Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 33
Tổng truy cập: 1376037
MÃNH LỰC LỜI NGUYỆN
MÃNH LỰC LỜI NGUYỆN - Lm. Minh Vận, CRM
Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người ta thường phân thành hai đẳng cấp cách biệt nhau, đôi khi còn đối nghịch miệt thị nhau, như chúng ta thấy Chúa đề cập tới trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay.
Thượng cấp: Các thầy thông giáo, biệt phái, luật sĩ và phái pharisiêu là bậc thầy được dân chúng tôn là hàng đạo đức, người công chính. Vì thế, họ thường được trọng kính, được bái chào ngoài đường phố, dành chỗ danh dự nơi bàn tiệc, chiếm chỗ nhất nơi hội đường; mang y phục lộng lẫy, tua rua dài, thẻ bài lớn, huy chương đầy ngực.
Hạ cấp: Trái lại, các nhân viên thâu thuế lại bị liệt vào hạng người tội lỗi, kẻ bất lương đáng khinh bỉ; vì họ là những viên chức của chính quyền Roma, như những tay sai của ngoại bang, tôi tớ của đế quốc, những hạng người bị gọi là mọt dân, đục khoét, hối lộ, hà hiếp, bóc lột dân chúng.
I. ĐỂ CẢNH TỈNH NGƯỜI KIÊU CĂNG
Để cảnh tỉnh những con người kiêu căng, tự cao, tự đại, tự tôn mình là người công chính và khinh dể kẻ khác, Chúa đã nêu ra một dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện:
Người biệt phái với điệu bộ huênh hoang, thay vì dâng lời ngợi khen chúc tụng Chúa, ông ta lại liệt kê một loạt những công phúc việc lành ông đã thực hiện; thay vì thống hối xưng thú tội lỗi mình để cầu xin Chúa tha thứ, ông lại phang phui các tội lỗi của người khác. Sau cùng, ông đã tự mãn kết tội: "Tôi không như tên thu thuế khốn nạn tội lỗi dưới kia". Trái lại, người thu thuế, tự cảm thấy mình là kẻ tội lỗi, khép nép đứng đàng xa mãi cuối Đền Thờ, cúi đầu không dám ngước mắt nhìn lên, đấm ngực khẩn cầu ơn tha thứ: "Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi". Để kết thúc dụ ngôn, Chúa đã quả quyết: "Người thu thuế ra về được khỏi tội, còn người biệt phái không đáng lãnh nhận ơn tha thứ ". Rồi Chúa kết luận: "Vì, tất cả những ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống và những ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên".
II. MÃNH LỰC CỦA LỜI CẦU KHIÊM TỐN
Lời cầu nguyện của những kẻ khiêm tốn có một mãnh lực vô song, vì họ luôn chân nhận mình là một thụ tạo, có nghĩa vụ phải tôn vinh ca ngợi Đấng Tạo Hóa; họ ý thức thân phận thụ tạo của mình là phải hoàn toàn tùy thuộc Đấng dựng nên mình, như những kẻ thụ ân luôn phải cảm tạ Chúa, vì muôn ơn phúc Người đã ban; họ thú nhận mình chỉ là những tội nhân đáng Chúa trừng phạt, nên họ cần phải thống hối ăn năn và khẩn cầu ơn Chúa tha thứ tội lỗi. Sau cùng, họ tự cảm nhận được diễm phúc làm con cái Chúa, nên họ phải luôn dâng lời cảm tạ Chúa là Cha Nhân Từ hằng ban muôn vàn ơn lành cho họ và họ cố gắng sống hết tình con ngoan thảo đối với Chúa.
Vì thế, lời cầu của người khiêm tốn dâng lên được Chúa đoái thương chấp nhận, tha thứ tội lỗi và ban muôn phúc lành cần thiết. Đúng như lời Thánh Phêrô đã quả quyết: "Chúa hằng ban ơn cho người khiêm hạ; nhưng Chúa chống lại kẻ kiêu căng tự phụ".
Ngoài ra, lời cầu của người khiêm tốn còn có thế lực chinh phục tha nhân trở về với Chúa. Câu truyện sau đây minh chứng điều đó: Bà Dorothy Day từ trần tháng 11, 1980, hưởng thọ 84 tuổi. Khi tường thuật về cái chết thánh thiện của bà, tời báo New York Times đã kể bà là một nhân vật có thế lực nhất trong lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ. Sau ngày bà từ giã cõi đời, người ta đã khơi dậy một phong trào, vận động xin Giáo Hội phong Thánh cho bà, vì cuộc đời thánh đức và các công việc từ thiện bái ái bà đã thực hiện để cứu giúp những người nghèo đói túng thiếu ở thành phố New York.
Trong cuốn sách nhan đề: "From Union Square to Rome", bà đã tự thuật cuộc trở lại Công Giáo của bà như sau: "Một điều lôi cuốn tôi trước hết, là một hôm, tôi thấy hình ảnh một bà mẹ đang quì đăm chiêu sốt sắng cầu nguyện. Hình ảnh ấy đã lay động lòng tôi cách mãnh liệt và sâu xa, đến nỗi không bao giờ tôi có thể quên được". Cũng trong cuốn tự thuật đó, bà còn viết: "Trong những ngày đầu khi tôi mới trở lại, tôi thường nghỉ đêm ở quán trọ, để sáng mai tôi có thể tới dự Thánh Lễ sớm tại nhà thờ Thánh Giuse; điều lôi cuốn tôi đến nhà thờ này, là tôi được thấy người ta quì cầu nguyện cách sốt sắng". Bà còn quả quyết: "Tôi khát khao được Đức Tin như họ, và bỗng nhiên tôi được ơn tin vào Chúa, nên tôi đã quyết tâm gia nhập Giáo Hội Công Giáo".
