Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 51

Tổng truy cập: 1371138

Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể

Cập nhật : 24-12-2013
 

MẦU  NHIỆM CON THIÊN CHÚA NHẬP THỂ

 

          Qua hình thức tổ chức lễ Giáng Sinh dựa vào lịch sử đời sống của Hội Thánh, Phụng Vụ đã diễn tả về mầu nhiệm nhập thể :

 

  • Con Một Chúa Cha nhập thể, là một nhân vật lịch sử phi thời gian.
  • Ngài là Mặt Trời Công Chính.
  • Ngài sống nghèo cho ta được giàu có.
  • Ngài nâng phẩm giá con người vượt trên kiếp người.

 

I. CON MỘT CHÚA CHA NHẬP THỂ, LÀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH SỬ PHI THỜI GIAN.

 

          1- Đức Giêsu là nhân vật lịch sử.

 

          Ngài không phải là một ý tưởng, hay lý tưởng của nhân loại, như “Thần Tài” hay “Thần Lành” trong các tôn giáo nhân gian ; Ngài cũng không phải là nhân vật thần thoại như “Con Rồng” hay “Tiên Ông” … Nhưng Ngài là con người lịch sử, sinh vào thời điểm đế quốc La Mã đang thống trị Israel, dưới triều đại hoàng đế Augúttô và Quirintô làm đặc sứ toàn quyền miền Syria đã ra lệnh mọi người phải về quê quán khai tên tuổi. Vào dịp này ông Giuse và bà Maria đã mau mắn thi hành lệnh trở về Bethlem. Khi hai người đang ở đó, thì Maria tới ngày mãn nguyệt khai hoa (x Lc 2,1-6 : Tin Mừng) ; và Ngài đã bị giết chết theo lệnh Philatô làm tổng trấn miền nam nước Do Thái (x Ga 19,12t).

 

          Vậy ngay từ lúc chào đời, Đức Giêsu đã dạy chúng ta phải biết tùng phục quyền bính đời (x Lc 2,2 : Tin Mừng), để mỗi người chúng ta phải nên thánh ngay trong môi trường và hoàn cảnh của mình đang sống!

 

          2- Con Thiên Chúa được sinh ra trong thời gian nhưng lại phi thời gian.

 

          Niên lịch của nhân loại trước thế kỷ thứ 15 chưa thống nhất :

          * Người Ai Cập, Assyri ; Babylon dùng niên lịch theo các đời vua.

          * Người Hy Lạp lấy ngày tế thần Zeus, đầu tiên vào năm 776 trước Công nguyên.

          * Người Roma tính từ ngày hai ông Romolus và Remus xây thành Roma vào năm 750  trước Công nguyên.

          * Người Do Thái tính từ ngày ông Abraham được Thiên Chúa kêu gọi khoảng 2.000 năm trước Công nguyên.

          Nói chung trước thế kỷ thứ 15, lịch thế giới không thống nhất, nên tạo khó khăn trong vấn đề giao dịch. Mãi đến thế kỷ thứ 6 (năm 525), thày dòng Denys le Petit cho biết Chúa Giáng Sinh vào năm - 754 theo lịch Roma. Đến đời Đức Giáo hoàng Grégorio XIII (1505-1583) mới quyết định lấy ngày Chúa Giáng Sinh làm mốc thời gian cho cả thế giới. Nhưng tiếc là thày Denys le Petit đã tính sai ! Vì vào năm 1912, người ta tìm thấy tấm bia ở Antiôkia xứ Pisiđia còn ghi lại rằng : lệnh khai hộ khẩu do ông Quirintô khởi xướng và ông Sentiô hoàn tất vào năm 7 và 6 trước Công nguyên. Như thế, lịch hiện hành đã tính trễ khoảng 6 – 7 năm.

 

          Dầu sao thì không có ai biết chính xác Đức Giêsu sinh ra vào ngày tháng nào ! Điều này Chúa muốn dạy chúng ta :

  • Đức Giêsu con người lịch sử được sinh ra, được sinh ra mà không phải được tạo thành, không lệ thuộc vào thời gian.
  • Đức Giêsu là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng hằng hữu, thì không có khởi sinh không có tận cùng.

