Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 45

Tổng truy cập: 1372887

MẸ MARIA

Mẹ Maria

Tại sa mạc Phi Châu, ngày kia tu sĩ Caréttô nghe biết một cô gái mới 14 tuổi đời mà đã được gả bán cho một chàng trai. Trong khi chờ đợi ngày cưới, cô gái ấy vẫn tiếp tục đi kín nước và làm những công việc nội trợ bình thường. Thời gian trôi qua, hai năm sau vị tu sĩ kia sực nhớ bèn hỏi xem đám cưới đã được tổ chức như thế nào? Và ông bố đã tỏ ra bối rối không muốn trả lời.

Cuối cùng, một người đầy tớ đã cho vị tu sĩ hay:

- Cô gái ấy đã bị bóp cổ chết chỉ vì đã có thai trước khi về nhà chồng. Danh dự gia đình đòi cô phải chết như vậy.

Thân phận của cô gái trong câu chuyện vừa nghe, là thân phận của phụ nữ ngày xưa, cũng như của mỗi người chúng ta sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Bởi vì với tội lỗi, chúng ta sẽ phải chết. Không phải chỉ cái chết phần xác, mà còn cả cái chết phần hồn, mãi mãi xa lìa Chúa.

Thế nhưng Mẹ Maria đã khởi đầu cho một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này, người phụ nữ được phục hồi nhân phẩm và mỗi người chúng ta được trả lại địa vị làm con cái Chúa, bởi vì chúng ta có được chính sự sống của Ngài trong tâm hồn, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:

- Xưa kia bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống.

Sở dĩ như thế là vì Mẹ Maria đã sống khiêm nhường và luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay ngắt trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu hậu quả thảm khốc của tội nguyên tổ.

Trong khi đó Mẹ Maria là Eva mới, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong hoạt cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy như vậy. Sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên:

- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.

Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ và cầu nguyện thêm cái đã…

Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã được xứng đáng đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, cũng như làm Mẹ của Thiên Chúa.

Sống trong Mùa Vọng, chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria: luôn khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, để nhờ đó, chúng ta sẽ có Chúa trong tâm hồn, cũng như sẽ đem Chúa đến cho những người chung quanh như Mẹ Maria ngày xưa.

 

44. Truyền tin

Đức Maria là người diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho Con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đã được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là trình thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đã đưa Đức Trinh nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào.

Nhân vật được Thiên Chúa sai đi là sứ thần Gabrien, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria, con ông Gioakim và bà Anna, thuộc dòng họ vua Đavid. Sứ thần báo cho Maria một tin rất trọng đại: Thiên Chúa muốn trinh nữ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nhưng vì đã khấn hứa sống trinh khiết trọn đời, nên Maria không hiểu điều đó có ý nghĩa thế nào: làm sao vừa có thể sống trinh khiết lại vừa có thể sinh con và làm mẹ được? Vì thế, Maria hỏi sứ thần: “Việc ấy sẽ cảy ra cách nào?”. Sứ thần cho biết đây không phải là trường hợp bình thường bởi loài người nhưng bởi Chúa Thánh Thần làm phép lạ vĩ đại cho cô chịu thai mà vẫn còn đồng trinh và cô sẽ sinh một Thánh Tử là Con Thiên Chúa. Có thể nói giây phút ấy, tất cả tương lai nhân loại nằm trên đôi môi Đức Mẹ, giây phút ấy mầu nhiệm nhập thể vẫn còn lơ lửng, và Thiên Chúa hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Đức Mẹ. Cuối cùng, Đức Mẹ đã hoàn toàn ưng thuận. Thế là mầu nhiệm truyền tin đã hoàn tất.

