Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 49

Tổng truy cập: 1366515

MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI

MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI– ViKiNi

 

 

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Tình yêu là đề tài được bàn đến nhiều nhất trên đời này. Những tác phẩm hay nhất thế giới là nhờ mô tả những chuyện về tình yêu. Thi phẩm Ôdyssê của Hy lạp nổi tiếng là nhờ ca tụng tình yêu của Ulyssê và Pênêlốp. Anh hùng ca Râmâyana của Ấn độ đã truyền tụng tình yêu tuyệt vời của hoàng tử Rama và công chúa Sita. Đại văn hào Shakespeare trở nên bất hủ là nhờ diễn tả tình yêu của Roméo và Juliette. Nguyễn Du được thời danh tới tam bách chu niên cũng nhờ diễn tả tình yêu trong truyện Kiều. Những lâu đài kỳ quan nhất thế giới cũng được xây dựng vì tình yêu. Như Kim tự tháp Ai Cập và Taj-Mahal Ấn Độ.

Tại sao tình yêu được nổi bật nhất trong văn hóa nhân loại như vậy? Thưa, vì không sinh hoạt nào, khuynh hướng nào trong con người mạnh mẽ, phong phú và bao la vô hạn bằng tình yêu, và con người được tạo dựng, được sinh ra cũng là do tình yêu.

Cảm xúc vui buồn thì chóng tan, trí khôn con người chỉ khám phá ra được những phát minh vật chất, ý chí của các thế hệ hiện đại mới chỉ tới được một vài hành tinh. Nhưng tình yêu con người có thể bao quát hết mọi người trong trời đất, yêu hết muôn vật trong vũ trụ, và vượt ra ngoài vũ trụ lên tới trời cao vô tận là Thiên Chúa, vì tình yêu con người đã được cưu mang, sinh ra do tình yêu Thiên Chúa. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (Ga. 4, 7). Vì thế, con người có thể vừa mến Chúa vừa yêu người. Nhưng làm thế nào đạt được tới tình yêu kỳ diệu đó?

Chính Đức Giêsu đã hướng dẫn ta:

1. Mến Thiên Chúa thì ta phải:

Thứ nhất: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy … Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy … Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga. 14, 15-21. 23).

Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là người thực thi lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Lời Chúa được biểu lộ rõ ràng nhất trong bốn cuốn sách Tin mừng. Giới răn của Chúa được tóm gọn trong Mười Điều Răn và Tám Mối Phúc thật.

Thứ hai: Mến Chúa là sống kết hợp với Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 15, 5). Người ta nói: “Xa mặt cách lòng” – Không thấy nhau thì chẳng có thể yêu nhau. Không nhớ nhau thì đâu có luyến tiếc gì. Cho nên muốn yêu nhau thì ở gần nhau hay luôn tưởng nhớ nhau: “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Đó là lời cầu nguyện của đứa con hiếu thảo tha thiết yêu cha mẹ, muốn sống với cha mẹ mãi mãi. Lòng yêu mến đó dù khi phải sống xa cha mẹ, vẫn không cách lòng: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Không lạ gì Đức Giêsu dạy ta mến Chúa theo cách thứ hai này: “Mến Chúa kết hợp với Chúa như cành với cây. Kết hợp với Chúa, không phải bằng thể xác, nhưng bằng tinh thần, đó là hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Kết hợp với Chúa đến tột độ hết sức lực ngươi. (Mc. 12, 30).

Thứ ba: Lòng mến Chúa hết sức lực phải được chứng tỏ bằng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt. 16, 24).

Tình yêu thí mạng sống mình vì mến Chúa mới thật là mến Chúa hết sức lực. Đức Giêsu đã đòi Phêrô thực hiện tình mến Chúa đó, khi Người hỏi Phêrô ba lần: “Phêrô, con có mến Thầy hơn các người này không?”. Phêrô đã hết sức đáp lại ba lần: “Thưa Thầy có, Thầy biết con mến Thầy”. Nhưng mến Chúa không phải bằng môi bằng miệng mà bằng việc làm, bằng sống chăm sóc và thí mạng sống cho đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Cho đến khi về già, Phêrô sẽ phải giang tay ra trên thập giá như Thầy (Ga. 21, 15-18).

2. Yêu người thì ta phải:

Thứ nhất: sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt. 7, 12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc. 12, 30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và ích lợi. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa vậy yêu người cũng phải làm những điều đó cho người.