 

II. CHÚA GIÊSU LÀ MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH.

 

          Thực ra vào thế kỷ thứ 4, lễ Giáng Sinh mới bắt đầu hình thành, tức là vào năm 350, Đức Giáo hoàng Julius I chính thức chọn ngày 25/12 là ngày mừng lễ Giáng Sinh. Lý do hoàn cảnh lúc ấy dân ngoại ồ ạt theo đạo Chúa, nhưng trước đó họ có thói quen cứ đến ngày 25/12 là đi dự lễ hội mừng ngày sinh của thần Mặt Trời. Do đó Hội Thánh Công Giáo muốn “rửa tội” cho ngày đó bằng cách nói với dân ngoại đã trở lại Đạo rằng : Muốn thờ thần Mặt Trời, thì chính Đức Giêsu là MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH đã đến viếng thăm nhân loại. (x Lc 1,78)

 

III. CON THIÊN CHÚA TRỞ NÊN NGHÈO ĐỂ TA ĐƯỢC GIÀU CÓ.

 

          Phúc Âm không ghi Đức Giêsu sinh ra trong hang đá, nhưng theo thánh Giustinô (thế kỷ thứ 2) thì nói Đức Maria sinh Đức Giêsu trong một hang đá. Vào thế kỷ thứ 4, hoàng đế Constantinô cho xây một vương cung thánh đường tại một hang ở Bethlem, mà theo truyền thống người ta tin Chúa Giê-u sinh ra tại đó.

 

          Còn việc làm hang đá ngày nay, được bắt đầu vào thời thánh Phanxicô thành Assisi : Lúc ấy người ta đã tục hoá lễ Giáng Sinh, đáng lẽ vào dịp lễ này người ta phải gia tăng cầu nguyện, nghe Lời Chúa và chia sẻ, thì họ lại tổ chức tiệc tùng, ăn uống xa xỉ và đú đỡn với nhau ! Đầu tháng 12 năm 1223, thánh Phanxicô báo trước cho mọi người là lễ Giáng Sinh năm nay không cử hành tại Nhà Thờ mà là ở một nơi khác (không cho biết trước). Mỗi tín hữu đêm ấy cầm đuốc đi theo thánh nhân vào một khu rừng vắng. Rồi thánh nhân leo lên một triền núi phẳng và cùng với mọi người dâng Thánh Lễ tại đây, ngài giảng một bài rất hùng hồn về cảnh nghèo nàn của Con Thiên Chúa vào đời, có ý dạy mọi người tránh sống xa xỉ, để có điều kiện chia sẻ vào những công việc đạo đức, hữu ích cho mọi người. Khi thánh Phanxicô đang giảng say sưa, thì thình lình Chúa Hài Đồng hiện ra ngay trên Bàn Thờ, nằm giơ hai tay, hai chân như muốn đòi thánh nhân bế. Từ điển tích này, người ta đặt tượng Chúa Hài Đồng nơi hang đá không phải là một cậu bé được quấn tã nằm ngủ ngon trong máng cỏ, mà là một Hài  Nhi nằm “giơ bốn vó !”

 

          Vậy “làm sao chúng ta phải trở nên giàu có như Đức Giêsu, mà vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài !” (2Cr 8,9) Ta phải trở nên giàu có như Đức Giêsu để có thêm điều kiện làm cho đồng loại được giàu có về Đức Tin và của cải vật chất,còn ta trở nên nghèo khó giống Đức Giêsu, đến nỗi Ngài không có nơi ngả đầu! (x Lc 9,58), vì chết trần trụi trên thập giá!

 

IV. CON THIÊN CHÚA ĐẾN NÂNG PHẨM GIÁ CON NGƯỜI VƯỢT TRÊN MỌI LOÀI THỤ TẠO.

 

                 * Cũng vào hoàn cảnh ở thế kỷ thứ 4 (năm 440), nhóm Manisê chủ trương khinh chê thân xác con người, vì thân xác là nguồn gốc của tội lỗi !

 

          * Rồi đến năm 448, nhóm “Độc Tính” dạy rằng : Chúa Giêsu chỉ có một bản tính Thiên Chúa, thân xác chỉ là “ốc mượn hồn”, con người không làm được gì tốt, phủ nhận sự cộng tác của con người trong chương trình Chúa cứu độ, mà Thiên Chúa hoàn toàn làm hết cho kẻ tin Ngài !