III. SỰ SÁNG CÁC CON PHẢI CHIẾU GIÃI
Mãnh lực nào đã chinh phục bà Dorothy Day từ một người ngoại trở lại Công Giáo? Sức mạnh nào đã biến đổi con người của bà, từ một người phụ nữ tầm thường đã trở nên một người thánh thiện, hăng say xả thân phục vụ trong công cuộc từ thiện bác ái, cứu giúp những người nghèo khó cùng khổ? Đó chính là hấp lực gương sáng của những người có Đức Tin vững mạnh khi họ khiêm tốn sốt sắng cầu nguyện.
Một Cha già Việt Nam, dâng Thánh Lễ trong một cộng đồng người Mỹ. Sau Thánh Lễ, một số người đã tới bày tỏ: "We are very happy to attend your Mass". Ngài hỏi: "Why?" Họ đã trả lời: "You believe what you do".
Những người đã từng được chứng kiến Đức Thánh Cha Piô XII cầu nguyện, đều đồng thanh quả quyết: "Ngài giống như một Thiên Thần sốt mến".
Cha Thánh Gioan Maria Vianney thường xuyên thấy một ông già nông dân vào nhà thờ quì gối thầm lặng, mắt đăm chiêu nhìn lên nhà tạm Thánh Thể Chúa cách sốt sắng phi thường. Một hôm, ngài hỏi cho biết ông cầu nguyện thế nào, mà không thấy ông nói gì với Chúa. Ông trả lời đơn sơ: "Je Le vois, Il me voit. Ca suffit". Xin tạm dịch: "Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con. Thế là đủ rồi".
Một cụ già nhà quê, là một trong những người được mời đến thẩm vấn, để lập án xin phong Thánh cho Cha Gioan Maria Vianney, đã được ông phát biểu một nhận định thâm thúy về Cha Gioan Vianney như sau: "Tôi nhìn thấy Thiên Chúa nơi con người Cha Gioan Vianney".
Kết Luận
Khi dâng hay tham dự Thánh Lễ, tham dự các giờ phượng tự hay bất cứ một việc đạo đức nào, chúng ta có cảm nghiệm được rằng: Chúng ta đang được diễm phúc diện kiến với Thiên Chúa, tâm sự với Đấng thánh thiện và uy linh cao cả, Đấng đáng yêu mến vô cùng, Đấng mà các Thần Thánh trên trời, các chính nhân dưới thế và muôn loài muôn vật phải hết lòng yêu mến, phụng thờ, kính tôn?
Khi giao tiếp với tha nhân, nhất là khi chúng ta làm việc phụng sự Chúa, người ta đã gặp thấy Thiên Chúa nơi chúng ta và cảm nghiệm được Thiên Chúa đang tưởng nghĩ, nói năng và hành động nơi con người chúng ta chưa?
37. Xin đừng mưa trong ngày vui của tôi
"Mật ngọt đời sống và quả cầu bơ mặt trời / xin đừng giăng mây bao phủ / để rồi mưa rơi trong ngày vui của tôi." Đó là những lời ca của nữ ca sĩ Barbra Streisand hát trong đĩa nhạc nổi tiếng của cô cách đây ít năm: "Xin mưa đừng rơi trong ngày vui của tôi." Nhưng tôi lại nghĩ rằng băng nhạc Mills Brothers cũ cách đây mấy thập niên lại gần với sự thật hơn khi họ hát, "Mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống." Dĩ nhiên ai chẳng muốn sống vô tư dưới ánh mặt trời. Chúng ta đâu muốn giáp mặt với những biến động và nguy cấp như: bệnh tật, đau đớn, khổ sở, chia ly và chết chóc. Ai trong chúng ta đều muốn hát, "Xin đừng mưa trong ngày vui của tôi!" Thế nhưng, ngay khi chúng ta còn đang hát, thì mây đen bao phủ, mưa bắt đầu rơi, và bệnh tật xảy đến, hay người thân yêu của ta giã từ cõi đời, hoặc mối giây yêu đương đứt quãng, hay như những vấn đề kinh tế gia đình đè bẹp chúng ta. Chúng ta không cần phải dẫn chứng thêm nữa để có thể nhận ra rằng bài hát xưa đúng với sự thật hơn: "Mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống." Thử thách thật sự của đời sống là không phải ta sống thế nào dưới ánh dương quang, mà là ta sống thế nào dưới cơn mưa.
Khi Chúa Giêsu ban Bài Giảng Trên Núi như một bức ảnh tuyệt mỹ của đời sống, Ngài kết thúc bài giảng đó bằng sự nhấn mạnh rằng đó là sự thật. Ngài nhắc nhở mọi người rằng các biến cố sẽ xảy đến; nghĩa là mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống của mọi người. Khi trình bày bức ảnh rõ ràng của một cuộc sống sẽ được chúc phúc, no thoả, và xứng danh con người, thì Ngài đã kết bằng những biến cố đó. Ngài dùng dụ ngôn về hai người xây nhà, một người xây trên nền cát và người kia xây trên nền đá. Khi mùa lũ đến, ngôi nhà xây trên cát hoàn toàn bị tàn phá. Còn ngôi nhà kia vì được xây trên đá nên vẫn kiên vững với bão giông. Để dễ hiểu dụ ngôn này, các bạn nên biết là nơi Đất Thánh nơi Chúa Giêsu giảng, thì mưa đổ xuống theo mùa. Trong mùa khô, tức mùa không có mưa, thì có rất nhiều nơi để bạn chọn xây nhà. Nhưng phải cẩn thận, vì biết đâu chỗ bạn chọn lại là giữa lòng sông đang bị khô nên khi mà mưa đến thì nhà bạn sẽ bị chìm dưới 50 hay 60 thước Anh. Chúa Giêsu dùng sự thật của đời sống này ở Đất Thánh mà làm bình phong cho dụ ngôn của Ngài. Ngày dạy rằng bạn hãy cẩn thận khi xây nhà vì chắc rằng mưa bão sẽ đổ xuống trên nó, và chỉ có nhà nào xây trên nền đá mới đứng vững mà thôi. Chúa Giêsu đã kết Bài Giảng Trên Núi bằng sự thật đó.
