn hoá và phong tục đó.

Tóm lại về phương diện tiêu cực tại nơi thờ phượng công cộng, phải giữ những kỉ luật nào đó để khỏi gây chia trí và than phiền nơi người đến thờ phượng. Còn về phương diện tích cực, thì tuỳ khả năng và phương tiện của mỗi địa phương, cần đạt tới mức độ tương xứng trong nghệ thuật thánh, kiến trúc thánh và việc cử hành phụng vụ để giúp người đến thờ phượng có tầm hiểu biết khá về các bộ môn trên đánh giá được vẻ đẹp được diễn tả qua các bộ môn liên hệ và giúp người chưa hiểu biết, để với thời gian, họ cũng thưởng thức được vẻ đẹp của kiến trúc thánh, nghệ thuật thánh và thánh nhạc mà ca tụng Ðấng sáng tạo.

Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tôn kính nhà Chúa:

Lạy Chúa là Ðấng sáng tạo và quan phòng muôn loài.

Chúa hiện diện khắp mọi nơi, trên toàn cõi địa cầu.

Ðặc biệt Chúa diện diện trong thánh đường

nơi có Mình Thánh Chúa Kitô ngự trị.

Xin dạy con biết tỏ ra tôn kính và yêu mến nhà Chúa,

và cho con được tìm thấy nơi nhà Chúa

nguồn sức mạnh, niềm an ủi và sự cậy trông

của đời con. Amen.

home Mục lục Lưu trữ