 

          Để chống lại hai lạc thuyết trên, lễ Giáng Sinh Hội Thánh dạy ta phải xác tín rằng  :

 

  1. Mỗi người được Chúa ở cùng, thân xác họ là Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa. (x 1Cr 3,16)
  2. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa không hỏi ý kiến ai, vì chưa có ai để hỏi. Nhưng khi cứu độ con người, thì Thiên Chúa tôn trọng họ, nên Ngài hỏi ý con người ! (thánh Augustino) [x Mc 2,1-12]
  3. Khi tạo dựng Ađam thứ I, Ađam cuối cùng (Đức Giêsu), Thiên Chúa đã khắc ghi hình ảnh mình trong đó, như Lời tiền Tin Mừng Chúa đã hứa : “Miêu duệ người nữ đạp nát đầu rắn” (St 3,15). Do vậy, Ađam cuối cùng đã lãnh nhận vai trò và tên Ađam thứ I : Vì Ađam thứ I làm mất những gì tốt đẹp đã được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài (x St 1,26). Ađam trước đã khởi đầu, nhưng đi vào sự chết ; Ađam cuối cùng sống vinh phúc muôn đời. Do đó, người sau (Giêsu - Ađam cuối cùng) mới đích thực là người đầu, như chính Ngài đã nói về mình : “Ta là đầu và là cuối’’ (Kh 1,17) : Từ khởi sự cho đến hoàn tất, đều nhờ bởi Chúa Giêsu.
  4. Adam cũ được dựng nên bởi đất trinh (đất chưa ai canh tác), còn Adam cuối cùng thì được sinh ra bởi Mẹ Đồng Trinh” (Thánh Irênê). Thánh Gioan nói : “Những ai đón nhận được Ngài, thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa, ấy là cho những kẻ tin vào danh Ngài” (Ga 1,12). Vì vậy mà thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Thiên Chúa làm người, cho con người được làm Thiên Chúa”. Và Chúa “không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất, đùa giỡn với con cái loài người” (Cn 8,30-31).

Nhưng ai muốn được những ơn trọng đại trên, buộc họ phải sống trong Hội Thánh Chúa Kitô. Vì Chúa chỉ muốn cứu loài người trong một đoàn chiên và một Chủ chiên (x Ga 10,1-18). Chính vì thế mà giáo huấn Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 32 dạy : “Ngôi Lời nhập thể và tình liên đới nhân loại, Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn quy tụ họ thành một dân tộc, để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện” .

 

          Câu chuyện Đường Tăng (trích trong “Phẩm Giá Của Con Người” của Nguyễn Thái Hợp :

 

          “Đường Tăng Huyền Trang là một nhân vật lịch sử. Một tăng sĩ dũng cảm, thông minh, tinh tế và là một học giả uyên thâm kinh điển Phật giáo. Ông là một học giả thiên tài và nghiêm túc đã dịch rất nhiều kinh sách Phật giáo ra chữ Hán. Ông đã ghi chép cẩn thận những gì mắt thấy tai nghe trên đường đi thành tập “Tây Du Ký”.  Đây là một tài liệu giá trị về xã hội, địa dư, tôn giáo và lịch sử của Ấn-Độ thời ấy. Nhưng chẳng mấy ai đọc “Tây Du Ký” của Huyền Trang.

 

          Ngô Thừa Ân không sử dụng tài liệu lịch sử của Huyền Trang, mà lại hư cấu một “Tây Du Ký” khác. Dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân, Huyền Trang học giả biến thành một Đường Tăng khù khờ, cả tin, hơi u mê và nhiều khi từ bi không đúng chỗ. Tuy nhiên, thầy trò Huyền Trang Tam Tạng của Ngô Thừa Ân lại được nhiều người Á Đông biết đến và say mê, vượt rất xa tác phẩm và nhân vật Huyền Trang chính thức.

 

          Vào đầu thập niên 90, Trương Quốc Dũng đã hư cấu một Huyền Trang khác trong truyện thật ngắn mang tựa đề “Đường Tăng”. Trong lời bạt của cuốn sách “40 truyện rất ngắn”, nhà phê bình Lê Ngọc Trà nhận định sắc nét : “Truyện Đường Tăng đầy những câu văn ngắn có hồn. Chữ ít nhưng dường như chữ nào cũng sống, cũng có một âm điệu tình cảm, một không gian…”. Xin được phép trích nguyên văn truyện thật ngắn này, một trong hai truyện được giải nhất trong cuộc thi truyện rất ngắn 1993-1994 (dưới 1.000 chữ) của bán nguyệt san Thế Giới Mới :

 

          “Đêm cuối cuộc trường chinh đầy gian khổ, ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật, đường Tăng trằn trọc không sao ngủ được. Suốt cuộc đời tâm nguyện tới cõi này, giờ đây khi sắp trút bỏ kiếp người, ông bỗng thấy lòng day dứt. 