Nhưng nó có liên quan gì đến chúng ta? Nền đá là gì? Xây dựng trên cái gì để nó có thể giúp ta đứng vững khi những biến cố và nguy cấp chắc chắn xảy đến trong đời sống chúng ta? Đơn giản đó là sự tín phục nhưng lại ít người biết đến. Với tài năng độc đáo của một vị Thầy, Chúa Giêsu đã dễ dàng hướng dẫn chúng ta qua Bài Giảng Trên Núi để vào thực tế. Trước tiên Ngài đưa ra hai lối, đó là 2 con đường rộng và hẹp. Rồi Ngài đề cập đến 2 loại cây đó là tốt và xấu. Xong Ngài nói về 2 căn nhà được xây trên cát và đá. Điều gì làm khác biệt trong mỗi loại của ba trường hợp trên? Tôi xin được trả lời bằng lời của Chúa Giêsu: "Không có ai nói lạy Chúa, lạy Chúa mà vào được Nước Trời, trừ những người làm theo ý Cha Ta" (Mt. 7:21).
Người xây nhà trên đá là người nghe và thực hành Lời Chúa. Chúng ta nghe được trong Bài Phúc Âm hôm nay là: "Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên" (Lk. 18:14). Sự kiêu căng và dại dột của những người Pharisêu là tự nghĩ họ tốt lành hơn người khác và như thách thức Thiên Chúa tìm ra lỗi lầm trong đời sống của họ. Đó là họ tự xây nhà trên cát sỏi trơn tuột của chính bản thân và ý riêng họ. Người tội lỗi khôn ngoan và khiêm nhượng tự nhận mình có những vấn đề và sẵn sàng bỏ ý riêng mình mà theo ý Chúa, đó là người xây nhà mình trên nền móng bằng đá của sự vâng phục. Thiên Chúa là Chúa Nhân Từ mời gọi chúng ta dâng trót cuộc sống theo luật Ngài, nhưng Ngài không thúc ép chúng ta. Ngài không bắt buộc bất cứ ai. Đó phải là sự tự tình chấp nhận Thánh Ý Ngài, ước muốn sống theo như Ngài muốn chúng ta sống, nhờ đó mà ta có thể trở nên như Thiên Chúa muốn chúng ta trở nên.
Ngay bây giờ các bạn có thể đang ngồi đó và mọi sự coi như tốt đẹp đối với các bạn. Nhưng trước khi ngày tàn, biết đâu tang thương sẽ đến với các bạn, ấy là mưa rơi trong ngày vui của các bạn. Các bạn không thể biết điều gì xảy ra ở góc quẹo kế tiếp...! Đời sống là thế đấy. Có những lúc đau thương nối tiếp nhau. Các biến cố dồn đống lên, và thế là chúng ta phải chiến đấu với chúng. Đôi lúc chúng ta cảm thấy như anh chàng trong câu truyện "Con Chó Xồm." Trở về nhà sau một cuộc hành trình lâu ngày và được viên tài xế đón ở sân ga, anh chàng hỏi, "Có gì xảy ra khi tôi vắng nhà không?" Người tài xế trả lời, "Dạ không có gì đặc biệt, ngoại trừ con chó xồm của ông chủ bị chết." "Trời ơi! sao con chó của tôi lại chết?" "Dạ, tại nó ăn thịt con ngựa bị chết cháy," người tài xế tài xế trả lời. "Hả! ăn thịt con ngựa bị chết thiêu?" "Vâng ạ, con ngựa bị thiêu chết khi chuồng ngựa bị cháy." "Chuồng ngựa bị cháy?" "Vâng, chuồng ngựa bị cháy vì nhà bị bắt lửa." "Bắt lửa từ nhà của tôi?" "Vâng thưa ông, nhà bị cháy vì nến của đám tang ạ." "Hở! sao lại nến đám tang?" "Đúng thế, bà chủ đã tạ thế ạ." "Trời! Bà nhà tôi chết rồi sao?" "Dạ, bà chủ mất vì quá kích động khi bà nghe tin người cộng sự của ông đã làm thụt két quá mức nên việc buôn bán của ông bị sụp tiệm ạ." Dĩ nhiên, câu truyện cứ thế tiếp diễn... Hết cái này tới cái khác nối tiếp nhau. Ý của câu truyện là vào một lúc nào đó trong đời sống chúng ta sẽ cảm thấy tựa như thế: nhiều biến cố cứ dồn dập đổ trên chúng ta! Chúa Giêsu rất thực tế về vấn đề này tuần tự mỗi năm mùa mưa sẽ đến; các biến sự sẽ lần lượt xảy đến. Những ai có cách sống ăn rễ sâu nơi tình yêu Chúa sẽ vượt qua những khó khăn.
Những Kitô hữu không phải là những người đứng hát bài ca vô thực với những con mắt thau láu: "Xin mưa đừng rơi trong ngày vui của tôi." Nhưng những Kitô hữu là những người biết rằng mưa sẽ đổ xuống. Kitô hữu là những người tự do và sung sướng hạ mình vâng phục ý Chúa.
38. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo cách suy nghĩ thông thường của bạn, khi nghe hai người trong bài Tin Mừng cầu nguyện, bạn đánh giá ai công chính hơn ai? Cách phán đoán của Đức Giêsu về sự công chính có khác với cách của bạn không? Khác chỗ nào?