Thứ hai, yêu người còn phải sống theo gương mẫu của Đức Giêsu mới đúng là yêu người một cách tuyệt hảo: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga. 15, 12-13).

Đấy mới là thước đo yêu người cách khách quan chính xác. Yêu người như chính mình, chỉ là thước đo chủ quan và còn nhiều thiếu sót, vì mình còn nhiều khuyết điểm, còn nhiều đam mê xấu tai hại. Nếu lôi cuốn người ta theo những tật xấu của mình, theo những gương mù của mình, thì đáng bị buộc cối đá vào cổ mà liệng xuống biển. Yêu người như chính Thầy, như chính Đức Giêsu đã yêu người, thì Đức Giêsu đã nên giống chúng ta, nên một xương một thịt với chúng ta, nhập thể vào loài người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi (Ga. 1, 14 Dt. 2, 5-12; 4, 1-10). Để thông cảm với kẻ ngu muội, lầm lạc, để đồng bàn với kẻ tội lỗi là chúng ta “Ta đến để cứu chữa kẻ tội lỗi”, để phục vụ làm tôi tớ mọi người. “Các anh cứ về tường thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng” (Mt. 11, 4-5).

Chẳng những người phục vụ, cứu chữa mà còn chịu chết đền tội cho chúng ta: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc. 10, 45). Người đã chết thay cho kẻ có tội, chết thay cho chúng ta, để chúng ta được sống và được sống dồi dào (Rm. 5, 1-11 ; 2Cr. 5, 14).

Đức Giêsu yêu người bằng phục vụ hy sinh đền tội bằng cứu chữa và ban sự sống dồi dào. Lạ lùng hơn nữa, Người còn cho chúng ta được nên giống Người, là bạn hữu của Người, là nên một với Người, như chi thể của Người, được đồng thừa tự với Người, được làm con Chúa Cha. Đức Giêsu yêu mến và tôn vinh con người đến chừng nào. Đó là tình yêu vô cùng, không thể diễn tả được.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho tình yêu người của con tuôn chảy từ tình mến Chúa. Xin ngọn lửa tình yêu của Thánh Tâm Chúa bừng cháy lên khắp cả đầu đến chân con, khắp cả tâm hồn đến thân xác con, suốt từ sáng tới chiều, suốt cuộc đời từ trẻ tới già, thấu suốt tận nội cung riêng tư đến mọi phận sự và cộng đồng của con. Amen.

 

7. Mến Chúa yêu người.

Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hai khía cạnh của một giới răn, đó là lòng mến Chúa và tình thương người.

Trước hết là lòng mến Chúa.

Trong Cựu ước Chúa phán bảo người Do Thái: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng và hết sức ngươi. Trong Tân ước Chúa Giêsu cũng bảo: Giới răn trọng nhất đó là ngươi hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và trí khôn ngươi.

Thánh Gioan vị tông đồ, thấu triệt được đường lối của Chúa Giêsu, đã viết: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai ở trong tình yêu thì người ấy ở trong Thiên Chúa. Và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy mặc lấy đức ái, là giềng mối mọi sự trọn lành.

Như thế, chúng ta thấy lòng mến Chúa là mục đích chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống trần gian hay nói cách khác, đó chính là sự thánh thiện vậy. Qua giòng thời gian, các thánh, là những người đã xác tín được cái chân lý ấy và đã ra sức thực hiện trong lòng cuộc đời của mình.

Thánh nữ Têrêsa đã viết: Tôi hiểu rằng Giáo Hội có một trái tim, trái tim ấy bùng cháy ngọn lửa tình yêu… Tôi hiểu rằng chỉ tình yêu mới làm cho các chi thể hoạt động. Nếu tình yêu mà lịm tắt, thì các vị tông đồ không còn đi loan báo Tin mừng, các vị tử đạo không còn đổ máu ra để làm chứng cho Phúc âm. Lòng mến này được biểu lộ qua việc chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa bằng những tâm tình cầu nguyện. Nhất là được biểu lộ qua việc chúng ta thực thi thánh ý Chúa, mỗi khi chúng ta làm một việc dù là nhỏ mọn nhất. Chúng ta hãy biết thân thưa với Chúa như thánh nữ Bernadetta: Lạy Chúa, xin cho con biết chu toàn mọi việc vì lòng yêu mến Chúa.

Người ta kể lại thánh Arcadio, khi bị dẫn tới pháp trường, ngài đã bình tĩnh chấp nhận bị khổ đau, rồi ngài nói với những người đứng chung quanh: Chết vì Chúa là được sống, khổ vì Chúa là được hạnh phúc.

Tiếp đến là tình thương người.

Trong Phúc âm Chúa phán: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi. Các ngươi hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.

Thánh Augustinô đã giải thích tư tưởng của Chúa như sau: Tình thương là dấu chỉ duy nhất để phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỉ. Mặc cho những ai cứ làm dấu thánh giá trên trán, cứ chịu phép rửa tội, cứ vào nhà thờ, nhưng chỉ có tình thương mới phân biệt được ai là con cái Thiên Chúa.

Đức Giám mục Bossuet cũng nhấn mạnh: Ai chối bỏ tình thương là chối bỏ đức tin. Ai chối bỏ đức tin là sống ngoài Giáo Hội. Bởi vì như lời thánh Gioan đã diễn tả: Anh em là những người họ trông thấy mà họ chẳng yêu thương, thì làm sao họ có thể kính mến Thiên Chúa Đấng mà họ chẳng hề trông thấy bao giờ.

Bên Âu Mỹ, người ta thử nuôi những trẻ sơ sinh bằng máy dưỡng nhi thay cho người. Với những máy móc ấy, con trẻ được nuôi một cách rất khoa học. Ăn uống đầy đủ, vệ sinh chu đáo. Thế mà đứa trẻ cứ mỗi ngày một ốm o gầy mòn, biếng ăn kém ngủ. Thế nhưng, khi người ta thêm vào trong phòng một cái máy phát ra những tiếng động như nhịp đập của trái tim người mẹ, thì các em trở lại bình thường, ăn ngon ngủ kỹ, da dẻ hồng hào. Như vậy cái yếu tố thiết yếu trong cuộc sống là yêu và được yêu.

Kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Thực hiện được hai điều ấy là chúng ta đã chu toàn được mọi lề luật, và mọi lời Chúa truyền dạy.

 

8. Yêu mến Chúa hết lòng

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng?

Đề tài được đem ra đây thảo luận vẫn hoàn toàn nằm trong phạm trù Cựu Ước. Thầy kinh sư am tường Sách Thánh và luật Mô-sê đặt cho Đức Giêsu một câu hỏi mang tính lý thuyết liên quan tới hiểu biết suy luận nhiều hơn: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Câu trả lời không khó, chỉ cần trích dẫn hầu như nguyên văn sách Đệ Nhị Luật chương 6 câu 4-5 là đã có được câu trả lời hoàn hảo: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh, hết lòng, hết dạ, hết sức anh” (Đnl 6:4-5). Ngay cả điều răn thứ hai mà Đức Giêsu muốn nối kết với điều răn đứng đầu cũng không xa lạ gì. Nó được tìm thấy trong sách Lê-vi chương 19 câu 18b: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Xét về mặt hiểu biết, ông kinh sư không thua kém gì Đức Giêsu, thậm chí ông còn xử dụng một đoạn Sách Thánh khác để bổ túc cho câu trả lời thêm rõ: “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ ta” (I-sai-a 45:5; Đnl 4:35). Cuộc thảo luận lý thuyết đó rốt cuộc chẳng dẫn tới kết quả nào khả quan, ngoài lời khích lệ bâng quơ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”

Vấn đề mà nhiều người chúng ta đặt ra trong tư cách là Kitô hữu, không nằm trong phạm trù suy tư lý thuyết, nhưng cụ thể và hiện sinh hơn: làm cách nào mà tôi có thể ‘yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi’,ngay trong đời sống thường ngày? Thiết tưởng, khi Đức Giêsu đến trần gian và thành lập Hội Thánh, Người không nhằm mục đích dạy một điều, cho dầu rất căn bản đi chăng nữa, nhưng đã được ghi chép quá rõ ràng trong Sách Thánh Cựu Ước. Cuộc sống dương thế của Người, và nhất là cái chết Thập Giá, chính là để trả lời cho nghi vấn cụ thể mang tính hành động trên trên, điều mà Cựu Ước chỉ mới làm cách hết sức sơ sài.

Yêu mến, tự nó, không thể bị ép buộc bởi một mệnh lệnh từ bên ngoài: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa”; tình yêu không thể được điều khiển bằng lý trí! Hơn nữa, ngay cả Đệ Nhị Luật cũng chỉ dám khuyên ‘hãy yêu mến Đức Chúa’. Khi ban hành Thập Giới, Đức Chúa Gia-vê đã trưng viện lý do: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa cứu ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Chính Thập Giới cũng không đòi ‘phải yêu mến Thiên Chúa’, mà chỉ qui định việc ‘phụng thờ Người’; vậy thì, khi xác định ‘điều răn’ này hẳn Đức Giêsu phải dựa trên một lý lẽ lớn hơn việc ‘đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’ rất nhiều. Đúng thế! tình yêu chỉ có thể bị cưỡng ép bởi tình yêu; vì chỉ có tình yêu mãnh liệt cháy bỏng, một khi được biểu lộ và minh chứng cách cụ thể, mới có sức trói buộc mà thôi. Đức Giêsu hiểu rất rõ điều này nên Người hằng mơ ước giờ phút Thập Giá, giờ phút mà Người gọi là ‘kairos’, tức là ‘giờ của Người’; vì chỉ trên thập giá, Người mới cống hiến được bằng chứng về một tình yêu tự hiến trọn vẹn: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Bằng cái chết tự hiến đó, Người mới có thể cuốn hút mọi người vào giao ước tình yêu song phương; “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Chỉ như thế, điều răn “phải yêu mến Đức Chúa” mới có được cái sức ràng buộc thật sự!

Nói như vậy cũng đồng thời là lời giải đáp cho một trong các vấn nạn mà từ lâu nay nhiều tín hữu, thậm chí cả tu sĩ linh mục vẫn hằng ấp ủ: ‘làm thế nào mà tôi có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng’. Nếu tình yêu không thể bị ép buộc, thì dầu nỗ lực hay cố gắng tới mấy, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể yêu mến Thiên Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ mình! Điều duy nhất cho phép tôi ‘yêu hết lòng’ là nghiệm ra tình yêu Chúa hiến mình cho tôi càng sâu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, để qua đó tôi sẽ cảm thấy mình bị thúc ép, bị lôi cuốn đáp trả tình yêu này. Phải chăng đó là nội dung của Giao Ước Mới: một ký kết tình yêu giữa Thập Giá và mỗi chúng ta? Tông đồ Gio-an đã dành nhiều nỗ lực để cảm nghiệm thứ tình yêu đó trước khi viết về giới luật yêu thương. Trong lá thư 1 ngài viết. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biệu lộ như thế này… Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10). Phao-lô cũng nói tới một thứ tình yêu thúc bách: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi… Vì Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15).

Vậy thì, ‘Yêu Chúa hết lòng’ phải xuất phát từ chiêm ngắm và cảm nghiệm Thập Giá! Mỗi khi cử hành Thánh Lễ, tôi có thật sự thâm tín rằng: đây là giờ phút tối ưu để tôi xây dựng ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ không?

Lạy Chúa, Chúa không đòi hỏi con làm điều không thể. Khi ban điều răn ‘phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn’ thì, chính Chúa đã hết lòng hết sức yêu thương con trước; xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, là bằng chứng tình yêu thương xót và nhân ái, tình yêu ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ Chúa đã dành cho con trước. Qua con đường chiêm ngắm này, con hy vọng sẽ ngày càng có thể tiến xa hơn trên con đường yêu mến Chúa. Amen.

 

9. Hôm nay Thiên Chúa cần người mẫu

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

Tin mừng theo thánh Mác-cô cho thấy Đức Giêsu trích lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật: "Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn hết sức lực, và yêu anh em như chính mình". Đây thực sự là giới răn đem lại hạnh phúc cho con người.

1. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng

Từ thời Môsê, khoảng thế kỷ 13 trước Công Nguyên, dân Do Thái đã nhận lãnh giới luật yêu mến Thiên Chúa: "Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Anh em hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực anh em". Đến thời Đức Giêsu, khi một ký lục hỏi Đức Giêsu: "Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?" Đức Giêsu đã trả lời bằng cách lập lại giới răn Môsê đã truyền cho dân Do Thái ngày xưa: "Đây là giới răn thứ nhất: hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai: hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn những điều này".

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực- nghĩa là- đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, chọn Thiên Chúa trên tất cả, lấy Thiên Chúa là đủ cho mình và không ao ước gì ngoài Thiên Chúa. Làm sao để điều này thành hiện thực khi con người chạy theo tiền tài danh vọng? Làm sao để những người cho rằng Thiên Chúa là một từ ngữ có một tương quan tình yêu thiết thân với Ngài? Con người được mời gọi nhận biết và cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người. Điều này, không phải con người làm nhưng chính Thiên Chúa làm cho con người; Thiên Chúa đang dùng con người để giúp Ngài làm cho con người nhận ra tình yêu của Ngài đối với họ.

Đức Giêsu được sai đến để thực hiện điều này: làm sao để con người yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực. Đức Giêsu đã làm mọi cách: đã nói cho con người biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu thương con người đến độ nào, và Ngài chờ mong con người trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng luôn săn sóc con người; Ngài sẵn sàng ban tất cả cho con người, ngay cả chính Con Ngài. Lời của Thiên Chúa mang trọn vẹn ý nghĩa khi con người, cụ thể nơi các tông đồ, nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chỉ với biến cố phục sinh, con người mới nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, và rồi, con người mới biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào.

2. Con người tự do chọn lựa

Con người là hữu thể tự do. Con người được tạo dựng để thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt để nơi con người một ước vọng hướng về Ngài như nguồn chân thiện mỹ. Con người luôn được mời gọi để hướng về Ngài, chọn Ngài qua những thực tại trần gian. Chọn điều tốt, chọn điều thiện hảo, chọn yêu thương tha nhân, là chọn chính Thiên Chúa. Chọn điều tốt lành thiện hảo, chọn Thiên Chúa, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc.

Làm sao con người có thể chọn điều thiện hảo tốt lành, khi mà thân xác con người cảm thấy cần tiện nghi vật chất, cần tiền bạc để thỏa mãn những nhu cầu vật chất? Thánh I-nhã Loyola cho rằng khi người ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa và tạo vật, khi người ta bình tâm trước tạo vật và chỉ đi tìm Thiên Chúa và ý định của Ngài, thì con người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu nói với các tông đồ: "giầu có khó vào được Nước Trời; lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa". Nhưng làm sao để người ta nhận ra rằng điều đó là đúng, và làm sao để người ta chọn điều người ta thấy là đúng?

Tình yêu giúp người ta nhận ra sự thật. Tình yêu sẽ đưa người ta vào chính đạo. Tình yêu sẽ giúp người ta trở về với Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa tác động trên con người, trên những trung gian con người mà Ngài dùng, đồng thời trên mỗi người để khao khát tiềm ẩn nơi họ được bừng sáng, để họ nhận ra con đường đích thực giúp họ bình an hạnh phúc. Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc. Những người sống trong tình yêu sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ anh em mình.

3. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn

Con người được gì khi yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực mình? Thiên Chúa là chân thiện mỹ; nếu một người chọn Thiên Chúa, chọn chân thiện mỹ, là chọn anh em mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa, thì sẽ tôn trọng quyền lợi của tha nhân. Người chọn Thiên Chúa và tha nhân sẽ sống an bình và hạnh phúc với tha nhân. Một người chọn tiền bạc danh vọng, sẽ dùng tha nhân và ngay chính anh em như phương tiện để đạt được mục đích của mình; như vậy họ gây khổ não cho tha nhân và ngay cả anh em họ. Nếu một người chỉ chọn họ và không để ý tới quyền lợi của tha nhân, người đó không thể sống hạnh phúc với người khác.

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực, là đặt thực tại trần gian vào đúng chỗ của nó. Với những người này, Thiên Chúa và ý định yêu thương của Ngài đối với con người phải là trên hết, tha nhân phải được tôn trọng; và khi sống như vậy, chính người "yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và yêu anh em như chính mình" sẽ là người sống hạnh phúc, sống an bình và thuận hòa với chính mình và với người khác xung quanh họ.

Yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu mến tha nhân như chính mình, không chỉ là lề luật phải giữ mà còn là khuôn vàng thước ngọc, giúp người ta sống an bình hạnh phúc. Với những người chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, thì phải diễn đạt điều lề luật Do Thái nói trên bằng "mỗi người phải chọn chân thiện mỹ trên tất cả, tôn trọng và yêu mến tha nhân như chính mình". Để đạt được điều trên, mỗi người cần ơn trên soi sáng và giúp đỡ; và trong mức độ con người, Thiên Chúa vẫn cần những con người cộng tác với Ngài để giúp con người hôm nay ý thức và sống lề luật này. Thiên Chúa cần những người mẫu cho con người hôm nay.

 

10. Một cuộc tranh cãi hữu nghị – Maurice Brouard.

Bối cảnh.

Sau cuộc rước vào thành Giêrusalem, thánh Maccô kể lại một loạt những cuộc tranh luận về uy quyền của Chúa Giêsu. Giữa những tranh luận này có một cuộc đối thoại xây dựng về giới răn thứ nhất.

Mở đầu.

Vài năm trước đây, trên truyền hình người ta đã nghe một cuộc đối thoại hữu ích giữa một nhà tư tưởng Mácxít xuất sắc và một đại thần học gia Công giáo. Các khán giả rất thích thú về cuộc thảo luận có tính soi sáng và trấn an này. Cuộc tranh luận của ký lục với Thầy Giêsu đối với chúng ta cũng như thế: Hai bậc Thầy tôn trọng nhau, ngợi khen nhau. Hôm nay chúng ta dừng lại trước hết ở câu trả lời của Chúa Giêsu.

1. Một cuộc tranh luận luôn luôn có tính thời sự.

Các nhà thần học thời đó thích bàn cãi để tìm ra trong số 613 điều răn trích từ Thánh Kinh, lối 248 giới luật tích cực và 365 giới luật tiêu cực, đâu là những giới luật quan trọng nhất hồi đó. Ngày nay chúng ta cũng cảm thấy cần những quy chiếu giúp hướng chúng ta về điều chính yếu. Vậy điều gì quan trọng nhất?

2. Mến Chúa vì Ngài là Chúa “duy nhất”.

Trả lời câu hỏi của người ký lục: Giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu nêu lên việc tuyên xưng đức tin mà người Do Thái vẫn đọc ngày ba lần: “Hỡi Israel hãy lắng nghe: Thiên Chúa, Chúa của ngươi là Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn ngươi…” Bản văn này của Thánh Kinh mở cho chúng ta thấy vẻ đẹp đức tin của dân Do Thái. Các Kitô hữu hiểu sai về Thiên Chúa của Cựu Ước mà họ không biết rõ. Dĩ nhiên, đây là một vị Thiên Chúa đầy uy nghi nhưng nhất là một vị Thiên Chúa yêu dân Ngài như một người chồng yêu vợ mình vậy… “Nếu Giavê đã gắn bó với các ngươi và đã chọn các ngươi thì không phải vì các ngươi là dân tộc đông nhất… Nhưng vì tình yêu đối với các ngươi”.

Đây là ý chính trong kinh Tin Kính của người Do Thái. Thiên Chúa đã chọn họ. Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất, đã mạc khải cho họ thánh danh của Ngài, đã ban cho họ lời hứa của Ngài. Nếu Thiên Chúa đã chiều chuộng họ đến thế, thì đáp lại Ngài rất xứng đáng được họ kính yêu. Như một người chồng là “duy nhất”, bởi vì không có người nào đẹp hơn, duyên dáng hơn, thông minh hơn… Thiên Chúa vẫn là “duy nhất” đối với dân Ngài.

Đối với chúng ta, những Kitô hữu, lý do khiến chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa cũng giống như đối với người Do Thái. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của ngài hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta; chúng ta phải yêu mến vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước”. Lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa là một lòng kính mến tri ân và lòng mến này là một năng lực thiêng liêng được Chúa Thánh Thần đặt nơi chúng ta.

Thiên Chúa là Chúa duy nhất, không những vì chỉ có mình Ngài mà thôi, nhưng bởi vì Ngài là Đấng duy nhất thương yêu chúng ta bằng một lòng trìu mến vô biên.

3. Thương yêu đồng loại như chính mình.

Phần thứ nhì trong câu trả lời của Chúa Giêsu đã khá quen thuộc với chúng ta: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”. Ta biết rằng Chúa Giêsu còn đi xa hơn giới luật của Cựu Ước nữa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Câu hỏi.

Đối với tôi Thiên Chúa có phải là Đấng duy nhất, có thể huy động tất cả những khả năng yêu thương, thông cảm, sống và hành động của tôi không? Trung tâm đời tôi là gì: Tôi, hay Thiên Chúa và tha nhân?

Lời Chúa và Thánh Thể.

Nếu tình yêu là động lực của đời chúng ta, thì chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi tham dự hy lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã vì yêu mà hiến dâng cuộc sống cho Thiên Chúa và loài người. Lúc đó Thánh lễ sẽ trở thành đỉnh cao của cuộc đời chúng ta.

home Mục lục Lưu trữ