 

          “Chiều nay, thân thể Đường Tăng đã rã rời, đầu óc đầy mộng mị, tay biếng lần tràng hạt. Tâm linh như muốn níu chân dừng lại. Máu ông nhức nhối thấm lần qua tim, cứa vào qúa khứ đau xé. Ông nhớ tới những người sinh thành ra mình. Tình cha, huyết mẹ tạo nên mà bao nhiêu năm nay ông không một lần thắp hương, không một lần nhắc nhở.

 

          “Chặng đường dài tới đất Phật khiến trái tim ông dần chai sạn. ông đã quá nhiều lần phải lạy lục, cầu khẩn các thần lớn bé, đã qua nhiều lần dẫm đạp lên xác máu yêu ma xa gần, chỉ với một mục đích : mau thành chánh qủa. ông thương người. Nhưng đêm nay, trước ranh giới cuối cùng của cõi Người và Phật, ông chợt hiểu ra cội rễ của tình thương ấy. Mỗi lần cứu giúp con người, ông chỉ thầm tính toán như xây thêm cho mình một bậc thang tới Phật đài.

 

          “Nhiều lần Đường Tăng đã tự hỏi tại sao nước mắt mình ngày càng lạnh giá. Giờ đây ông thầm biết, trên con đường thỉnh kinh về cứu rỗi người đời, ông đã dần dần xa lạ với con người.

 

          “Ông trở mình, thở dài : không là người, ta sẽ là ai? Yêu quái cản đường, biết bao kẻ chính từ trên đây xuống, pháp thuật vô biên, ác nghiệt vô cùng. Ta nhập vào chốn ấy biết rồi thành Phật hay thành ma ?

 

          “Đường Tăng chợt nhói trong tim. Ông khẽ rên lên, hai tay ôm ngực. Mở mắt thấy các đồ đệ đang đứng bên giường nhìn ông âu lo. Cả ba hình như đều không ngủ.

 

          “Đường Tăng thở hắt : “Không sao đâu, ta chỉ chợt nhớ tới ngày xưa”. Nói rồi lại nhắm mắt.

 

          Nghe tiếng Ngộ Không : “Xin thầy đừng tự dối lòng. Thầy đang nhớ cả kiếp người – Đường Tăng rùng mình khi giọng Ngộ Không quá u uất – Con từ đá sinh ra. Coi thường cả thần thánh, yêu ma, chỉ mong được thành người. Thầy đã là người lại tự bỏ mình đi tìm hồn phách khác. Đêm nay sao khỏi xót xa”.

 

          “Bát Giới cười khẽ : “Làm người có gì vui. Chúng ta đã dốc lòng theo đạo, ngày mai được lên chốn thần tiên, sung sướng biết bao nhiêu. Thầy đừng luyến tiếc.”

 

          “Sa Tăng an ủi : “Thầy trò mình sắp hóa Phật, mang đạo xuống khai sáng cho loài người. Công qủa vĩ đại lắm !”

 

          “Đường Tăng lắc đầu, nằm im hồi lâu, hai tay vẫn đặt lên tim, mắt vẫn nhắm, nước mắt trào ra ấm nóng lại. Rồi như trăn trối : “Ta ước gì đêm nay đừng sáng. Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ Không ơi ! Một đời con mong được thành người thì bị ép phải theo ta để thành Phật. Bát Giới tự dối mình, giác ngộ thật ra chỉ là đi tìm một chốn hoan lạc mới. Sa Tăng rời cõi u mê này sang cõi hoang tưởng khác mà lại hy vọng khai sáng. Còn  ta ? Không còn là người, không phải là người thì làm sao đồng cảm mà đòi khai sáng, cứu vớt con người.”

 

          “Ngộ Không sụp xuống nắm tay thầy, ngẹn ngào : “Thầy đã nhận ra chân lý. Nhưng chậm quá rồi.

 

          Truyện Đường Tăng cho ta phải suy nghĩ : Đường Tăng mong thành Phật, khi sắp thành Phật lại buồn vì không còn là người ! Mà không là người làm sao cứu được người ? Như vậy Đường Tăng thua xa Chúa Giê-su, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là người. “Ngài đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Ngài có thể cứu giúp những ai bị thử thách !” (Dt 2,18) Và không ai có thể lên cõi Phúc (lên Trời), ngoại trừ “Đấng từ Trời mà xuống, để ai tin vào Ngài thì được sống hạnh phúc đời đời !” (Ga 3,13.15) Như vậy, muốn cứu ai ta phải có hai điều  kiện :

 

  • Sống kiếp người giống như đồng loại ta muốn cứu, để ta cảm nghiệm được hoàn cảnh đau khổ của họ. Đó là lý do Đấng Cứu Thế muốn làm người như chúng ta.