2. Những người tập luyện được nhiều nhân đức hơn người, làm được nhiều việc tốt lành hơn người, nhưng lại tự hào và lên mặt về sự hơn người đó, thì sẽ được Thiên Chúa đánh giá thế nào?
3. Đọc bài Tin Mừng bạn rút ra được bài học gì cho mình? cho cách xử sự hằng ngày và cho công việc nên thánh của mình?
Suy tư gợi ý:
1. Cách phán đoán của Đức Giêsu khác với cách của ta
Qua lời cầu nguyện của hai người trong bài Tin Mừng này, ta biết tất cả những điều tốt lành mà người Pha-ri-siêu khoe với Chúa rằng mình đã làm đều là sự thật, và tình trạng tội lỗi mà người thu thuế thú nhận trước mặt Chúa cũng đều là sự thật. Nếu để ta xét đoán, ta sẽ dễ cho rằng người Pha-ri-siêu kia mới là người công chính, còn người thu thuế đích thực là tội lỗi. Nhưng câu kết luận của Đức Giêsu làm chúng ta phải ngạc nhiên: «Tôi nói cho các ông biết: người này (tức người thu thuế), khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia (tức người Pha-ri-siêu) thì không». Ta thấy phán đoán của Đức Giêsu về sự công chính khác hẳn cách phán đoán của chúng ta. Đương nhiên, chúng ta phải lấy cách phán đoán của Ngài làm mẫu mực cho cách phán đoán của ta, và phải chỉnh lại cách suy nghĩ của ta theo cách của Ngài.
2. Tự đề cao mình khiến mình bớt giá trị trước mặt Thiên Chúa
Như vậy, điều khiến cho một người nên công chính không phải là những việc tốt lành mà họ làm được cho bằng động lực đã thúc đẩy họ làm những việc ấy. Nếu họ làm những điều tốt để được mọi người khen thưởng, khâm phục, chứ không phải vì yêu Chúa hay thương tha nhân mà làm, thì những điều tốt ấy chỉ có giá trị trước mặt người đời chứ không chắc có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói về những hành động ấy như sau: «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi» (Mt 6,1-2).
Làm điều tốt đẹp để được khen đó là làm vì một động lực vị kỷ, tự kiêu. Đương nhiên, chẳng mấy ai trên đời thoát được tính vị kỷ, muốn tự đề cao mình: người ta chỉ hơn nhau ở chỗ vị kỷ ít hay nhiều mà thôi. Muốn nên thánh, ta phải tập luyện hằng ngày để tính vị kỷ hay tính thích được đề cao của ta càng ngày càng giảm đi. Sự thánh thiện và tính vị kỷ hay «độ phình lớn của cái tôi» tỷ lệ nghịch với nhau. Lời của Gio-an Tẩy giả có thể coi là một định luật: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga 3,30). Cái tôi của ta càng nhỏ đi thì đời sống thần linh hay sự sống của Đức Ki-tô càng lớn lên trong ta, và giá trị của ta trước mặt Thiên Chúa càng lớn. Ngược lại, cái tôi của ta càng phình lớn, thì sự sống của Đức Ki-tô ở trong ta hay giá trị của ta trước mặt Thiên Chúa càng nhỏ đi. «Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên» (Mt 23,12; Lc 14,11; 18,14).
Người nào hay tìm cách để được mọi người đề cao, khen thưởng thì cũng thường tự coi mình là hơn người và thích chê bai người khác: hạ người khác xuống để mình được nổi bật lên. Những người này dù có làm được biết bao điều tốt lành, thực tập biết bao nhân đức để được người khác nể phục, dù có lên được những bậc thang cao trong Giáo Hội hay xã hội thì vẫn là con số 0 trước mặt Thiên Chúa. Họ không được Thiên Chúa coi là người công chính.
3. Tự hạ, tự coi thường mình lại làm mình tăng giá trị lên trước mặt Thiên Chúa
Qua bài Tin Mừng ta thấy tội lỗi hay những hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn hay kiêu ngạo. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi, nên đã làm mất đi sự công chính của mình. Nhưng hành động khiêm nhường, biết nhìn nhận sự bất chính và tội lỗi của mình đã lập tức biến anh ta nên người công chính trước Thiên Chúa, bất chấp quá khứ tội lỗi của mình. Tương tự như vậy, tên trộm bị đóng đinh bên phải Chúa, tôi nghĩ chưa chắc anh ta đã phạm ít tội hơn tên trộm bên trái, nhưng chỉ vì anh ta nói được câu: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!» mà đã được Đức Giêsu hứa «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng» (Lc 23,41-43). Ôi thật là kỳ diệu sự khiêm nhường tự hạ, biết nhìn nhận thực trạng hèn kém của mình! Nó có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính! Ngược lại, cũng thật quái lạ, tính kiêu ngạo, tự mãn, tự đề cao, có thể biến những điều tốt thành xấu, công chính thành bất chính!
4. Bài học về khiêm nhường tự hạ
Nếu thế thì tại sao ta lại không rút ra một bài học cho mình? cho lý tưởng nên thánh của mình? Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, của nhân đức. Tất cả những tài năng, nhân đức dường như không có giá trị tự nó (en soi) trước mặt Thiên Chúa. Chúng chỉ trở nên có giá trị khi đi chung với sự khiêm nhường, tự hạ. Cũng như những số 0 (không, zéro) dù nhiều tới đâu cũng chẳng làm cho con số do chúng tạo thành có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bởi số 1, thì lập tức mỗi số 0 sau đó đều trở nên có giá trị: càng nhiều số 0 đi sau số 1, thì giá trị con số do chúng tạo thành càng tăng lên. Mỗi số 0 sau số 1 đều làm cho con số đã có tăng giá trị lên gấp 10 lần.
