Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 82

Tổng truy cập: 1364623

LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY

Lương thực hằng ngày - McCarthy

Suy Niệm 1. ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY

Vào lúc này hay lúc khác, tất cả chúng ta không được ai biết đến hoặc làm lơ. Điều ấy làm chúng ta rất khổ sở. Chúng ta cảm thấy việc chúng ta làm không được thừa nhận và chính chúng ta bị đối xử như thể chúng ta thật sự không có gì đáng kể.

Nhưng có một điều còn tệ hơn việc chúng ta không được biết đến. Chúng ta có thể bị bỏ quên. Điều này còn làm chúng ta khổ sở hơn. Điều đó không chỉ ở chúng ta có ít giá trị mà ở chỗ không có giá trị nào cả. Như thể chúng ta đã không hiện hữu.

Đức Giêsu cũng muốn đước tưởng nhớ. Đêm trước khi Người sắp chết, khi Người ngồi ăn với các môn đệ, Người cầm lấy bánh và nói: Đây là mình Thầy bị nộp vì các con: Rồi Người cầm lấy chén rượu nho và nói: “Này là chén máu Ta… Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.

Dĩ nhiên, Đức Giêsu không đòi các môn đệ tưởng nhớ chỉ vì nhu cầu riêng của Người. Người cũng nghĩ đến các môn đệ của Người. Họ cũng cần nhớ đến Người. Vì tình yêu của Người đối với họ. Người đã để lại cho họ một phương thế đặc biệt để họ nhớ Người tức là Thánh Thể.

Mỗi lần chúng ta cử hành Thánh Lễ, chúng ta nhắc lại một vài việc làm và lời nói kỳ diệu của Người. Chúng ta suy nghĩ về những điều ấy và áp dụng vào đời sống chúng ta. Nhưng Thánh Lễ còn kỳ diệu hơn thế nữa.

Khi chúng ta nhớ đến theo cách ấy, Người trở nên hiện diện với chúng ta. Không phải bằng thể chất, nhưng là hiện diện thật.

Qua Thánh Thể một dây liên kết được hình thành ở giữa chúng ta, với kết quả là chúng ta có thể bước vào sự thân mật sâu xa với Người hơn cả khi Người hiện diện bằng thể chất. Chúng ta không chỉ giao tiếp với Người nhưng ở trong sự hiệp thông với Người, một sự hiệp thông thánh thiện.

Trí nhớ là một khả năng quý giá. Nó liên kết chúng ta với người khác và các biến cố không còn hiện diện với chúng ta nữa. Nếu chúng ta ấp ủ hồi ức về những người chúng ta yêu mến, họ trở nên hiện diện với chúng ta. Họ không chỉ là một hồi ức nhưng còn là một sự hiện diện mà chúng ta cảm thấy hơn là nhìn thấy. Khi tưởng nhớ đến họ, chúng ta tiếp tục thu hoạch một mùa gặt từ những gì họ đã gieo trồng khi họ còn sống giữa chúng ta.

Tưởng nhớ đến Đức Giêsu còn sinh lợi hơn biết bao, đặc biệt trong cách mà Người yêu cầu chúng ta nhớ đến Người.

Suy Niệm 2. TRONG ĐÊM NGƯỜI BỊ PHẢN BỘI.

Đêm hôm trước ngày Người chết, Đức Giêsu ngồi vào bàn tiệc với các Tông đồ. Nhóm nhỏ quy tụ xung quanh bàn tiệc gợi lên sự gần gũi, thân mật, ấm cúng, tín thác và yêu thương. Nhưng nếu có phản bội bước vào trong khung cảnh ấy thì sự chia cắt tình cảm càng sâu xa hơn, và tổn thương gây ra càng nhiều hơn. Khi sự rạn nứt xảy ra giữa những người rất thân nhau thì sự giải quyết gay go hơn so với những người không thân nhau đến thế.

Giuđa cũng đã có mặt. Tại sao ông ta lại tham dự bữa Tiệc Ly khi mà ông ta đã có ý định phản bội Đức Giêsu? Có lẽ, ông ta muốn tạo ra cảm tuởng rằng mọi việc vẫn bình thường, và do đó Đức Giêsu sẽ không có chút nghi ngờ nào.

Bản tường thuật của bữa Tiệc Ly của Phaolô là bản cổ nhất mà chúng ta có trong Tin Mừng. Ông viết: “Trong đêm Người bị phản bội, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Anh em hãy cầm lấy bánh mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”.

Một câu đập vào mắt của chúng ta. Đó là “Trong đêm Người bị phản bội”. Chính trong đêm ấy chứ không phải một đêm nào khác. Thay vì đoạn tuyệt với các Tông đồ, Người cho họ một dấu chỉ của tình yêu Người: Người ngồi ăn bữa tối thân mật với họ. Rồi Người nói: “Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”. Đó là cách mà họ phải nhớ đến Người. Chính trong đêm đó, một người trong bọn họ đã phản bội Người.