 

Nếu Thiên Chúa ngồi trên trời sai thiên thần đến Việt Nam, xem hoàn cảnh dân chúng sống ra sao, khi thiên thần trở về chắc chắn thưa với Chúa : “Lạy Chúa, “đầy tớ nhân dân” rất giàu có, trái lại nhân dân làm chủ lại quá nghèo khổ, bo bo không có đủ mà ăn. Chúa ngạc nhiên hỏi : “Tại sao thế, Ta không hiểu, đầy tớ lại giàu hơn chủ nghĩa là sao?” Thiên thần thưa : “Đầy tớ nhân dân giàu lắm, họ rửa tiền bằng cách đi xe hơi và uống bia ôm. Còn nhân dân làm chủ thì không ai làm chủ một tấc đất, họ chỉ có quyền sử dụng, nên họ phải đi xe ôm và uống bia hơi!”

 

Nghe thế, Chúa phán : “Ta phải xuống xem sao, chứ nghe báo cáo thế thì “Tây” nó cũng chẳng hiểu nổi!”

 

Vậy muốn cứu ai đạt hiệu quả cao, không nhưng ta phải giống mà còn phải hơn người ấy.

 

          Nhờ ngòi bút của ông Luca, cho ta lưu ý hai lần ông viết “Hôm nay”, đặc biệt ở đầu và cuối cuộc đời Đức Giêsu :

 

  • Ngày Con Đấng Tối Cao giáng trần, Thiên thần nói : “Hôm  nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11 : Đáp ca).
  • Ngày Con Đấng Tối Cao lìa bỏ trần thế về Trời, Ngài nói với tên trộm biết sám hối tội mình và xin theo Ngài : “Hôm nay, ngươi ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lc 23.43). Đúng với Lời thiên thần nói với các chú mục đồng : “Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại : Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11 : Tung Hô Tin Mừng).

 

Kinh Thánh viết như thế, muốn nhấn mạnh rằng : Chúa Giê-su rất muốn đến với chúng ta từng ngày hôm nay trong suốt đời ta. Ngài không hẹn ta vào ngày khác đến gặp Ngài. Do đó, nếu mỗi người chúng ta hôm nay rộng mở cửa tâm hồn đón Chúa Giêsu Phục Sinh, khi ta dự Thánh Lễ, thì cho dù ngày hôm nay ta còn vương vấn tội lỗi mà biết sám hối, nếu Chúa lại gọi ta hôm nay ra khỏi thế gian này, chắc chắn Chúa cũng đưa ta vào Thiên Đàng ngay hôm nay, bởi vì ta không đến nỗi tồi tệ như tên trộm lành suốt đời chỉ chôm chỉa của người khác. Như thế ta không phải xuống luyện tội một thời gian để thanh tẩy mới được vào Thiên Đàng, giống như nhiều người phải thanh tẩy nơi luyện tội. Vì Chúa Giêsu cũng đã hứa : “Ai nghe Lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời và khỏi phải đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào cõi sống”  (Ga 5,24). Chính vì vậy, mà thánh Phaolô nói : “Bây giờ án phạt không có nữa cho những ai ở trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 8,1), nên “nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì tuy thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng làm cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính” (Rm 8,10).

 

Nhất là ta dự Lễ trọn vẹn : nghe Lời và rước lễ là cách chắn chắn được Chúa ở cùng, Ngài giúp ta thắng satan, thắng tội lỗi, thắng thần chết, hơn xưa Chúa chỉ ở cùng ông Ghêđêôn qua dấu chỉ “tấm lông chiên ông phơi ngoài sân đẫm ướt sương” (x Qa/Tl 6-7), nhờ thế mà ông chiến thắng quân Mađian (x Is 9,1-6 : Bài đọc I).

 

Vậy ngày hôm nay ta dự Lễ là được Chúa ở cùng, chắc chắn Ngài cho ta mạnh sức hơn ông Ghêđêon, để “Ngài giúp ta từ bỏ lối sống vô luân, hầu ta xứng đáng là dân riêng của Chúa, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2,11-14 : Bài đọc II).

 

THUỘC LÒNG.

 

          Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3,16)

 

 
Nguồn : gxta

home Mục lục Lưu trữ