Đức Gioan-Phaolô I (1912-1978) nói: «Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và đĩ điếm nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hỏa ngục có cả hồng y giám mục nhưng không có người khiêm nhường». Nếu đúng như vậy thì bí quyết để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu là khiêm nhường, tự hạ, và ai khiêm nhường tự hạ thì dường như không thể xuống hỏa ngục được! Còn muốn xuống hỏa ngục thì chỉ cần kiêu ngạo là đủ, và kẻ kiêu ngạo thì dường như không thể vào thiên đàng được!
Trong cuộc đời, ta thấy có nhiều người sống trong sạch như các thiên thần, hoặc làm được rất nhiều việc lành như những vị thánh, nhưng họ lại kiêu ngạo, tự hào không kém gì ma quỉ về sự tốt lành của họ. Chính vì thế, họ không phải là đối tượng của Nước Trời. Thật là uổng, tất cả những nhân đức họ tập được, những việc lành họ làm được, chỉ vì kiêu ngạo mà biến thành «công dã tràng»! Như vậy, ai tự đưa mình lên thì coi chừng kẻo bị hạ xuống tới tận hỏa ngục! Còn ai tự hạ mình xuống thì rất có thể sẽ được đưa lên tới tận thiên đàng! Đức Giêsu đã chẳng nói: «Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu» sao? (Mc 10,31; xem Mt 20,16; Lc 13,30). Vậy thì dại gì mà kiêu căng, khoe khoang, tự mãn! dại gì mà lên mặt chê bai kẻ khác! Chính khi ta chê bai kẻ khác với mục đích để mình nổi bật lên, thì hành động của ta lại trở thành đáng chê hơn kẻ bị ta chê!
Về sự khiêm nhường và kiêu ngạo, Karl Marx (?) nói: «Khiêm nhường bao nhiêu đều không đủ, Chỉ chút kiêu ngạo cũng quá nhiều!».
Vì thế, hãy khiêm nhường được chừng nào hay chừng nấy, và đừng kiêu căng hay tự mãn chút nào cả!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Thánh Kinh cho con biết Cha rất thích kẻ khiêm nhường, và rất ghét kẻ kiêu căng. Đức Giêsu là hình ảnh trung thực nhất của Cha đã sống một cuộc đời hết sức khiêm nhường, đầy tinh thần tự hủy và vị tha tới tận cùng, đến nỗi Ngài không còn sống cho bản thân mình mà hoàn toàn sống cho Cha và tha nhân. Xin cho con biết sống như Đức Giêsu: quên mình, tự hạ, để có thể sống yêu thương và hòa đồng với tất cả mọi người chung quanh con. Amen.
39. Suy Niệm của JKN- 2
Suy tư gợi ý
1. Cách đánh giá của Đức Giêsu thật đáng ngạc nhiên
Đọc đoạn Tin Mừng trên, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và kinh sợ. Ngạc nhiên vì kết luận rất bất ngờ của Đức Giêsu so với cách suy nghĩ đánh giá của chúng ta. Kinh sợ vì thấy chính mình nhiều khi cũng hành xử y hệt người Pharisêu ấy. Người Pharisêu trong đoạn Tin Mừng tự hào về những việc mình làm, điều đó không phải là không có lý do chính đáng. Chắc hẳn ông ta đã thật sự làm được những điều mà ông ta kể ra với Thiên Chúa. Bài Tin Mừng viết, «Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng…». Từ «nguyện thầm» cho ta thấy những việc tốt lành đạo đức ông kể ra là chỉ để cho Chúa nghe, chứ không phải để khoe khoang với mọi người. Cho nên những việc ấy là có thật. Chẳng những ông tuân giữ luật Môsê cũng là luật Chúa một cách nhiệm nhặt, mà còn làm tốt hơn những gì luật ấy buộc nữa. Chẳng hạn luật Môsê chỉ buộc kiêng ăn mỗi năm một lần vào ngày lễ tạ tội, tức ngày 10 tháng 7 của lịch Do Thái (x. Lv 16,29), thế mà ông đã ăn chay mỗi tuần hai lần. Nghĩa là nhiều hơn gấp 104 (=52 x 2) lần luật buộc! Chính những việc làm xem ra tốt lành ấy đã khiến ông tự hào mình đạo đức, khiến ông rơi vào tình trạng mà sách Cách Ngôn nói: «Có hạng người cứ cho mình là trong sạch, dù chưa được gột rửa khỏi vết nhơ» (Cn 30,12).
Nhưng rõ ràng theo quan điểm Đức Giêsu thì ông không phải là người công chính trước mặt Thiên Chúa. Điều đó hẳn phải làm ta ngạc nhiên. Nhưng ta còn ngạc nhiên hơn nữa khi Đức Giêsu lại coi người thu thuế tội lỗi kia – là người công chính sau khi ông cầu nguyện cách khiêm cung như thế. Mặc dù người thu thuế chắc chắn đã phạm nhiều tội hơn người Pharisêu kia. Quả thật, cách suy nghĩ, đánh giá của Đức Giêsu ngược hẳn với cách thường tình của chúng ta, kể cả những Kitô hữu "cao cấp". Nhưng là người Kitô hữu, chúng ta phải học cách suy nghĩ và đánh giá của Đức Giêsu, chứ không phải tiếp tục cố chấp với cách suy nghĩ của mình.
Thiên Chúa cũng sẽ xét xử chúng ta dựa trên cách suy nghĩ và đánh giá của Đức Giêsu chứ không theo cách của chúng ta. Do đó, tới ngày phán xét, sẽ có một sự đảo lộn không ngờ so với những suy nghĩ hay dự đoán của con người, vì có «những điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa» (Lc 16,15). Vì thế, ngày ấy có thể xảy ra: «Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót» (Mt 20,16; Mc 10,31; Lc 13,30); «Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12); «Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: "Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,22-23).