Chúng ta không nên nghĩ rằng Đức Giêsu không bị sự phản bội của Giuđa làm tổn thương. Người đã bị tổn thương một cách sâu xa. Thánh Gioan nói rằng khi Người bắt đầu nói về kẻ phản bội “Người đau buồn sâu sắc”. Và chắc chắn là thế. Người đã đích thân tuyển chọn và đào tạo Giuđa. Giuđa đã nghe những lời Người giảng dạy và chứng kiến những phép lạ của Người. Giuđa là một người trong vòng thân cận. Thế mà giờ đây, ông ta định phản bội Người. Sự phản bội của một người bạn càng gây ra nhiều sự tổn thương và khó khăn hơn khi đối phó với sự phản bội của một kẻ thù.

Đối phó với sự phản bội là một việc rất gay go. Tuy nhiên, những người bị phản bội có thể có được niềm an ủi từ sự kiện Đức Giêsu đã cảm thấy bị phản bội như thế nào. Họ không thể cho rằng mình không bị phản bội làm tổn thương. Đức Giêsu cho thấy Người bị tổn thương như thế nào và đã bộc lộ bằng lời nói. Điều quan trọng là chúng ta phải đối phó với sự tổn thương như thế nào. Nó có thể làm cho chúng ta chua chát hơn và cám dỗ chúng ta trả thù.

Dù cảm thấy bị tổn thương, Đức Giêsu không trả đũa Giuđa. Người cũng đã từ chối bêu xấu ông ta trước mặt những người khác. Nhưng khi đưa cho Giuđa miếng bánh nhỏ (một cử chỉ bạn bè), Người để ông ta biết rằng Người biết kế hoạch của ông ta. Và khi từ chối lấy tay chỉ thẳng vào ông ta, Người để cánh cửa mở rộng cho ông ta quay lại với tập thể.

Điều Giuđa làm cũng gây ra sự tổn thương cho các Tông đồ khác. Dẫu sao, ông ta cũng là một người của họ. Họ đã tin tưởng ông ta và cùng ông ta chia sẻ mọi việc. Họ nghĩ rằng họ biết ông ta, nhưng ông ta đã trở mặt làm một kẻ phản bội. Khi phản bội Giêsu, ông ta cũng đã phản bội họ.

Chúng ta không nhớ đêm ấy vì sự phản bội của Giuđa. Chúng ta nhớ đêm ấy vì ơn lành mà Đức Giêsu để lại cho chúng ta dù rằng có sự phản bội đó. Thánh Thể sẽ giúp đỡ chúng ta bình phục trước sự phản bội mà bàn tay người khác đã gây ra cho chúng ta. Và Thánh Thể cũng giúp chúng ta không trở thành kẻ phản bội của bất kỳ ai khác.

 

36.Thánh Th

Thánh Kinh đã dùng thật nhiều hình ảnh để diễn tả về bữa tiệc Thánh Thể. Nào là hình ảnh Manna, Bánh bởi trời, nào là hình ảnh chiên vượt qua… Và gần chúng ta hơn hết là hình ảnh của phép lạ bánh hóa nhiều. Tất cả những hình ảnh ấy được thực hiện một cách viên mãn nơi Đức Kitô khi Ngài tuyên bố:

- Ta là bánh hằng sống… Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống.

Chính Chúa Giêsu đã trở nên của ăn cho tâm hồn mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thực vậy, Bí tích Thánh Thể chính là một sáng kiến tình yêu vĩ đại nhất của Chúa Giêsu. Ngài đã thiết lập mầu nhiệm tình yêu này để thông ban cho con người một hồng ân cao cả, đó là nhờ mình và máu Ngài mà chúng ta được thông hiệp vào sự sống thần linh. Thánh Thể còn là hy tế tưởng niệm và tạ ơn hoàn hảo nhất được dâng lên cho Thiên Chúa. Qua cái chết và sự Phục sinh, Đức Kitô đã trở nên của lễ hoàn hảo.

Nhưng lễ tế này, giờ đây còn được tái diễn trong thánh lễ. Hy tế ấy vẫn tồn tại và hiện thực, mặc dù biến cố ấy đã xảy ra cách đây hai mươi thế kỷ. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch sự sống, bổ dưỡng cho tâm hồn chúng ta như lời Chúa đã nói:

- Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.

Dân Chúa đang trên đường lữ thứ trần gian cần phải được bổ dưỡng bằng lương thực thần linh này để đạt tới bờ bến bình an.

Bí tích Thánh Thể còn là nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, sự sống đời đời là gì nếu không phải là ơn cứu độ Chúa dành cho chúng ta. Bí tích Thánh thể còn là sợi dây liên kết mọi người chúng ta lại với nhau như lời thánh Phaolô:

- Tất cả chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén, cùng thông phần một nguồn sức sống thần linh là Đức Kitô.

Tuy nhiên, Bí tích Thánh Thể chính là bí tích của đức tin. Muốn lãnh nhận, chúng ta phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta nhận ra bộ mặt của Đức Kitô trong Giáo hội. Chỉ qua lăng kính đức tin, chúng ta mới nhận ra Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Không có đức tin mọi hành vi phụng vụ đều bị coi là mê tín. Bí tích chỉ có ý nghĩa và tác sinh hiệu quả khi chúng ta có một đức tin sống động, một tình thương chan hòa và ơn sủng Chúa trao ban.

Và sau cùng, Thánh Thể chính là hình ảnh của bữa tiệc cánh chung. Khi tham dự Thánh Thể, được ăn và uống mình máu Thánh Chúa Giêsu, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Được Đức Kitô tan biến và thấm nhập vào tâm hồn chúng ta, được sống bằng chính sức sống của Thiên Chúa. Và như vậy, đời sống vĩnh cửu đang có và triển nở nơi người tín hữu để rồi tiến đến tình trạng viên mãn trong ngày sau hết.

Vì những ý nghĩ cao cả ấy, việc cử hành thánh lễ, phải là trung tâm của mọi hoạt động phượng tự của Giáo hội, cũng như phải là chóp đỉnh của đời sống người tín hữu, như Công đồng Vatican II đã xác quyết:

- Mọi bí tích, mọi việc tông đồ, mọi chức vụ của Giáo hội đều qui về Bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là khởi nguồn và chóp đỉnh của mọi việc rao giảng Tin Mừng và là dấu chỉ của sự hiệp nhất.

Thế nhưng còn chúng ta, chúng ta đã nghĩ gì về Bí tích Thánh Thể và nhất là chúng ta đã đáp trả tình thương to lớn mà Chúa Giêsu Thánh thể đã dành cho chúng ta như thế nào.

 

37.Chúa Giêsu là niềm mong đợi của mọi người.

Cuộc gặp gỡ tình yêu mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta ở trang Tin Mừng này hay Tin Mừng nọ đôi khi là một kế hoạch lớn, một cuộc đối diện khá thân mật với Ngài và đôi khi là một kế hoạch tổng thể trong đó chúng ta chiêm ngưỡng Ngài từ xa hơn. Đó là trường hợp ngày hôm nay.

Không có trần thuật nào quen thuộc với chúng ta hơn là trần thuật bánh hóa nhiều. Có sáu trần thuật như thế trong Tin Mừng! Ngày hôm nay, lễ Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cố gắng đi ngay vào việc suy niệm Thánh Thể, nhưng như thế, sẽ làm hạn hẹp những quan điểm rộng rãi của thánh Luca.

Từ đầu thánh Luca không ngừng loan báo biến cố: ngày hôm nay hoàn tất những lời hứa của Thiên Chúa, ngày hôm nay Đấng Thánh của Chúa đã đến, những việc lạ lùng xảy ra, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài.

Đối diện với những kẻ thù địch và những kẻ bỏ rơi Chúa Giêsu, thánh Luca ghi lại lần cuối cùng quang cảnh ở Galilê: Chúa Giêsu và đám đông phấn khởi. Đó là sự suy niệm của chúng ta, nhưng còn mở rộng ra, hết sức rộng: Chúa Giêsu, niềm mong đợi của tất cả mọi người.

Thánh Luca sắp giúp chúng ta thấy Chúa Giêsu như là Đấng quy tụ và làm cho phỉ nguyện. Lời đầu tiên của bài Tin Mừng là: “Dân chúng”, lời cuối cùng: “Tất cả ăn no nê”. Việc hóa bánh thành nhiều về mặt lịch sử đúng là một phép lạ, năm ngàn người được nuôi sống với năm chiếc bánh và hai con cá. Tôi ái ngại cho những người mà điều này làm cho khó chịu. Đức tin của họ thiếu động lực. Nhưng đàng sau phép lạ có dấu chỉ lớn về cơm bánh: Chúa Giêsu làm cho những người đói được no nê.

Ngày quy tụ Dân Chúa, Ngài tổ chức Dân Chúa, nhóm Mười Hai hiện diện trong trần thuật này, nhưng điều được nói đến nhất chính là quyền bính bình lặng và mạnh mẽ, ảnh hưởng của Ngài. “Xin Thầy giải tán dân chúng!”, nhóm Mười Hai lo lắng nói với Ngài. Không, Ngài ở lại thì chúng ta cũng ở lại, không có kẻ nào khác Ngài là người quy tụ ở dưới đất cũng như trên trời.

Ngài nói: Ngài giảng dạy Nước Trời, thánh Luca giải thích như thế. Thánh Luca cho thấy kế hoạch vĩ đại của Thiên Chúa. Chúng ta mất thời giờ khi chúng ta tìm kiếm một ông thầy mặc khải khác.

“Ngài mang lại sức khỏe”. Ở đây nữa, đàng sau các phép lạ, phải thấy dấu chỉ này là việc chữa lành các tâm lòng, sự dứt ra khỏi tội lỗi, sự giải thoát lớn, sức khỏe của con cái Chúa.

“Mọi người đều ăn no nê, và người ta thu lại được mười hai thúng bánh vụn!” dấu hiệu của cơm bánh, chính là thức ăn thần diệu, làm phỉ nguyện và dư dật. Chúa Giêsu nói với những người lầm lẫn về dấu chỉ này: “Cơm bánh, chính là Ta! Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói; ai tin Ta sẽ không bao giờ khát” (Ga 6,35)

Chúng ta sẽ đi đến Chúa Giêsu thật ngày mà chúng ta xác tín rằng chỉ có Ngài mới có thể xoa dịu cơn đói chủ yếu của đám đông dân chúng. Cơn đói được sống, được hiểu cuộc sống, được rút ra các mật ngọt từ đó, và đi tới niềm vui tối hậu mà vì đó chúng ta cảm thấy rõ rằng chúng ta đã nhận lãnh sự sống và những đói khát vô bờ bến. Chính Ngài là Sự Sống và là Cơm Bánh.

Cảm thấy những điều đó ở trong đám đông để thoát khỏi nếu cần một sự sùng tín Thánh Thể được sống quá riêng tư với Ngài. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa Giêsu khi chúng ta rất muốn tất cả đều yêu mến Ngài.

 

38.Nạn đói và sự hiệp thông – JKN

Trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều là trình thuật nền tảng và quen thuộc của Tin Mừng, vì 4 Tin Mừng đều thuật lại câu chuyện này (Mt 14, 13-21; Mc 6, 30-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-14). Xét về chi tiết thì mỗi tác gỉa thuật mỗi khác tùy theo quan điểm riêng của từng tác giả, nhưng tổng quát sự kiện xẩy ra thì giống nhau.

Thánh Luca cho chúng ta chiêm ngắm một vị Chúa đầy tình thương, tình người và kêu gọi chúng ta chia sẻ để có thể hiệp thông vời Chúa và liên kết với anh chi em.

1) Chúa Giêsu, Đấng thương cảm trước “cái đói, cái khát” của con người.

Những ai đã trải qua cái đói, khát thì mới thấy sự đáng thương, bi đát của người bị đói. Vì thế, phải đặt mình vào vị trí của những người đi theo Chúa Giêsu vào buổi chiều hôm ấy thì mới thấy được tình trạng thê thảm như thế nào khi không có cái gì để bỏ vào bụng. Có lẽ những người này đang trong tình trạng đói lả. Và Chúa Giêsu không thể nào làm ngơ trước tình trạng đáng thương ấy của “đám đông”. Họ đói khát vì đi theo Người, vì chăm chú nghe Lời Người. Chúa Giêsu không chỉ giải quyết cái đói thiêng liêng: Người nói với họ về nước Thiên Chúa (c.11b) mà Người còn giải quyết cái đói vật chất của đám đông đang theo Người: chữa lành những ai cần được chữa lành và cho mọi người được ăn no nê (c.17a)

2) Chính anh em hãy cho họ ăn

Phản ứng sửng sốt củ các môn đệ như bị gáo nước lạnh dội thẳng vào người là bình thường, vì làm sao họ có thể cung cấp thực phẩm cho số người như thế (riêng đàn ông đã đến gần 5 ngàn). Vì vậy, khôn ngoan nhất là giải tán để họ có thể tìm lương thực nơi các làng mạc chung quanh. Trong Gioan thì Chúa Giêsu là người đầu tiên bày tỏ sự lo lắng này (Ga 6,5) chứ không phải các môn đệ; và đây có lẽ cũng là cách của chúng ta hôm nay. Nhưng khi được Chúa gợi ý cho dân ăn, thì các ông đã nhiệt tình như muốn đóng góp tất cả. Năm chiếc bánh và hai con cá như thế là tất cả chất liệu mà các ông có thể có để cung cấp cho Người (5+2=7: một con số diễn tả sự viên mãn, trọn vẹn). Trong bữa ăn Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh chị em và rồi chính Người sẽ cung cấp chất liệu để ta chia sẻ (Lc11,14).

Thực ra chính Chúa Giêsu mới là Đấng làm cho con người được no thoả. Các môn đệ xưa kia đã cộng tác với Thầy mình vàhôm nay là Giáo Hội mà trong đó mỗi người chúng ta được kêu gọi như là cánh tay nối dài của Chúa. Chúng ta chỉ có thể trở thành tấm bánh được bẻ ra và được trao ban cho anh chị em mình một khi dám đi ra khỏi cái tôi ích kỷ, hẹp hòi, so đo, tính toán, cố bám lấy chức, quyền, địa vị hay tìm kiếm một chỗ ở an toàn để yên thấn, để được kính nể… Chính vì vậy, cộng đoàn mặc dù không đói cơm bánh nhưng lại là nơi đói khát tình người, tình huynh đệ; và thế giới hôm nay tưởng chừng như sung túc thì lại trở thành nơi thiếu cơm bánh và đầy bất công. Một thế giới tuởng chừng là ngôi nhà chung của mọi người thì lại là nơi chất chứa nỗi cô đơn, tuyệt vọng.

Bao lâu “cái tôi”của ta còn quá lớn thì không thể ngả mình thành từng nhóm (câu 14a) và lại càng không thể bảo mọi người ngả mình xuống được (c.14b), tức là vẫn còn chia rẽ, vẫn còn thiếu tình huynh đệ. Nếu sau khi hiệp thông với Chúa trong thánh lễ (rước lễ) mà không không thể chia sẻ cơm bánh vật chất, cơm bánh thiêng liêng với anh chị em mình thì Mình Máu Thánh Chúa vẫn còn xa lạ với chúng ta vì chúng ta chưa thực sự hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là tấm Bánh được bẻ ra và được trao ban cho nhân loại thông qua các tín hữu.

 

39.Lễ Mình Máu Thánh Chúa - JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Đức Giêsu đến có phải để lo chuyện ăn uống cho dân chúng không? Tại sao Ngài lại làm chuyện ấy? Động lực nào thúc đẩy Ngài làm chuyện ấy?

2. Nơi Đức Giêsu, tình yêu của Ngài đối với dân chúng hay bản tính Thiên Chúa của Ngài làm nên phép lạ?

3. Nơi bí tích Thánh Thể, chúng ta học được bài học gì?

Suy tư gợi ý:

1. Đức Giêsu quan tâm đến nhu cầu cụ thể của dân chúng

Ta thấy hoạt động của Đức Giêsu được phối hợp giữa việc rao giảng Tin Mừng và việc thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của dân chúng: “Đức Giêsu tiếp đón dân chúng, Ngài nói với họ về Nước Thiên Chúa, và chữa lành những ai cần được chữa”. Điều mà Ngài rao giảng không phải là một cái gì xa vời đối với dân chúng, mà là một cái gì thiết thực, phù hợp với những khát vọng của họ. Đó là Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, một tin vui về việc họ được giải phóng, được thoát khổ và hạnh phúc, là điều mà họ hằng mong ước. Đó là thứ Tin Mừng “cho kẻ nghèo hèn”, Tin Mừng giải phóng “cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do, v. v…” (Mt 4, 18).

Việc rao giảng ấy luôn luôn đi kèm với nỗi quan tâm lo lắng của Ngài đến những nhu cầu cụ thể của dân chúng. Nhờ sự quan tâm và những hành động cụ thể ấy, dân chúng cảm thấy được Ngài yêu thương, chăm nom săn sóc. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy tình yêu nhân bản của Ngài:

Thấy trời đã tối, các môn đệ đề nghị Đức Giêsu giải tán để họ tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn. Nhưng Ngài bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”. Thật là một quan tâm đầy tình người. Và sau đó Ngài đã làm một phép lạ cả thể.

2. Tình yêu có thể làm nên những phép lạ

Chúng ta đừng nghĩ rằng Ngài làm như vậy vì Ngài có khả năng làm phép lạ. Còn chúng ta, không làm phép lạ được, nên có gặp trường hợp tương tự, ta sẽ không dám làm như Đức Giêsu, là quan tâm đến nhu cầu cụ thể ấy của dân chúng. Đôi khi chúng ta phải nghĩ ngược lại, chính vì Ngài yêu thương, quan tâm thật sự đến nhu cầu của người khác và quyết tâm thỏa mãn những nhu cầu ấy với bất cứ giá nào, nên Ngài mới làm nên những phép lạ. Chúng ta không làm được những phép lạ, vì chúng ta không thật sự yêu thương và quyết tâm giải quyết những nhu cầu của anh em chúng ta. Nguyễn bá Học có nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Trong bối cảnh này, câu ấy có nghĩa: Đừng sợ rằng ta không thể làm được điều gì giúp anh em, mà hãy sợ rằng ta không đủ tình thương, không dám hy sinh vượt khó, không dám chấp nhận gian khổ để thỏa mãn những gì cần thiết cho anh em mình.

Tình thương thật sự có thể làm nên những phép lạ. Nhiều trường hợp trong lịch sử chứng minh điều ấy. Nếu ta thật sự yêu thương, quan tâm và nhất quyết giúp đỡ anh em mình khi họ cần, chắc chắn ta vẫn luôn luôn làm được một cái gì đó ích lợi cho họ. Nếu không đủ tình thương để làm nên phép lạ, thì hãy cố gắng làm tối đa trong khả năng của mình. Nếu không đủ tình thương để cố gắng tối đa, thì chí ít cũng nên làm những gì tối thiểu: có còn hơn không! Nếu ta hoàn toàn thờ ơ không làm gì cả trước nhu cầu thực tế của anh em, thì tình yêu của ta có hơn gì những người mà ta cho là phường tội lỗi? Trong họ, biết bao người đã tỏ ra có nhiều tình thương hơn ta (xem dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Lc 10,29-37).

3. Đừng chỉ quan tâm đến nhu cầu thiêng liêng của người khác, mà không quan tâm đến nhu cầu cụ thể và thiết thực của họ

Mục đích chính của Đức Giêsu khi đến trần gian là để rao giảng Nước Trời, chứ không phải là để cứu đói, chữa bệnh, trừ quỷ, hay nói chung là cứu khổ về phần xác. Nhưng Ngài đã quan tâm rất nhiều tới những việc này. Thánh Phê-rô đã nói lên điều ấy: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế” (Cv 10,38).