Qua mầu nhiệm này chúng ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ đã can đảm thưa “xin vâng”. Để hiểu được sự can đảm phi thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt mình vào vai trò của Đức Mẹ cách đây 20 thế kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do thái giáo. Thời đó phụ nữ rất bị khinh miệt hơn cả ở Việt Nam chúng ta, nếu đối với chúng ta: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: thì phụ nữ Do thái còn “nhẹ giá” hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn, khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của mình là bị kết tội giao du bất chính, ngoại tình và bị ném đá cho chết. Đàng khác, Đức Mẹ sống trong làng Nagiarét, một làng nhỏ bé, nên việc mang thai không thể giấu diếm được. Có lẽ nhiều câu hỏi đã nảy sinh trong đầu Đức Mẹ: làm thế nào để giải thích cho họ hàng đôi bên và nhất là với người chồng sắp cưới? Làm thế nào để giải thích cho những vị lãnh đạo tôn giáo khắt khe trong làng? Nhưng tình yêu Thiên Chúa của Đức Mẹ đã thắng, Đức Mẹ đã chấp nhận mọi nguy hiểm. Thực vậy, vì yêu Chúa, Đức Mẹ bằng lòng chấp nhận mọi sự hiểu lầm của mọi giới người, chấp nhận những lời xuyên tạc, đàm tiếu có thể xảy ra, và chấp nhận ngay cả cái chết nữa. Cũng thế, vì yêu Chúa, Đức Mẹ dám hy sinh hạnh phúc gia đình, bởi vì lúc sứ thần đến truyền tin thì Đức Mẹ đang trong thời gian đính hôn với Giuse, bây giờ câu chuyện xảy ra thế này thì việc cưới xin làm sao thành được nữa, nhưng Đức Mẹ đã bằng lòng chấp nhận tất cả, chấp nhận không điều kiện, phó thác mọi sự cho Chúa. Chính vì thế Thiên Chúa đã lo liệu trọn vẹn cho Đức Mẹ, đây cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin và yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.

Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca “xin vâng’ để Mẹ trợ giúp: “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời. Xin Chúa cho chúng ta, dù làm gì, chúng ta luôn biết làm theo thánh ý Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin Mừng của Chúa.

 

45. Chân dung Gioan Tiền hô - Trầm Thiên Thu

Gioan cất tiếng hô vang:

Bạt đồi, xẻ núi, lấp sông, uốn đường

Để Ngôi Hai, Chúa thiên cung

Giáng trần cứu độ, yêu thương nhân loài

Thánh Gioan Tiền hô luôn gắn liền với Mùa Vọng như một “định mệnh”. Ông là người “mở đường” cho Chúa đến, là nhân vật quan trọng trong công cuộc Cứu độ của Thiên Chúa, nhưng ông lại rất khiêm nhường, không nhận mình là ngôn sứ hoặc là gì khác, chỉ tự nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:23) và “không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu” (Ga 1:27).

Thánh Gioan Tiền hô là một thanh niên trẻ nhưng nhìn rất “bụi” trong trang phục áo da thú, hẳn là nhìn ông rất khắc khổ vì ông ăn chay trường: Hàng ngày chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Có thể coi Thánh Gioan Tiền hô là Mặt Trăng, còn Chúa Giêsu là Mặt Trời, nhưng không hề “đối kháng” theo ý câu “như mặt trời và mặt trăng” khi chúng ta nói về 2 người đối lập. Mặt trăng sáng nhờ mặt trời, “mặt trăng” Gioan Tiền hô sáng nhờ “mặt trời công chính” Giêsu. Chúng ta là những ngôi sao bé nhỏ trong vòm trời yêu thương nên chắc chắn cũng chỉ sáng nhờ Mặt Trời Giêsu.

Thánh Gioan Tiền hô có “nét” độc đáo và khác người, ước muốn của ông cũng chẳng giống ai: Ông muốn Chúa phải LỚN lên, còn ông phải NHỎ lại. Đó là “chất riêng” của ông, không lẫn với ai. Ông quá khiêm nhường. Có lẽ đây là điều rất khó đối với chúng ta, vì chúng ta thường muốn mình nổi trội hơn người khác, ngay cả khi chúng ta làm những việc mà chúng ta gọi là “làm việc tông đồ”, làm việc bác ái hoặc làm từ thiện. Dù không nói ra, nhưng động thái của chúng ta chứng tỏ chúng ta “ngụ ý rằng “trước khi sáng Danh Chúa thì phải sáng danh con”.

Có lần Lm. Vinh sơn Ngô Minh Tân (Gx Bình Lợi, hạt Gia Định) nói trong một thánh lễ chiều (mùa Vọng, 2011): “Chúng tôi vẫn được dạy rằng linh mục luôn phải coi chừng vì có thể chính mình che choán hết Thiên Chúa!”. Con người dễ ảo tưởng và kiêu sa lắm, dễ suy luận chủ quan theo ý mình, vì thế mà lúc nào cũng phải “tỉnh thức” và phải dám “luôn luôn lắng nghe” để có thể “luôn luôn thấu hiểu”. Cương vị nào cũng khả dĩ có cách kiêu ngạo đặc thù. Mặc dù “con người chỉ là cây sậy có lý trí” nhưng “cái TÔI đáng ghét” kia vẫn sẵn sàng trỗi dậy bất kỳ lúc nào!