2. Sự công chính theo quan điểm của Đức Giêsu
Rõ ràng Đức Giêsu không phán đoán theo kiểu con người, kể cả những Kitô hữu "cao cấp". Sự công chính không chính yếu hệ tại những việc đạo đức, những lễ nghi tôn giáo mà ta làm được, cho dù nhiều tới đâu. Lời của thánh Phaolô soi sáng cho ta phần nào: «Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,2-3). Như vậy, tất cả những việc tốt lành mà ta làm được, dù nhiều đến đâu, nếu không phát xuất từ tình yêu đích thực, thì trước mặt Thiên Chúa, vẫn chỉ là một con số không to tướng.
Những việc làm tốt đẹp ấy nếu thật sự phát xuất từ tình yêu, thì ta sẽ không bao giờ kể ra để được mọi người khen ngợi, kể cả việc kể ra với Thiên Chúa. Khi kể ra để được khen ngợi, thì việc kể ra đó chứng tỏ ta làm những việc ấy không phải do tình yêu, mà do ý muốn được khen ngợi là đạo đức, là có tình yêu, là giỏi giang, là tuyệt hảo. Và như thế thì ta «đã được phần thưởng rồi» (Mt 5,2.5), nên Thiên Chúa không còn phải thưởng cho ta nữa.
Nếu ta kể công với Thiên Chúa, thì hóa ra ta làm những việc ấy chỉ để Ngài trả công như thể ta là người làm công. Họ làm việc để được trả lương hơn là làm vì tình yêu, khác với con cái trong nhà làm vì yêu thương cha mẹ chứ không để được cha mẹ trả công. Trường hợp này, Thiên Chúa, Đấng vô cùng công bằng, luôn trả công cho ta xứng đáng bằng một phần thưởng nào đó có thể ngay ở đời này; nhưng Ngài không thể kể ta là người công chính đáng được hưởng thứ phần thưởng vốn chỉ dành cho những người có tình yêu đích thực. Cũng như ông chủ có thể trả lương sòng phẳng cho những người làm công, nhưng không bao giờ chia gia tài cho họ, mà chỉ chia gia tài cho con cái, cho dẫu con cái làm được ít việc cho ông hơn người làm công. Cũng vậy, trước con mắt Thiên Chúa, giá trị của một công việc dù nhỏ bé nhưng được làm vì tình yêu thì vẫn vô cùng lớn hơn giá trị của một công việc dù to tát nhưng lại làm vì một động lực khác.
3. Trường hợp hai người cầu nguyện trong dụ ngôn
Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng trên, người Pharisêu tưởng rằng ông có thể cậy vào việc giữ lề luật và những việc đạo đức của mình để tự hào là công chính trước mặt Thiên Chúa. Nhưng thánh Phaolô cho biết, «Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy» (Rm 3,20; Gl 2,16); «Dân Ítraen tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. Tại sao thế? Vì họ không tìm cách nên công chính nhờ đức tin, nhưng nhờ việc làm» (Rm 9,31-32). Sự công chính không đến từ việc làm hay việc tuân giữ lề luật, mà đến từ việc tin vào ân sủng của Thiên Chúa và sống phù hợp với niềm tin ấy.
Do đó, càng cậy vào việc giữ luật và những việc mình làm để tự hào về sự công chính của mình thì càng trở nên bất chính trước mặt Thiên Chúa. Vì «Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường» (Gc 4,6; Pl 5,5). Do đó, ta đừng bao giờ tự hào về sự thánh thiện hay những việc làm tốt đẹp của mình. Thánh Phaolô viết: «Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin sẽ làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính» (Rm 4,5). Trước khi sa ngã, chắc chắn thiên thần Lucifer còn thánh thiện hơn ta bây giờ rất nhiều. Nhưng ‘ông’ đã trở nên xấu xa tội lỗi vì tính kiêu ngạo và niềm tự hào về sự thánh thiện của ‘ông’. Do đó, kiêu ngạo là đầu mối mọi tội lỗi, nó xấu xa và tác hại hơn bất kỳ tội ác nào.
Còn người thu thuế, tuy rằng ông tội lỗi thật, ông đã từng phạm nhiều tội ác, nhưng ông đã hối hận và thành thật nhận chân tình trạng tội lỗi của mình. Qua sự đánh giá của Đức Giêsu, ta thấy đối với Thiên Chúa, tuy tội lỗi làm mất lòng Thiên Chúa nặng nề, nhưng tình yêu được thể hiện bằng tâm hồn khiêm nhượng lại làm đẹp lòng Ngài nhiều hơn. Thật vậy, thánh Phêrô nói: «Lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8; x. Tb 12,9). Kẻ thánh thiện nhất trên đời cũng vẫn có tội, vì trước mặt Thiên Chúa, «không ai là người công chính, dẫu một người cũng không» (Rm 3,10). Vấn đề không phải là mình tội lỗi nhiều hay ít, mà là mình có được Thiên Chúa tha thứ hay không: «Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung! Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội!» (Rm 4,7-8). Chính tình yêu và lòng khiêm nhường thống hối khiến Chúa tha thứ tất cả và «không kể là có tội». Do đó, một người vô cùng tội lỗi nhưng một khi đã thật lòng thống hối, thì trước mặt Thiên Chúa, người ấy công chính hơn một người ít phạm tội, làm được nhiều việc phúc đức, nhưng lúc nào cũng tự hào về sự vô tội hay đạo đức của mình.