Rất nhiều Kitô hữu lo lắng đến những nhu cầu thiêng liêng của người khác: lo cho người ta biết Chúa, biết sống đạo đức, ăn ngay ở lành, làm lành lánh dữ, biết chăm sóc đến đời sống nội tâm, v.v… Điều ấy rất quí rất tốt, và cũng hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong số những Kitô hữu nhiệt thành ấy, có khá nhiều Kitô hữu chỉ quan tâm lo cho tha nhân những việc thiêng liêng ấy mà thôi, không hề nghĩ đến những nhu cầu thiết thực, cụ thể trước mắt và rất cấp bách của những người gần gũi chung quanh họ. Chính vì thế, những người được họ quan tâm lo những việc thiêng liêng, không cảm nhận được tình thương của họ một cách cụ thể. Điều ấy làm cho những cố gắng tốt đẹp của họ về mặt thiêng liêng bớt hữu hiệu.

Thiết tưởng một người được đức ái đích thực thúc đẩy, sẽ không phục vụ tha nhân theo kiểu “công chức”, nghĩa là chỉ phục vụ một số đối tượng nào đó, trong một khía cạnh nào đó, trong một số giờ nào đó mà mình được chỉ định phục vụ. Vì thế, họ không quan tâm phục vụ những đối tượng khác, trong những khía cạnh khác, vào những giờ khác, cho dù có những người cần được họ chăm sóc, phục vụ, nhưng lại vượt ngoài những hạn định ấy. Người có tình yêu đích thực vẫn có thể chọn một loại đối tượng để phục vụ, trong một khía cạnh nào đó mà mình chuyên môn, v.v… Tuy nhiên, trong những trường hợp cần thiết mà đức bác ái đòi hỏi, người ấy vẫn có thể phục vụ những đối tượng khác, trong những khía cạnh khác, vào bất kỳ giờ giấc nào. Một người có tình yêu đích thực, có đức ái đích thực, không tự giới hạn lòng yêu thương, sự phục vụ của mình, nhất là trong những trường hợp đặc biệt cần đến lòng yêu thương và sự phục vụ của mình. Một người chuyên phục vụ tha nhan về mặt tâm linh, vẫn nên quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của họ.

4. Hãy noi gương Thánh Thể

Nói tới Thánh Thể, chúng ta thường nghĩ tới việc phải làm sao để nhận được từ Thánh Thể những ơn cần thiết cho mình. Nhưng thiết tưởng chúng ta không nên bỏ qua một bài học tuyệt vời và rất quan trọng của Thánh Thể là sự quên mình và tính vị tha. Không có gì tỏ ra quên mình và vị tha cho bằng trở nên của ăn cho người khác, hay sẵn sàng để cho người khác “ăn” mình. Thật vậy, đồ ăn hiện hữu vì người ăn nó, chứ không hiện hữu một chút xíu nào vì bản thân mình cả. Tất cả mọi sự, để trở thành đồ ăn thì đều phải chết đi mới có thể nuôi sống người ăn mình. Bản chất của đồ ăn chính là chết đi để nhờ đó người khác được sống, bị tiêu diệt để nhờ đó người khác tồn tại. Thông thường, chúng ta có khuynh hướng bắt người khác phải vì mình, biến họ thành phương tiện hay công cụ phục vụ cho mình. Biến mình thành đồ ăn thì hoàn toàn đi ngược lại khuynh hướng thông thường ấy: sẵn sàng hiện hữu vì người khác, sẵn sàng chấp nhận làm phương tiện hay công cụ vì hạnh phúc đời này hay đời sau của những người mình yêu thương. Danh ngôn Pháp có câu: “Aimer, c’est permettre d’abuser” (yêu là cho phép người mình yêu lợi dụng mình).

Cả cuộc đời Đức Giêsu là một thứ đồ ăn: Ngài hiện hữu không phải vì bản thân Ngài, mà hoàn toàn vì Thiên Chúa và vì con người. Ngài đã chết để con người được sống, đã tự hủy để con người được tồn tại, đã đau khổ để con người hạnh phúc, đã tự hạ để con người được nâng lên, đã chấp nhận bị đối xử như người tội lỗi để làm cho con người trở nên thánh thiện, v.v… Ngài hiện hữu, Ngài làm mọi sự đều vì người khác, chẳng vì mình một chút nào. Và Ngài đã biểu hiện tính chất “là của ăn”một cách cụ thể và tuyệt vời khi lập bí tích Thánh Thể. Chúng ta ăn Ngài, nhưng chúng ta đừng quên bắt chước Ngài trong tính chất ấy. Ngài đã yêu cầu chúng ta: “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy”. Tưởng nhớ ở đây không gì tốt hơn và ý nghĩa hơn là bắt chước Ngài trong tính chất ấy: Hãy trở nên đồ ăn cho những người chung quanh mình, nhất là những người sống gần mình nhất.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn, để con bắt chước Chúa, là trở nên của ăn cho những người chung quanh con, bằng cách quên mình đi để sống vì họ, cho họ.

 

40.Thánh Th

Nhân ngày lễ kính Mình Máu Thánh Đức Kitô hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về bí tích Thánh thể. Vậy bí tích Thánh thể là gì?

Trước hết, bí tích Thánh thể là một bữa tiệc huynh đệ.

Thực vậy, không phải tình cờ mà Đức Kitô đã thiết lập bí tích Thánh thể trong một bữa ăn. Như chúng ta đã biết ăn uống là một việc làm sơ đẳng của con người, là một như cầu cần thiết cho sự sống. Nhưng hơn thế nữa, ăn uống còn biểu lộ một tính cách xã hội nữa.

Đúng thế, mời nhau cùng ngồi vào bàn ăn là muốn diễn tả một tâm tình gắn bó nào đó. Chẳng hạn trong gia đình, khi một người không còn muốn ngồi ăn chung cùng với những người khác,, thì lúc bấy giờ tình cảm đã bị sứt mẻ nặng nề và nghiêm trọng.

Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh thể trong một bữa ăn và như một bữa ăn, nhờ đó chúng ta được liên kết, được gắn bó muật thiết với Chúa và với nhau.

Thật là không bình thường khi người ta ngồi vào bàn ăn mà lại chẳng ăn uống gì cả. Đành rằng có khi vì một lý do nào đó chúng ta không thể ăn uống được, nhưng vẫn ngồi vào bàn với anh em bạn bè, để biểu lộ tình cảm của chúng ta. Song đó chỉ là một việc chẳng đặng thì đừng, vạn bất đắc dĩ mà thôi.

Cũng thế, bình thường khi tham dự bàn tiệc Thánh thể, chúng ta cần phải rước mình và máu thánh Đức Kitô, trừ khi có những lý do chính đáng, những ngăn trở thực sự.

Lại cũng là một chuyện không bình thường, nếu chúng ta đến tham dự cùng một bàn tiệc Thánh thể mà lại thờ ơ lãnh đạm với nhau, thậm chí còn bất hòa và chia rẽ cùng nhau.

Quả là một thiếu sót to lớn khi chúng ta đến tham dự thánh lễ mà lại không để ý, không quan tậm tới người khác, cũng như không muốn chung tiếng chung lòng với nhau để tham dự một cách tích cực và sốt sắng. Thân xác ở đây mà cõi lòng thì lại ở tận những đâu đâu, hay chỉ loay hoay cầu nguyện riêng một mình, hoặc giũ thinh lặng thừ đầu chí cuối.

Quả là không bình thường khi bàu khí thánh lễ thiếu vắng tình huynh đệ, thiếu vắng sự hòa hợp, thiếu vắng sự vui tươi. Vậy chúng ta cần phải làm gì để thánh lễ trở nên trung tâm của mọi sinh hoạt trong giáo xứ?

Tiếp đến Thánh thể là bí tích tưởng niệm hy tế thập giá của Đức Kitô.

Đúng thế, thánh Phaolô đã viết:

- Mỏi lần ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.

Phụng vụ ngày lễ hôm nay cũng đã dựa vào những tư tưởng trên để cầu nguyện:

- Lạy Chúa, Chúa đã trối lại cho chúng con bí tích huyền diệu để kỷ niệm cuộc khổ nạn Chúa.

Bí tích Thánh thể chính là một đài tưởng niệm sống động cho cuộc thương khó. Trong phòng tiệc ly, Đức Kitô đã phó mình cho chúng ta qua hình bánh và rượu, trước khi phó mình cho chúng ta qua cái chết đẫm máu trên thập giá.

Đồng thời khi thiết lập bí tích này, Ngài đã hoàn toàn qui hướng về cái chết: Này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con… Này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.

Như vậy, mỗi khi cử hành thánh lễ, Giáo hội diễn lại sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô, diễn lại mầu nhiệm ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.

Vì thế, khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta không phải chỉ tham dự một bữa tiệc, mà còn liên kết chặt chẽ với hy tế thập giá, đồng thời hiến mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha.

Thế nhưng, dù dưới khía cạnh một bữa ăn, hay dưới khía cạnh một hy tế, bí tích Thánh thể vẫn mãi mãi là một bí tích của tình yêu, bởi vì hy tế thập giá chính là cao điểm của tình yêu cứu độ, như lời Đức Kitô đã phán:

- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.

Bởi đó, sống thánh lễ là phải tiêu diệt tính ích kỷ, sự chia rẽ và tất cả những gì đối nghịch với tình yêu của Đức Kitô và tình yêu của anh em đồng loại.

Sống thánh lễ là phải ràng buộc mình vào trong tình yêu, là phải làm cho đời mình trở nên phù hợp với những đòi hỏi của tình yêu, là phải sống bác ái yêu thương.

Hãy biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài bằng những hy sinh cho nhau và vì nhau.

 

41.Mình Máu Thánh – Radio Veritas Asia

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – RVA)

Một trong những lễ trọng trong mùa thường niên là lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa, lễ này được cử hành vào thứ năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, nhưng tại nơi nào lễ này không buộc thì Hội đồng Giám mục có thể dịch vào Chúa nhật tiếp sau đó với sự phê chuẩn của Tòa thánh. Hằng ngày Giáo Hội cử hành Bí tích Thánh Thể qua việc dâng hy tế Thánh Thể, đây là một nghi lễ thường xuyên kính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô.

Trong ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ bánh hóa nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Phúc âm thuật lại, và đây cũng là một phép lạ công khai trước mặt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi khoảng năm ngàn người mà vẫn còn dư được mười hai thúng bánh vụn.

Thánh Luca nhấn mạnh đến vai trò của nhóm mười hai trong phép lạ này, vì chính họ đã chủ động xin Chúa Giêsu giải tán đám đông để những người này tìm chỗ ăn, chỗ ở khi ngày đã bắt đầu tàn. Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho nhóm mười hai: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi”. Hãy lo cho họ sau khi đã được nghe giảng về Nước Thiên Chúa và được chữa lành khỏi mọi tật bệnh. Các môn đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này, dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng, chữa lành bệnh tật và đã thành công. Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh và hai con cá nhưng chừng ấy thấm vào đâu so với nhu cầu của dân chúng, vì ở nơi thanh vắng này dù có tiền cũng không mua được đủ bánh.

Chúa Giêsu cần các môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc nuôi sống dân chúng. Các môn đệ theo lệnh của Chúa Giêsu đã chia đám đông thành từng nhóm nhỏ, chính các ông đã trao bánh và cá cho Chúa Giêsu để rồi nhận lại từ tay Ngài và trao ban cho đám đông, như thế phép lạ đã xảy ra trên bánh và cá sau khi Chúa chúc lành và bẻ ra.

Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ bánh và cá phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên không ngừng. Có thể hôm nay chúng ta cũng thấy bất lực trước những nhu cầu của con người, và nhân loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt khác nhau, hằng giờ có biết bao trẻ em chết đói trên thế giới này. Trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có, nếu chúng ta để cho Ngài thánh hóa tất cả những cố gắng nhỏ bé của mình, nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tác của Thầy Giêsu để phục vụ con người thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Do đó chúng ta vẫn có thể nuôi cả thế giới no nê và dư dật, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa.

Chúng ta đọc lại câu 16 của đoạn Tin Mừng hôm nay: “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông”. Khi kể lại cử chỉ Chúa Giêsu làm khi lập Bí tích Thánh Thể, thánh Marcô cũng sử dụng bốn động từ trên đây. Trong biến cố hai môn đệ trở về làng Emmau, chúng ta cũng thấy thánh Luca dùng lại bốn động từ này: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ”. Cử chỉ quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu. Giáo Hội sơ khai hẳn đã thấy sự liên hệ giữa phép lạ bánh hóa nhiều và Bí tích Thánh Thể. Trong tất cả những trường hợp trên, Chúa Giêsu đều dùng một cữ chỉ để mời người khác ăn tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập Bí tích Thánh Thể đã được khai mào từ sau phép lạ bánh hóa nhiều.

Những chiếc bánh vật chất chỉ làm giảm cơn đói của một số người nhất định và trong một thời gian nhất định. Manna ngày xưa trong sa mạc cũng không mang lại cho người ta sự sống sau cái chết. Bữa Tiệc Ly không phải là một hành vi đột xuất không suy nghĩ trước. Trái lại, Chúa Giêsu đã phải bận tâm với mơ ước nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài và ban cho họ sự sống vĩnh cửu: “Này là Mình Thày sẽ bị nộp vì anh em. Này là chén Máu Thày sẽ đổ ra cho anh em…”Chúa Giêsu mời chúng ta ăn tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến để thông hiệp vào cái chết và sự Phục sinh của Ngài, vào chính bản thân Ngài.

Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu biết tìm kiếm. Cựu ước đã ghi rằng: “Trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật”. Chúa Giêsu đã làm trọn lời hứa đó phần nào qua phép lạ bánh hóa nhiều, nhưng đó cũng chỉ là hình bóng của Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này.

Khi thông hiệp với Chúa Giêsu Phục sinh dưới hình bánh và hình rượu, chúng ta còn cần đến đức tin, chúng ta mong chờ ngày được tham dự vào bữa tiệc trên trời, nơi chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Ngài không qua bức màn đức tin nữa nhưng diện đối diện. Chúa Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong cuộc đời của Ngài. Đời Ngài được kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong nhà Tiệc Ly đã trở thành tấm thân Người được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết trên thập giá: “Hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy”.

Giáo Hội sơ khai đã không quên mệnh lệnh đó, họ tiếp tục cử hành Bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ Bẻ Bánh tại các nhà riêng của tín hữu. Bẻ Bánh trở thành nét đặc trưng của cộng đoàn Kitô sơ khai. Nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa nhật, ngày thứ nhất trong tuần. Xin Chúa giúp cho chúng ta gặp Ngài trong lễ bẻ Bánh.

 

home Mục lục Lưu trữ