Người ta nói: “A-xít làm cháy tiền, tiền làm cháy tim phụ nữ, phụ nữ làm cháy tim đàn ông”. Một cách nói “độc đáo” thật. Còn Thánh Phaolô nói: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Tiền bạc có hệ lụy với quyền lợi, quyền lợi có hệ lụy với con người, vì thế mà tiền bạc có ma lực khiến người ta mê muội và kiêu ngạo. Có lẽ vì vậy mà người Pháp có câu: “Tiền bạc là đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu” (L’argent est un servant bon, mais un maitre mal).

Thánh Gioan Tiền hô là người có cuộc sống thoát ly tiền bạc, vật chất. Tài sản của ông chỉ có bộ áo da thú khoác trên mình. Ông sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, không lệ thuộc vật chất. Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20).

Con người có nhiều thứ giằng co trong mình, đôi khi cảm thấy mình như bất lực với chính mình. Chua biết rõ mười mươi, vì thế Ngài đã động viên: “Đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa” (Ga 14:1), và Ngài còn hứa rõ ràng và quyết liệt: “Thầy ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).

Lạy Đấng Thiên Sai, xin cho chúng con can đảm noi gương sống của Thánh Gioan Tiền hô. Xin Ngôi Hai mau đến cứu chúng con thoát khỏi ngục-tù-tội-lỗi. Chúng con cầu xin nhân Danh Đức Kitô. Amen.

 

46. Sứ mạng Mẹ Maria - Lm. Minh Vận, CRM

Trong Mùa Vọng, Giáo Hội trưng lại các bài Sách Thánh liên quan trực tiếp đến chương trình Ơn Cứu Độ nói chung, và đến việc nhân loại đang trông đợi Chúa Cứu Thế xuống trần gian nói riêng. Các nhân vật quan trọng được tường thuật trong các bài Sách Thánh này là tiên tri Isaia, Thánh Gioan Tiền Hô và song thân của ngài là Joachim và Anna, Sứ Thần Gabriel, Thánh Cả Giuse, và đặc biệt Đức Trinh Nữ Maria.

I. MẸ MARIA TRONG ƠN CỨU ĐỘ

Chúa Nhật sau cùng của Mùa Vọng, trông đợi Chúa Cứu Thế, Giáo Hội đặc biệt lưu ý chúng ta đến vai trò quan trọng và khẩn thiết của Mẹ Maria trong Nhiệm Cuộc Cứu Chuộc đã được thực hiện.

Để thấy rõ địa vị và sứ mạng quan trọng của Mẹ trong Chương Trình Cứu Độ của Chúa, chúng ta hãy tìm hiểu Thánh Kinh. Các nữ nhân anh hùng trong Cựu Ước như bà Esther, Judich được coi như là hình bóng của Đức Maria, đã một phần nào nói lên sứ mạng của Mẹ trong Chương Trình Cứu Chuộc. Nhưng chính tiên tri Isaia từ ngàn xưa đã được Chúa hướng dẫn, trực tiếp nói với Dân Riêng Chúa: "Hỡi Nhà David, chính Chúa sẽ ban cho các ngươi một dấu lạ, này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một Con Trai và tên Con Trẻ sẽ được gọi à Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7:14).

Trinh Nữ được diễm phúc sinh hạ Chúa Cứu Thế mà nhà tiên tri nói tới đây, chính là Đức Thánh Trinh Nữ Maria, Ngài là Đấng đã được Thiên Chúa sủng ái và đặc tuyển từ đời đời, trong thánh ý nhiệm mầu của Người, để làm Mẹ sinh ra Con Chúa, Đấng Thiên Chúa sai đến cứu chuộc muôn dân. Như vậy, chúng ta thấy vai trò của Mẹ thực quan trọng trong Chương Trình Cứu Chuộc của Chúa; quan trọng đến nỗi nếu không có Mẹ, nếu Mẹ không thưa lời "Xin Vâng" với Thiên Sứ Gabriel, ưng nhận làm Mẹ Chúa Cứu Thế, Chương Trình Cứu Chuộc của Chúa đã không thực hiện. Đành rằng, Thiên Chúa toàn năng có dư phương thế để cứu chuộc chúng ta, mà không cần bất cứ một thụ tạo nào chung tay góp sức; nhưng theo sự an bài khôn ngoan và nhiệm mầu, Chúa đã đặc tuyển Mẹ làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế và cộng tác với Người để cứu chuộc chúng ta.

Thánh Gioan, vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế được thánh hóa và giải thoát khỏi nguyên tội, đã hân hoan nhảy mừng ngay lúc còn trong lòng thân mẫu, cũng là nhờ lời chào chúc và cuộc thăm viếng của Mẹ Maria, khi Mẹ đang cưu mang Chúa trong lòng, đến viếng thăm gia đình.

Vậy, để chúng ta được diễm phúc đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm Đấng Cứu Thế, để chúng ta được Ơn Cứu Rỗi, được trở nên con Chúa, được đạt tới đích thánh thiện theo thánh ý Chúa, chúng ta càng cần phải có Mẹ Maria, phải cậy nhờ Mẹ.

Mẹ đã trở nên Đấng Đồng Công với Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình Cứu Chuộc và Thánh Hóa chúng ta, không phải do bản tính đòi buộc, nhưng do ơn Thiên Chúa đặc tuyển.

II. ĂN QUẢ NHỚ KẺ TRỒNG CÂY

Chúng ta được Mẹ trao ban Chúa Giêsu, Quả Phúc bởi lòng Mẹ, Đấng là nguồn Ơn Cứu Độ và Ơn Thánh Hóa. Nếu Mẹ không tự do ưng nhận làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã không có cơ hội nhập thể làm người, mang thân xác như chúng ta, để Ngài có thể sống kiếp sống con người, gánh lấy mọi tội lỗi tật nguyền, lãnh lấy mọi khổ nhục và chịu chết, đền tạ phép công bình Thiên Chúa, cứu chuộc và thánh hóa chúng ta, thì bây giờ toàn thể nhân loại còn đang ngụp lặn trong vùng thâm u tội lỗi, bị thống trị dưới ách nô lệ Satan và quyền lực hỏa ngục.

Nếu Mẹ không ưng thuận làm Mẹ Chúa Cứu Thế và đồng công cộng tác với Người để cứu chuộc chúng ta, thì bây giờ chúng ta cũng còn đang sống mò mẫm trong bóng đêm dầy đặc của sự tin vơ thờ quấy trong thời man rợ, mang danh kẻ phản bội, kẻ chống đối Thiên Chúa, để đáng lãnh nhận án trầm đọa hỏa ngục muôn đời.

Vậy, "Uống nước nhớ nguồn" và "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Chúng ta được diễm phúc lãnh nhận Chúa Cứu Thế, được hưởng nhờ Ơn Cứu Chuộc và Ơn Thánh Hóa, được trở nên con Thiên Chúa, được Chúa hứa ban hạnh phúc vĩnh cửu trên Quê Trời, cho những con cái trung thành phụng sự và yêu mến Người, đều do công ơn của Mẹ Maria. Chúng ta hãy dâng niềm tri ân lên Mẹ, đặt hết lòng tin tưởng phó thác nơi Mẹ, sống với Mẹ như một người con ngoan thảo, luôn tha thiết phụng sự yêu mến Mẹ.

III. YÊU MẾN LÀ NÊN GIỐNG MẸ

Để thể hiện niềm tri ân chúng ta dâng lên Mẹ, để tỏ lòng con ngoan thảo luôn tha thiết phụng sự yêu nến Mẹ, chúng ta hãy trở nên giống Mẹ, hãy sống như Mẹ đã sống, hãy làm điều Mẹ đã làm, hãy muốn điều Mẹ đã muốn. Vậy Mẹ đã sống thế nào? Mẹ đã làm gì? Mẹ đã muốn gì?

Suốt cuộc đời, Mẹ đã hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Mẹ đã thánh hiến toàn thân và trót cuộc sống của Mẹ, để cộng tác với Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình cứu chuộc, để làm vinh danh Thiên Chúa Cha và cứu chuộc nhân loại. Còn chúng ta, chúng ta đã lấy thánh ý Chúa làm lẽ sống cho cuộc đời chúng ta chưa?

Mẹ đã chu toàn sứ mạng đó với một khát nguyện duy nhất là làm hài lòng Thiên Chúa, làm trọn thánh ý Ngài, Mẹ chỉ muốn điều Chúa muốn, chỉ làm điều Chúa muốn. Lời Mẹ đã thưa với Sứ Thần trong Ngày Truyền Tin: "Này tôi là Nữ Tỳ Chúa, Tôi xin vâng như lời Ngài truyền". Lời đó đã trở nên lẽ sống, luôn chỉ huy chi phối và hướng dẫn Mẹ trong trót cuộc sống.

Vậy chúng ta hãy nên giống Mẹ, chỉ muốn điều Chúa muốn, làm điều Chúa muốn và chỉ khát khao làm hài lòng Chúa như Mẹ. Dù đời sống có gặp may mắn hay nghịch cảnh, dễ dàng hay khó khăn, xuôi thuận hay bất trắc, vui sướng hay sầu khổ, hạnh phúc hay bất hạnh, chúng ta cũng hãy đón nhận tất cả vì lòng yêu mến Chúa và chu toàn thánh ý Ngài, rồi thưa với Chúa như Mẹ: "Này con đây là con Chúa, con xin vâng như lệnh Chúa truyền". Đó là tất cả bí quyết làm hài lòng Chúa và sống hạnh phúc trên trần gian.

Kết Luận

Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến, Người Mẹ rất quyền thế trước tôn nhan Chúa, là chính Mẹ Con Một Chúa nhập thể, Đấng Cứu Độ chúng ta. Mẹ là Đường dẫn chúng ta đến với Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được trở nên con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng tỏ cho chúng ta thánh ý Chúa và hướng dẫn chúng ta biết sống đẹp lòng Người.

 

47. Tôi tớ

Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại, có một vấn đề được đặt ra là phải nói lời gì khi bốc máy trả lời điện thoại. Ông Bell đề nghị người trả lời nên chào là “Ahoy!” Tiếng này nghe hơi lạ tai! Có lẽ cũng từ tiếng “Ahoy” và Hello” phát sinh ra tiếng “Alô”?

Tiếng “Hello” sau này mới xuất hiện do Thomas Edison, người khám phá ra điện và là một người bạn thân đang giúp ông Bell cải tiến kỹ thuật điện thoại. Tiếng “Hello” đầu tiên xuất hiện trong văn chương vào năm 1880. Nhà văn Mark Twain đã gọi những thiếu nữ làm ở tổng đài điện thoại là những “hello girls”. Sau cùng, vào năm 1883, tiếng “Hello” được đưa vào tự điển. Và bây giờ, trên 100 năm sau, nó là một trong những tiếng được sử dụng phổ thông nhất trên thế giới.

Phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. Chắc chắn lúc sứ thần mới gặp Maria, cô khoảng 14 tuổi, tuổi choai choai, ngài không chào là “Hi” hay “Hello”, mà Thánh Kinh kể rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước…” Lời chào thật trang trọng và tôn vinh vì cô bé choai choai 14 tuổi đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.

Theo bài Phúc âm diễn tả, Maria một cô con gái trẻ, nhà quê, lại đón nhận một ơn gọi vĩ đại chưa từng có. Cô được sứ thần cho biết rằng sẽ đóng một vai trò duy nhất trong lịch sử loài người. “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc… Nầy Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao… Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”. Nghe những lời như vậy, Maria khiếp sợ và bối rối, liền hỏi: “Việc đó xảy đến thế nào được?” Nhưng khi nghe sứ thần khẳng định rằng người nói thay cho Thiên Chúa, Maria hoàn toàn chấp nhận ý của Thiên Chúa với lòng vô cùng khiêm tốn: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tức thì Đấng Cứu Thế bắt đầu thực hiện chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.

Trong Hiến Chế về Giáo Hội, Lumen Gentium đoạn 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria như sau:

Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Do sự tuân phục của mình, Mẹ đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và sau cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Cái gút do sự bất tuân phục của bà Evà đã được tháo cởi do sự vâng phục của Đức Maria; cái mà trinh nữ Evà đã thắt gút do sự cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo cởi do niềm tin của mình”. So sánh Đức Maria với bà Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường tuyên bố rằng: “Do Evà có sự chết, do Maria có sự sống”.

Theo sự giảng dạy của các Giáo Phụ, Công Đồng coi câu chuyện Truyền Tin rất quan trọng, vì nhận thấy ở thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội tiên khởi đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận tự do trong ân sủng của Đức Maria. Sự chấp nhận tự do này là tiếng nói then chốt trong câu chuyện, nhưng đồng thời còn là bài học tóm lược tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong chúng ta. Theo gương Đức Maria, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế, chúng ta vừa tích cực cộng tác mà không tự mãn”.

 

48. Xin vâng trong niềm tin và hy vọng

Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng năm Phụng vụ. Nếu như hai Chúa nhật trước Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt nổi bật là Gioan Tẩy Giả, thì Chúa nhật thứ này chúng ta được giới thiệu một khuôn mặt nổi bật hơn. Khuôn mặt ấy chính là Đức Maria – một mẫu gương sống động về niềm tin và hy vọng.

Có lẽ, đoạn Tin mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay rất quen thuộc với từng người tín hữu chúng ta. Bởi vì, đây là một trong những biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đức Maria đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa qua lời của thiên sứ Gariel. Lời mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ con người. Lời mời gọi làm mẹ Con Thiên Chúa làm người.

Đức Maria đã đáp lời thiên sứ: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc 1, 38). Với lời thưa này, Mẹ không đáp trả một cách bộp chộp nhưng hoàn toàn có suy nghĩ chín chắn. Bằng chứng là Mẹ đã có đối thoại với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" (Lc 1, 34). Sau khi nhận ra đây là thánh ý Thiên Chúa, Đức Maria đã hoàn toàn xin vâng theo ý Chúa.

Mặc dù trước mắt Mẹ sẽ phải trả giá trước dư luận: "chưa chồng mà có chửa". Mẹ tin tưởng và hy vọng Thiên Chúa sẽ có cách làm cho Mẹ đủ sức vượt qua khó khăn thử thách này. Hơn thế nữa Mẹ tin tưởng và hy vọng qua người con Mẹ sinh ra sẽ đem đến cho nhân loại một bầu khí mới. Và đúng vậy, những gì Mẹ tin tưởng và hy vọng đã hoàn toàn trở nên sự thật. Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại một sức sống mới. Một sức sống không một ai ở trần gian này có thể làm được.

Chúng ta còn nhớ trong năm vừa qua Đức Thánh Cha Beneđicto 16 đã ra Thông điệp Niềm hy vọng Kitô giáo. Trong thông điệp này ngài kêu mời các con cái mình hãy sống tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Có tin tưởng và hy vọng vào Chúa đời sống hiện tại của chúng ta mới có thể thay đổi. Đời sống thay đổi theo những gì Chúa khuyên dạy.

Mỗi người chúng ta hãy tiếp tục sống những ngày còn lại của mùa vọng trong niềm tin và hy vọng vào Chúa như gương Đức Maria. Để rồi Lễ Giáng Sinh sắp tới thật sự là một Đại lễ theo đúng nghĩa của nó.

 

49. Tôi tớ

Trong “Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18” năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưói chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. “Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ”.

Với thái độ khiêm tốn, vâng lời và tin tưởng, Đức Maria đã đáp lại ơn gọi Thiên Chúa kêu mời, trái ngược với sự bất tuân, thiếu niềm tin và kiêu ngạo của bà Evà. Thánh Kinh đã lên án sự kiêu căng, tự cao tự đại, vì nó phát xuất ra những dối trá, lừa đảo để dành lấy cho mình cái mà tự sức mình không có hay không thể có được. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ người tín hữu thành Galat: “Ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, là lừa gạt chính mình”. Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa! Người được chấp nhận không phải là kẻ tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao”. Và Chúa Giêsu cũng khuyên: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Cách đây ít lâu, tờ St. Peterburg Times có thuật lại một câu chuyện được chia sẻ bởi Don Shula, ông bầu của đội football Miami Dolphins. Ông là một người rất danh tiếng. Trong giới thể thao nói riêng, trong nước Hoa Kỳ nói chung, ai cũng biết đến tên Don Shula. Ông giữ chức ông bầu đội Miami Dolphins từ năm 1970 và đã từng thắng ít nhất hai trận cầu ở giải Rose Bowl, Pasadena.

Hôm đó ông cùng với vợ và năm người con đang nghỉ xả hơi nơi một thành phố nhỏ tại tiểu bang Maine. Buổi sáng trời mưa buồn, ông đem cả gia đình đi xem chiếu bóng tại rạp hát duy nhất trong thành phố. Lúc ấy, trong rạp hát đã có sáu người đến trước ông. Ông Shula vừa bước chân vào thì tất cả đều đứng lên vỗ tay reo hò chào mừng. Ông Shula vẫy tay chào và mỉm cười cùng họ cách khoái trá. Ngồi xuống, ông nói với bà vợ: “Mình ở xa đây cả ngàn cây số, mà ai cũng biết đến và kính trọng, đến nỗi vừa thấy mình bước chân vào rạp hát là họ đứng dậy chào và vỗ tay hoan hô mình. Hẳn là họ đã thưởng thức những trận cầu hiển hách của đội Dolphins trên màn ảnh tivi”.

Sau đó, một người tiến đến bắt tay chào ông Shuha. Mặt mày hớn hở, ông Shuha nói: “Làm sao ông bạn có thể nhận diện được tôi?” Người kia trả lời: “Tôi đâu có biết ông là ai. Nhưng khi thấy ông và gia đình bẩy người bước váo rạp hát, chúng tôi đứng lên vỗ tay reo mừng, vì vài phút trước khi ông tới, người quản lý rạp hát nói với chúng tôi rằng sáng nay sẽ không có xuất movie nào, trừ ra có thêm bốn khán giả nữa”.

Bấy giờ, ông Shula mới tỉnh ngộ. Ông nói: “Tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. Thì ra họ vừa đứng lên vỗ tay reo mừng, không phải reo mừng tôi, nhưng là reo mừng chính họ, vì họ đã có đủ điều kiện để được xem chiếu bóng”. Thật là chua chát thay! Ông Shula bây giờ mới cười nhạo mình. Ông đã hạ mình xuống, đầy lòng khiêm nhường, viết ra bài chia sẻ với chúng ta về sự thật buồn cười đã xảy ra cho ông.

Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: “Kiêu ngạo biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Khiêm nhường làm cho con người thành thiên thần”. Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường trong đường tu đức như sau: “Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường”.

Chúa Giêsu “ đang khi đến trong thế giới này” Ngài đã thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”. Ngài hoàn toàn hy sinh mạng sống để thi hành thánh ý của Đức Chúa Cha. Ngài đã mang lấy sứ mạng của Người Tôi Tớ hiền lành và khiêm nhường để cứu chuộc nhân loại. Đây là con đường linh đạo cho tất cả mọi người Kitô hữu.

Trong sứ điệp nhân ngày cầu nguyện cho ơn Thiên triệu lần thứ 40, 11/5/2003. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hướng về Đức Maria, Tôi Tớ Thiên Chúa, như một gương mẫu của các bạn nam nữ sẵn sàng đáp lời mời gọi của Chúa để phục vụ cho Tin Mừng với lời kinh nguyện:

“Lạy Mẹ Maria, nữ tì khiêm hạ của Thiên Chúa Tối Cao, Người Con mà Mẹ hạ sinh đã biến Mẹ thành người tôi tớ của nhân loại. Cuộc đời Mẹ là một sự phục vụ khiêm tốn và quảng đại. Mẹ là người tôi tớ của Lời khi thiên thần loan báo cho Mẹ biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ là người tôi tớ của Chúa Con, khi ban cho Người sự sống và luôn hướng về mầu nhiệm của Người. Mẹ là người tôi tớ của Đấng Cứu Chuộc, khi dũng cảm đứng dưới chân thánh giá, kề bên Người Tôi Tớ Đau Khổ và Con Chiên, Đấng hy sinh chính mình vì yêu thương chúng con. Mẹ là người tôi tớ của Hội Thánh vào ngày lễ Hiện Xuống và với lời chuyển cầu Mẹ tiếp tục sinh ra Người trong mọi tín hữu, cả trong thời đại khó khăn và nhiễu nhương này của chúng con.

Ước gì những người trẻ của thiên niên kỷ thứ ba hướng nhìn lên Mẹ, người thiếu nữ của Irael, Đấng biết đến sự xao động của một tâm hồn trẻ khi đối diện với kế hoạch của Thiên Chúa hằng sống. Xin làm cho họ biết chấp nhận lời mời gọi của con Mẹ là trao ban trọn vẹn đời sống mình vì vinh quang của Thiên Chúa. Xin làm cho họ hiểu rằng phục vụ Thiên Chúa làm thoả mãn tâm hồn, và chỉ trong việc phục vụ Thiên Chúa và Vương Quốc của Người mà chúng con hoàn thành cuộc đời chúng con theo kế hoạch của Thiên Chúa, và đời sống nên một bài ca tụng vinh quang dâng lên Người”. (Bản dịch của lm John Du Sinh).

 

50. Mẹ Maria với chương trình của Thiên Chúa

Một vị vua biết yêu thương dân thì muốn biết đích xác về cuộc sống của thần dân mình. Những vị vua đó thỉnh thoảng vi hành để nắm rõ thực trạng của dân chúng. Còn Thiên Chúa đối chúng ta thì sao? Chúa không chỉ đi thăm dân mà còn sống thân phận của người dân, trở nên như phàm nhân ngọai trừ tội lỗi để cứu dân mình khỏi khổ đau và quyền lực của bóng tối sự chết. Để thực hiện điều đó, Chúa đã chọn dân tộc Israel và sai các tiên tri dạy dỗ, hướng dẫn họ sống đạo đức để có thể đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Ngài đã sai Tổng lãnh Thiên thần Raphae đến một làng nhỏ miền Galilê và truyền tin cho Trinh nữ Maria biết ý định của Ngài.

Đức Maria đã vui mừng về ơn cứu độ của Chúa và đã nhận lời cưu mang Đấng Cứu Thế. Dù Mẹ có thể gặp khó khăn khi mang thai nhưng mẹ hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu. Ngay lúc Thánh Giuse định bỏ đi thì Thiên Thần Chúa can thiệp: báo mộng cho Giuse về ý định của Chúa: hãy rước Maria về nhà vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse hiểu ý Chúa và đón Đức Maria về nhà mình làm bạn mình và nhận Đức Giêsu làm con về mặt pháp lý.

Đâu ai ngờ được đường lối Chúa: vì yêu thương nhân loại đã không ngại xuống trần làm trẻ thơ và chịu những đắng cay của cuộc sống trần gian như chúng ta. Còn hơn thế nữa, Ngài đã chịu những khổ đau như những người đau khổ nhất: sinh nơi chuồng bò lừa, nằm trên máng cỏ! Đức Maria tin tưởng nơi chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Khi nhận vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã không đòi biết trước chương trình của Chúa nhưng chỉ hỏi để biết rõ ý Chúa muốn mình làm. Mẹ sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ: này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. Mẹ vâng phục rất là mau mắn. Việc thụ thai bởi quyền năng Chúa mà không qua kết hợp phái tính chưa từng xảy ra trên trần gian: một người nữ có con không do sự kết hợp phái tính, nhưng mẹ không thắc mắc thêm cũng không hỏi lại xem mình có nghe lầm không! Khác với Giacaria: chuyện có con trong lúc tuổi già đã từng xảy ra cho Abraham. Tuy cũng là một việc thụ thai kỳ lạ nhưng có thể dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, Mẹ đã chấp nhận thánh ý với lòng đơn sơ phó thác nơi quyền năng trong niềm tin vào Chúa. Mẹ tin rằng: đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được(St 18,14)

Noi gương Đức Maria, chúng ta vâng theo kế hoạch kỳ diệu của Chúa đối với mọi người chúng ta. Chúa không để chúng ta phải thiệt thòi nhưng luôn muốn ban ơn thật nhiều cho chúng ta. Chúng ta có dám nhận và và phát triển ơn Chúa ban đó để cuộc đời chúng ta nên tươi sáng và giống Chúa ngày một hơn không. Chúng ta tự hỏi xem Chúa muốn chúng ta ở địa vị nào trong xã hội, với ơn gọi và những bổn phận nào là xứng hợp với chính mình. Nếu Chúa muốn sai tôi làm công việc bác ái, giúp đỡ anh em tôi có vui lòng làm mà không đòi điều kiện không? Nếu Chúa muốn tôi sống nghèo giống Chúa Giêsu, tôi sẽ có thái độ nào. Nếu Chúa đặt chúng ta ở địa vị cao hơn, chúng ta có biết phục vụ Chúa và mọi người đúng mức không?

Lạy Mẹ Maria, chúng con quyết noi gương Mẹ luôn tin tưởng phó thác vào Chúa, cho dù con gặp gian truân xin Mẹ giúp con luôn giữ lòng trung tín mến yêu, cậy trông nơi quyền năng và sự xếp đặt của Chúa.

 

51. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

YÊU CUỘC ĐỜI, YÊU CON NGƯỜI

Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Đức Giêsu. Đang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.

Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?

Vậy mà Giáo Hội Kitô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1, 14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người"

Đức Giêsu, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Đức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Đấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Đối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Kitô Giáo lại khẳng định: Điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 1, 23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.

Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hướng về Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26 - 38: Truyền tin cho Đức Maria để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô Giáo. Đoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Đức Maria, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong Chúa Nhật này muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.

Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Đức Maria, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xinai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.

Thánh Luca dùng từ "bao trùm lên" không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Đức Maria với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Đức Maria, nơi Đức Giêsu cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Đức Giêsu bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Đức Maria tạo nên hình hài Đức Giêsu. Đức Giêsu mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Đức Maria và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.

Bài đọc 1 trong sách 2 Sm 7, 1-16: Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavít muốn xây cho Ngài; nhưng traí lại, Thiên Chúa hứa cho Đavít một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavít. Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa, nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó cũng là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong bài đọc 2, Thư Rm 16, 25 - 27.

Qua lời "Xin Vâng" của Đức Maria, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Đau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Đức Giêsu đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phaolô trong Thư Gl 4, 4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Đó là niềm tin vững chắc của người Kitô hữu hơn 20 thế kỷ qua.

Đức Giêsu đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Đức Giêsu, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết" (Ga 15, 15).

Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Đức Giêsu không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.

Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Đức Giêsu mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Đức Giêsu. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Đức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.

Xin Đấng Emmanuel giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.

 

home Mục lục Lưu trữ