Bài Tin Mừng hôm nay mặc khải cho chúng ta biết điều ấy. Đó là tin vui cho những người tội lỗi, vì họ chỉ cần thật lòng thống hối là được nên công chính; nhưng lại là tin buồn cho những người kiêu ngạo, thích tự hào về sự đạo đức hay thánh thiện của mình.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, có thể nói: trước mặt Cha, tính ích kỷ và kiêu ngạo của một người che lấp tất cả mọi sự tốt đẹp của người ấy, khiến người ấy trở thành bất chính. Và tình yêu thương và lòng khiêm nhượng của một người co thể che lấp được những tội lỗi xấu xa của người ấy. Vậy, xin Cha giúp con biết sống yêu thương, khiêm nhượng và trừ tuyệt tính ích kỷ và kiêu ngạo trong con.
40. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy
TỰ CÔNG CHÍNH HÓA CHÍNH MÌNH, MỘT THÁI ĐỘ SAI LẦM
Chắc hẳn dụ ngôn người «Pha-ri-sêu và người thu thuế» - mà bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu – đối với tất cả chúng ta đã quá quen thuộc, và có lẽ vì quá quen thuộc nên chúng ta cũng khó nhận ra được ý nghĩa trọng yếu của câu chuyện nữa. Vâng, bình thường chúng ta hay tự đồng hóa mình với người thu thuế từ tốn trong dụ ngôn, bởi vì đối với chúng ta hình ảnh người Pha-ri-sêu quá đậm nét kiêu kỳ và tiêu cực. Nhưng nếu chúng ta tự thành thật với chính mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng cả hai hình ảnh đó – người Pha-ri-sêu và người thu thuế - đều ít nhiều có mặt trong chính bản chất con người chúng ta.
Thực ra, những người Pha-ri-sêu thường là những thành phần tốt và đàng hoàng của xã hội lúc bấy giờ, chứ không xấu như người ta ngày nay thường có ấn tượng về họ. Những ý kiến cho rằng tất cả những người Pha-ri-sêu đều là những kẻ giả hình giả bộ, gian trá, tham lam và chỉ chú trọng đến việc sống đạo theo văn tự và theo hình thức bên ngoài, chứ tinh thần và sự xác tín nội tâm thì hoàn toàn thiếu hẳn, là những ý kiến hoàn toàn không phản ảnh đúng với thực tại cụ thể.
Đúng vậy, vào thời Đức Giêsu, những người Pha-ri-sêu nói chung là những người có tâm hồn tôn giáo, luôn rất coi trọng luật Môsê. Sự cầu nguyện và việc cử hành các lễ nghi phụng tự luôn giữ một vai trọng quan trọng trong cuộc sống của họ. Tuy nhiên, quan niệm và cách thức sống đạo của một số lớn trong họ đã trở nên quá khích và lệch lạc, cần phải được sửa sai. Dẫn chứng cụ thể là hình ảnh người Pha-ri-sêu đã được Đức Giêsu nêu lên trong câu chuyện dụ ngôn.
Vâng, người Pha-ri-sêu được nói đến trong câu chuyện dụ ngôn tự cho rằng ông ta có thể tồn tại được trước Thiên Chúa. Trong khi cầu nguyện, ông ta chỉ nêu lên những tội lỗi mà ông ta không hề sa phạm bao giờ. Ông ta cảm tạ Chúa vì ông sống hoàn hảo và tử tế hơn tất cả những người khác. Trong khi cầu nguyện, người Pha-ri-sêu chỉ nói lên lòng cảm tạ biết ơn của mình đối với Thiên Chúa, chứ không hề khẩn cầu kêu xin cùng Người bất cứ điều gì cả. Ông ta cũng nói đến những công trạng của mình. Và thực ra, những điều ông ta đã làm không phải là ít: Mỗi tuần ông ta ăn chay hai lần và dâng cúng một phần mười hoa lợi của mình cho Đền Thờ.
Thử hỏi ai trong chúng ta có thể dám tự coi mình ngang hàng với một người đạo đức như thế? Bởi vì, nhiều người hễ khi nghe nói động đến vấn đề bớt ăn nhịn uống cũng như vấn đề dâng cúng của cải tiền bạc, là tự nhiên mất hết hứng thú, mất hết vui vẻ và tâm tình đạo đức tôn giáo cũng biến đâu mất. Trong khi đó người Pha-ri-sêu này hoàn toàn ngược lại. Vì để tôn vinh Thiên Chúa, ông ta đã ăn chay, đã hy sinh nhịn ăn nhịn uống mỗi tuần đến hai lần và cắt giảm mức sống bình thường của mình lại để dâng cúng cho đền thờ Thiên Chúa. Đối với ông, Thiên Chúa cũng cụ thể như những đồng tiền nằm lẻ kẻng trong túi tiền của ông. Như vậy, chúng ta không có quyền coi mình cao thượng hơn người Pha-ri-sêu này. Trái lại, ông ta có cuộc sống vượt trội hơn chúng ta.
Nhưng sự ngạc nhiên ở đây, trong câu chuyện dụ ngôn này, là theo nhận xét của Đức Giêsu, thì người Pha-ri-sêu này, một người Do-thái có thể được coi là đạo đức kiểu mẫu, sau khi cầu nguyện ở Đền thờ trở về nhà, sẽ không được công chính!
Tại sao lại vậy, khi mà ông ta đã trưng dẫn cho thấy là ông ta đã thực thi được bao điều tích cực, bao việc lành phúc đức? Vâng, đức Giêsu đã có lý khi đưa ra sự nhận xét như thế. Bởi vì, sự sai lầm và tiêu cực đáng trách nơi người Pha-ri-sêu này là ông đã tự công chính hóa chính mình, đã tự cho mình là đúng và thánh thiện hơn người khác. Nhất là ông đã quá ỷ lại vào chính mình, vào các khả năng và công cán cá nhân của ông ta, chứ không dựa vào Thiên Chúa và ơn trợ giúp của Người. Ông ta đã quên đi rằng, tự bản chất con người nói chúng và bản thân ông ta nói riêng hoàn toàn yếu hèn, bất toàn và khốn cùng trước mặt Thiên Chúa Tạo Hóa, và mọi khả năng, tài lực và của cải ông ta có được đều là hồng ân của Người ban cho.
Do đó, ông ta đã tự vô hiệu hóa các công sức, các việc lành phúc đức của mình, và qua đó ông ta đã vô tình tự hạ mình xuống thấp. Vâng, người Pha-ri-sêu đã đánh giá các việc lành nhân đức của mình bằng các phạm trù, bằng các tiêu chuẩn và cách thế trần gian, khi ông ta muốn dựa vào công sức của mình để khẳng định địa vị và chỗ đứng trước mặt Thiên Chúa. Tiếp đến ông ta ra mặt khinh thường những người mà ông ta cho là còn thấp kém và còn đầy khiếm khuyết hơn ông ta. Cái chuẩn độ mà ông ta đưa ra để đo lường nhân đức và sự thánh thiện hoàn toàn không phải là Thiên Chúa. Vì thế, tất cà những gì ông ta làm, đều mất hết giá trị.
Đức Giêsu đã đưa ra câu chuyện dụ ngôn này là có ý muốn nhắn gửi đến những người đã luôn tự phụ cho mình là công chính thánh thiện và coi khinh những người khác. Người đã thẳng thắn nói cho những người vốn có quan niệm sai lầm như thế rằng Thiên Chúa, Đấng mà Người loan báo, hoàn toàn kết án việc tự công chính hóa chính mình, việc tự cho mình là lành thánh vô tội. Trong khi đó, chỉ có một mình Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể công chính hóa con người và các hành động của họ bằng sự phán quyết tuyệt đối công minh và đúng đắn của Người mà thôi.
Còn những người thu thế vào thời Đức Giêsu không được đại chúng kính trọng, vì nghề thu thuế của họ là một nghề lem nhem đáng khinh, một nghề không hoàn toàn dựa trên pháp lý và sự công bằng. Họ bị dư luận quần chúng cho là những người tội lỗi, bởi vì họ cộng tác với quân ngoại xâm Roma và trong vấn đề thu thuế má họ đã lợi dụng để làm giàu cho chính mình trên sự đau khổ của đồng bào. Dó đó, đời xưa những người thu thuế bị xếp vào hàng ngũ những kẻ trộm cướp. Họ mất hết phẩm giá của một công dân Do-thái và người ta tránh tiếp xúc giao lưu với họ.
Nhưng cũng chính vì lý do đó mà câu chuyện dụ ngôn lại làm cho chúng ta ngạc nhiên một lần thứ hai nữa. Đó là việc Đức Giêsu đã quả quyết rằng người thu thuế, một kẻ đã sai phạm không biết bao nhiêu là tội lỗi và bất công, sẽ rời Đền Thờ ra về trong an bình vui sướng với Thiên Chúa và với chính mình, sẽ trở về nhà như một người công chính!
Tại sao?
Điều tích cực nơi người thu thuế là chính việc anh đã thành tâm đến cầu nguyện cùng Thiên Chúa thực sự. Trước tòa Chúa anh đã nhận ra mình chỉ là một kẻ tội lỗi bất xứng và anh biết rằng với một lương tâm u uẩn, đầy tội lỗi nặng nề như thế, chắc chắn anh sẽ không thể tồn tại được trước mặt Thiên Chúa. Như thế, người thu thuế đã đánh giá cuộc sống và các việc mình làm theo các tiêu chuẩn trên cao, theo luật lệ Thiên Chúa. Vâng, Thiên Chúa là mẫu mực, là mô phạm và là tiêu chuẩn của anh. Do đó, trước mặt Chúa anh đã xưng nhận tội lỗi của mình và chân thành khẩn cầu Người tha thứ cho anh.
Qua đó chúng ta thấy rằng người thu thuế tội lỗi - với một tâm hồn khiêm tốn chân thành - được ở gần kề bên Thiên Chúa hơn là người Pha-ri-sêu đạo đức – với một tâm hồn đầy tự phụ, kiêu căng và khinh người.
Nói tóm lại, người Pha-ri-sêu bị chê trách không phải vì lý do sự công bằng và những việc phúc đức ông đã làm. Điều gì tốt thì luôn luôn vẫn là điều tốt. Nhưng vào giai đoạn kết thúc câu chuyện, người Pha-ri-sêu lại không còn được coi là một người tốt, đó là do ông đã quá tự đề cao mình khi so sánh với những người khác và rồi coi khinh họ.
Trong khi đó người thu thuế được khen ngợi không phải vì những tội lỗi anh đã sa phạm. Điều gì xấu thì vẫn luôn luôn là điều xấu. Nhưng anh ta được khen ngợi, bởi vì:
• anh ta thành tâm đến với Chúa trong tinh thần khiêm tốn;
• anh ta đã can đảm biết nhìn thẳng vào chính đời mình;
• anh ta đã không đâm ra thất vọng, chán nản và buông xuôi trước các tội lỗi của mình;
• anh ta chấp nhận sự yếu đuối và sự bất toàn của mình, v.v…!
Chính sự thành tâm đó là khởi đầu cho công cuộc thay đổi và canh tân cuộc sống.
Vậy, qua dụ ngôn «Người Pha-ri-sêu và người thu thuế», Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết điều gì thực sự là thánh thiện và hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa: Không phải là việc chỉ nhắm giữ đúng các luật lệ và các đòi hỏi luân lý, nhưng là sự xác tín rằng mình hoàn toàn bất toàn trước mặt Thiên Chúa, nên cần đến lòng thương xót của Người và nhất thiết phải canh tân cải thiện cuộc sống của mình.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam