Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 74

Tổng truy cập: 1367462

MỌI VIỆC CHÚA LÀM ĐỀU TỐT LÀNH

MỌI VIỆC CHÚA LÀM ĐỀU TỐT LÀNH

 

Câu chuyện này bắt đầu kể lại khởi điểm của một chuyến đi kỳ diệu. Chúa Giêsu đang từ Tia đến vùng đất chung quanh biển Galilê, nghĩa là Ngài đang từ Tia ở Phía Bắc đi xuống xứ Galilê ở phía Nam. Ngài bắt đầu hành trình bằng cách đi đến Siđôn. Điều này có nghĩa là Ngài bắt đầu đến Siđôn, và đã bắt đầu chuyển xuống phương Nam bằng cách vòng lên hướng Bắc. Chính vì chỗ khó hiểu này mà nhiều học giả cho rằng bản văn này đã chép sai, đáng lý ra Siđôn chẳng dính dáng gì đến chuyện ở đây, nhưng hầu như chúng ta có thể chắc chắn bản văn đúng như hiện có. Một học giả khác nghĩ rằng chuyến đi này kéo dài không dưới tám tháng, hoặc lâu hơn thế nữa. Có thể chuyến đi dài hạn này là giai đoạn yên tĩnh trước khi bão tố, một thời gian dài để Chúa Giêsu và các môn đệ thông hiệp với nhau trước khi cơn giông bão cuối cùng nổi lên. Ngay trong chương tiếp sau đây, Phêrô đã phát giác được Chúa Giêsu là Đức Kitô (Mc 8,27-29) và có thể chính nhờ chuyến đồng hành lâu dài này với nhiều cơ hội được sống riêng với nhau mà ý tưởng đó dần dần ăn sâu vào lòng trí Phêrô để trở thành chắc chắn. Chúa Giêsu cần có thời gian lâu dài này để sống chung với các môn đệ trước khi sự căng thẳng của ngày kết thúc cuộc bão táp đang tiến đến gần.

Khi Chúa Giêsu trở lại khu vực Galilê, Ngài vào địa phận Đêcapôli, tại đây người ta đem đến cho Ngài một người vừa điếc vừa ngọng, chắc chắn hai khuyết tật đó đi đôi với nhau, chính bệnh điếc đã khiến người ấy không thể nói rõ. Không có phép lạ nào nêu rõ cách Chúa Giêsu đối xử đẹp với con người bằng phép lạ này.

1/ Chúa Giêsu đem người điếc riêng ra khỏi đám đông. Đây là sự quan tâm hết sức dịu dàng. Người điếc luôn luôn ngượng nghịu lúng túng. Theo một vài phương diện thì điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng cảm thấy thất vọng hơn. Chúa Giêsu đã tỏ ra sự quan tâm hết sức dịu dàng đối với người ấy, vì biết người ấy đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống.

2/ Qua phép lạ này, Chúa Giêsu đã hành động như sắp diễn một vở kịch câm, Ngài đặt tay lên lỗ tai người điếc, thấm nước miếng xức lưỡi anh ta, sau đó Chúa Giêsu ngước mặt lên trời để chứng tỏ rằng chỉ có Thiên Chúa mới giúp được cho loài người, rồi Ngài nói một tiếng và người điếc được chữa lành. Câu chuyện này cho thấy cách hết sức sống động Chúa Giêsu xem người này là một nhân vị có nhu cầu, một vấn đề đặc biệt, và bằng những cử chỉ dịu dàng, quan tâm, Chúa Giêsu giúp người ấy không cảm thấy khó chịu ngỡ ngàng và khiến anh có thể hiểu được.

Sau khi làm phép lạ này, dân chúng đã tuyên bố Ngài làm mọi việc đều tốt lành. Đây là câu kết luận chẳng khác câu kết luận của Đức Chúa Trời liên hệ đến công việc sáng tạo trời đất của Ngài lúc khởi thủy (St 1,31). Khi Chúa Giêsu đến, đem theo ơn chữa lành cho thân thể và cứu rỗi các linh hồn con người. Ngài đã bắt đầu công cuộc sáng tạo một lần nữa. Nguyên thủy, mọi sự đều tốt lành, tội lỗi của nhân loại đã phá hư tất cả, và bây giờ, Chúa Giêsu đem trở lại cho thế gian vẻ đẹp đẽ Thiên Chúa đã ban từ đầu, mà tội lỗi loài người đã làm xấu xa.

 

 

 

 

 

77. Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng

(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

 

1.- Ngữ cảnh

Sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ (6,1-6a), các môn đệ được sai đi rao giảng sự sám hối và trừ quỷ (6,7-13). Nhưng khi Người đề nghị cho đám đông ăn (6,37), thì các môn đệ sửng sốt, cũng ý như khi họ thấy Người đi trên mặt biển (6,51). Những người nghe đọc Tin Mừng có nắm được tương quan giữa khả năng đi trên mặt nước và khả năng nuôi sống đám đông chăng? Việc Đức Giêsu đi vào vùng Dân ngoại (địa hạt Tia và Xiđôn), tại đó Người đã chữa con gái một bà gốc Phênixi xứ Xyri (7,24-30) và chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) cũng như hóa bánh nhiều lần thứ hai (8,1-10) hẳn là khích lệ các độc giả gốc Dân ngoại nhiều.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Hoàn cảnh (7,31);

2) Đức Giêsu chữa người tàn tật (7,32-35);

3) Lệnh Đức Giêsu cấm phổ biến và phản ứng của dân chúng (7,36-37).

Tuy nhiên, bản văn có gây ra những thắc mắc: nơi chốn không thể xác định; người tàn tật có vẻ thụ động (không có đối thoại, có vẻ các cử chỉ của Đức Giêsu và công thức A-ram quan trọng hơn); vai trò của nước miếng; một lệnh yêu cầu thinh lặng, nhưng không giữ được…

3.- Vài điểm chú giải

– bỏ vùng Tia, đi qua… đến… (31): Lộ trình của Đức Giêsu hơi lạ (đi vòng lên phía bắc, rồi quặt xuống phía đông nam, tiếp tục đi xuống phía nam băng qua Xêdarê Philipphê, đi đến phía đông của sông Giođan, và như thế đến gần hồ Galilê về phía nam, trong phần lãnh thổ Thập Tỉnh). Có lẽ tác giả Mc muốn mô tả cuộc hành trình xuyên qua một vùng đất phần lớn thuộc Dân ngoại để báo trước sứ mạng của Giáo Hội là phải đến với muôn dân.

– vừa điếc vừa ngọng (32): Từ ngữ Hy Lạp kôphos (x. 7,37; 9,25) có nghĩa là “điếc”. Còn mogilalos (không phải là alalous, “câm”, c. 37) không có nghĩa là mất tiếng hoàn toàn, chỉ có nghĩa là nói khó khăn (vì thế, đến c. 35: “anh ta nói được rõ ràng”).

– Người kéo riêng… (33): Tác giả Mc mô tả phép lạ này theo tập tục thời đó trong thế giới Hy-La: tránh những cặp mắt hiếu kỳ, sự đụng chạm bằng tay, dùng nước miếng, nhìn lên trời, thở dài, những lời nói bằng tiếng ngoại quốc. Những chi tiết này phản ánh lối chữa bệnh thời đó, nhưng cũng rất có thể là những quy ước của một thể văn (x. K. Kertelge; K. Tagawa; A. Duprez).

– đặt ngón tay vào lỗ tai: Những hành vi biểu tượng của Đức Giêsu, mà những người chữa bệnh Hy-La và Do Thái thường làm, gợi ý cho người tàn tật biết rằng anh rất có thể được chữa lành.

– nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi: Sử gia Pliniô kể rằng hoàng đế Vespasianô đã chữa một người mù bằng nước miếng (Hist. nat. 28, 4,7; Tacite, Hist. 6,18). Bài tường thuật này, cũng như những bài Mc 8,23 và Ga 9,6, là những dịp trong đó kể rằng Đức Giêsu đã dùng nước miếng. Chúng ta không được biết chắc chắn nước miếng được sử dụng như thế nào. Có những thủ bản cho rằng nước miếng được bôi trên môi, hoặc đặt vào miệng như một cử chỉ tượng trưng; trong khi có những dị bản nói là cả ở trên tai nữa. Bản văn là “nhổ và chạm lưỡi anh”, và Zerwich & Grosvenor giải thích: “bằng nước miếng”. Mann cho rằng các hành vi này chỉ có tính cách tượng trưng mà thôi.

– Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng (34): Những cử chỉ này diễn tả Đức Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa và động lòng thương người tàn tật. Không nên coi các cử chỉ này như là yếu tố của nghi thức ma thuật.

– Ép-pha-tha: Câu “Hãy mở ra” là lời dịch nghĩa từ Hy Lạp ephphtha phiên âm từ A-ram ippơtah (hoặc itpơtah), do động từ phatah là “mở ra”.

– tai mở ra, lưỡi hết bị buộc (35): Đây là chi tiết văn chương nhằm nói rằng Đức Giêsu không phải chỉ là một người chữa bệnh; chân tính Người là khác, và người ta chỉ biết được rõ ràng chân tính của Người khi theo Người đến chân thập giá và đến cuộc Phục Sinh.

– ông làm cho kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được (37): Nhận định này của đám đông nhắc tới Isaia 35,5-6, mà đoạn văn Isaia này là một phần thuộc về cái nhìn tương lai vinh quang của Israel (Is 34–35). Bản văn Cựu Ước này được sử dụng ở đây, điều này chứng tỏ rằng tương lai vinh quang của Israel đã hiện diện trong sứ vụ của Đức Giêsu.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Hoàn cảnh (31)

Có lẽ câu truyện bắt đầu từ c. 32, còn tác giả Mc đã tạo ra c. 31 để cung cấp một cái khung địa lý cho bản văn, vì chúng ta biết rằng Xiđôn đã được nói đến ở 3,8, còn Thập Tỉnh đã được nhắc đến ở 5,20. Vậy c. 31 là câu nối bản văn với phần đi trước. Các chi tiết gom lại ở đây muốn nói đến các miền đất ngoại giáo chung quanh Galilê và nêu bật chủ trương phổ biến Tin Mừng sang đất Dân ngoại.

* Đức Giêsu chữa người tàn tật (32-35)

Cuộc chữa bệnh có những cách thực hành quen thuộc trong các truyện phép lạ thời đó. Đức Giêsu đưa anh bệnh ra riêng. Tất cả chuyện này có ý là giữ bí mật cách trị liệu của vị thầy. Các cơ quan có bệnh được chạm đến. Vị thầy ấn ngón tay trên hai tai điếc, rồi bôi nước miếng lên cái lưỡi ngọng. Ngước mắt lên trời là để xin sức mạnh siêu phàm; thở dài hay rên cũng nhắm như vậy. Tiếng epphatha trong bối cảnh phép lạ Hy Lạp là lời phù chú không ai hiểu được; nhưng trong Mc, từ này đã được dịch ra rõ ràng (tương tự 5,41). Đức Giêsu cho người ta biết rõ ràng quyền lực của Người. Đây là lời Người nói với anh bệnh cho đến lúc này vẫn chưa có khả năng nghe được, chứ không phải là nói với các cơ quan bị bệnh. Tức khắc, anh này được lành; sự kiện anh được lành được nêu ra như một điệp khúc đáp lại lời vừa được truyền ra. Rất có thể chi tiết “lưỡi bị buộc” có ý nói đến tên quỷ của bệnh, mà nay anh này đã được giải thoát khỏi.

* Lệnh Đức Giêsu cấm phổ biến và phản ứng của dân chúng (36-37)

Đức Giêsu truyền cả anh bệnh đã lành cũng như những người có mặt phải giữ im lăng. Nhưng những người đã đón nhận được mạc khải trong phép lạ này không thể giữ kín được. Tác giả Mc muốn nhắc độc giả vừa phải giữ làm sao để người ta khỏi hiểu sai thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu, vừa phải nhận ra và giới thiệu Người là Đấng Cứu Thế. Phản ứng hứng khởi của dân cho ta lời giải nghĩa thần học của phép lạ. Nhờ hoạt động của Đức Giêsu, cuộc tạo thành đã hư hỏng nay được tái thiết (x. St 1,31).

+ Kết luận

Đọc lướt qua, chúng ta thấy đây là một bài tường thuật về một phép lạ chữa bệnh về thể lý. Thật ra, bài này, cùng với các bài tường thuật về việc chữa người mù (8,22tt; 10,46tt) là một lời cam kết rằng Đức Giêsu có thể mở tai, tháo lưỡi, mở mắt cho các môn đệ, và là một lời mời gọi các ông tin tưởng vào Người, và để Người giúp các ông. Hãy nhìn nhận sự giải thoát mà Người đã mang lại cho chúng ta. Cũng hãy cố gắng đón nhận sự giải phóng mà Người đang muốn ban cho chúng ta, trên nẻo đường Người đang mở ra trước mắt chúng ta, xuyên qua những ngờ vực và những nỗi sợ hãi, mà tiến về vinh quang của Người.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải có tâm tình tha thiết của Người là đưa Tin Mừng đến cho các Dân ngoại. Nếu ngại ngùng vì đường dài, e dè vì những khó khăn có thể gặp về mọi phương diện, các ông sẽ không đi xa được, và sẽ phản bội bản chất của Tin Mừng vì Tin Mừng là ánh sáng cứu độ được Thiên Chúa ban cho mọi người qua trung gian của các ông.

2. Các môn đệ đã không hiểu bản thân và sứ mạng của Đức Giêsu nên đã bị Người trách (7,18; 8,17-21). Sự kiện Đức Giêsu đã mở tai của người điếc cho hiểu rằng Người có thể ban sự hiểu biết cần thiết để người ta sống đức tin. Và chính các môn đệ cũng cần được Người mở tai cho, hầu nghe được và hiểu được những giáo huấn của Đức Giêsu, và nghe ra tiếng kêu la của những con người khốn khổ hôm nay.

3. Theo thánh Bêđa (PL 92,203t), người Kitô hữu nào không lắng nghe Lời Chúa là người điếc và kẻ nào không truyền đạt lời tuyên xưng đức tin cho kẻ khác là người câm. Nước miếng mà Đức Giêsu bôi vào lưỡi anh câm có nghĩa là sapor Domini sapientiae (hương vị của sự khôn ngoan của Chúa); còn ngón tay mà Đức Giêsu ấn trên tai anh điếc, tượng trưng ân huệ Thánh Thần (x. Lc 11,20).

4. Giai thoại Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng này có thể được coi như một dụ ngôn nói về biết bao hoàn cảnh khó khăn và bệnh tật của chúng ta hôm nay. Đây là những hoàn cảnh ngặt nghèo khiến chúng ta ở xa rất nhiều “điều”, nhưng đồng thời lại cho chúng ta gặp được Chúa tể sự sống. Khi đó, đã được tháo cởi tai và miệng, chúng ta có thể nói: “Ngài làm điều gì cũng tốt cả”, với sự kinh ngạc thấm đẫm tâm tình biết ơn.

5. Khi Đức Giêsu nói “hãy mở ra”, tai anh ta mở ra lập tức và “anh ta nói được rõ ràng”. Đức Giêsu nói ra và điều ấy xảy ra. Hôm nay Đức Giêsu cũng nói Lời Người trên chúng ta, “Hãy mở ra!”. Với đôi tai đã được mở ra, chúng ta không những lãnh nhận lời Người, mà lòng chúng ta cũng được mở ra để đón lấy nữa. Nghe Lời Chúa sẽ biến đổi chúng ta.

“Hãy mở ra!”. Những lời này mở chúng ta ra với lòng nhân từ của Thiên Chúa. Những lời đó cũng mở ra cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang ở trong chúng ta, từng ngày, trong các liên hệ giữa chúng ta và các loài thọ tạo. Đó chẳng phải là một bí nhiệm sao: một người trông thấy và nghe được Thiên Chúa trong những biến cố nhỏ bé, thậm chí không đáng kể thuộc đời sống hằng ngày? (Siciliano)

 

 

 

 

 

78. Chú giải của Noel Quesson.

 

Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.

Việc mô tả những cuộc hành trình (hơn 100 cây số) không phải là ngây ngô đâu? Chúng ta thử đặt mình vào địa vị Đức Giêsu một chút. Sau khi biến bánh ra nhiều (Mc 6,31-44). Sau bài giảng thất bại về “Bánh hằng sống” (Ga 6,66), Đức Giêsu bị đám dân chúng bỏ rơi hoàn toàn. Người rời xứ Galilê và đi ra “nước ngoài” nơi người ngoại đạo ở xứ Phênixi (Mc 7,24-26) bên kia biên giới phía Bắc xứ Palettin. Tia và Xi-đon ngày nay vẫn là hai thành phố lớn của xứ Libăng. Rời xứ này, Đức Giêsu không trở về Galilê, Người đi rẽ về phía Đông Biển Hồ, vượt qua các đồi cao Gôlăng xứ Xyria và đi về phía miền “Thập Tỉnh”, bên kia sông Giođan, trong phần đầu của sa mạc từ I-rắc tới I-ran, mà ngày nay có những ống dẫn dầu từ vịnh Ba Tư chạy ngang qua. Đức Giêsu, con người thông minh, đã thích nghi với hoàn cảnh. Người biết rằng, với những đám đông chỉ có mất thời giờ? Vậy từ bây giờ trở đi, Người sẽ lo đào tạo một nhóm môn đệ nhỏ. Và để thực hiện công cuộc đó, cần phải vượt qua ranh giới Do Thái, mới dễ cảm thấy thoải mái hơn.

Chúng ta cố hình dung ra Đức Giêsu, dừng lại ở mỗi đoạn đường, ở ngoài trời, luôn có khoảng hai mười người vây quanh mười hai người nam và vài người nữ để nấu ăn quanh bếp lửa, họ kể lại những biến cố trong ngày.

Ngày nay, những khối Người, trong mọi biên giới, đã trở nên ngoại đạo. Thái độ của Đức Giêsu thật có ý nghĩa. Người làm gì khi Người sống giữa dân ngoại?

Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.

Danh tiếng Đức Giêsu, con người hay làm phép lạ, đã lan rộng ra ngoài biên giới nước Palettin. Có một người đàn bà gốc Phêmxi, xứ Xirya đã đến mấy ngày trước, để xin Chúa chữa lành cho con gái của bà. Bây giờ lại một người câm điếc. Người ta có thể nói rằng, người ngoại đạo có lòng mở rộng đối với Chúa hơn là người Do Thái. Vậy họ đã có tai để nghe, trong khi những đám đông ở Galilê lại “điếc đối với lời của Người? Người ngoại đạo sẽ được ngồi vào bàn tiệc của Thiên Chúa, để đón nhận Bánh Hằng Sống, trong khi đại đa số dân Israel đã từ chối?

Chúng ta chớ quên rằng, Maccô viết Tin Mừng cho những cộng đoàn Kitô hữu từ’ dân ngoại quốc thuộc HyLạp – La Mã trở lại. Ong là thư ký của Phêrô. Chúng ta hiểu tại sao ông lại muốn làm cho nổi bật sự kiện Chúa đã mở rộng sứ vụ của Người cho dân ngoại. Như trong Tin Mừng Chúa nhật trước về vấn đề “Sạch và Nhơ”, chúng ta gặp lại ý hướng phổ quát của Đức Giêsu: Người không tự đóng khung trong nền văn hóa riêng biệt của Israel. Người mở rộng cửa: Giáo Hội của Người phải là Công giáo nghĩa là “đa dạng” “mở rộng” “phổ quát”. Chúng ta có thực sống như vậy không? Chúng ta không thường giữ những đặc thù thích đề cao chủng tộc của mình sao? Chúng ta không xét đoán quá cứng rắn những người có sở thích văn hóa, những cách cầu nguyện khác chúng ta sao? Trong bàn tiệc chúng ta có những một ít chỗ cho người ngoại quốc không?

Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.

Đức Giêsu làm những cử chỉ trên là có ý nghĩa, chứ không phải tình cờ. Thiên Chúa nói với chúng ta những cử chỉ đó. Chúng ta cũng điếc chăng? Những chi tiết này nói lên không gì?

Đức Giêsu dẫn người khuyết tật xa khỏi đám đông. Khi làm như vậy, Chúa đã tỏ ra khác hẳn những người làm phép lạ khác, những nhà ảo thuật Hy Lạp, luôn tìm sự phi thường. Còn Đức Giêsu, một “Thiên Chúa ẩn kín” lại trốn tránh những cái nhìn soi mói, bắt đầu sợ những đám đông ham muốn phép lạ. Người lánh ẩn như để nói với chúng ta rằng, Người sắp làm một biến cố siêu việt. Sự tránh hoạt động của Thiên Chúa là mầu nhiệm cuối cùng. Người sẽ cố gắng vô ích để xin “người ta giữ bí mật”.

Đức Giêsu làm những cử chỉ trên thân xác, hầu như gây khó chịu đối với những tâm trí chúng ta, được coi là duy linh. Ngày nay người ta có khuynh hướng xóa bỏ hình ảnh này của Đức Giêsu. Chúng ta sẽ nghĩ gì nếu có một phim ghi lại cách tự nhiên và chiếu cho chúng ta xem lại cảnh này một cách thực tế? Người dịch một lần nữa đã nghĩ nên kể lại nhẹ nhàng hơn bản văn Hy Lạp của Maccô, mà nếu dịch từng chữ, sẽ kể như sau: “Đức Giêsu thọc ngón tay mình vào tai người điếc, và sau khi đã nhổ nước miếng, Người sờ vào lưỡi người câm, và sau khi nhìn lên trời, Người thở dài”.

Vâng, những bí tích, những dấu chỉ của Đức Giêsu đều là những cử chỉ “thuộc thân xác”. Thiên Chúa đã có thể ban hồng ân của Người cho chúng ta “từ xa” một cách thiêng liêng, nhưng thực sự Người đã quyết định “tiếp xúc” với chúng ta nhờ nhân tính Con của Người đã nhập thể. Nếu chúng ta cho là điều xỉ nhục để đưa tay ra “đụng chạm” đến Mình Thánh Đức Giêsu, thì chính là vì chúng ta đã mất ý thức về phẩm giá của “Thân xác”, là dụng cụ tuyệt vời để liên lạc và yêu thương. Trong Nhiệm Cục Nhập Thể (Economie de l’incarnation) ân sủng thiêng thánh nhất, vô hình nhất phải qua những cử chỉ tầm thường “cụ thể” là những bí tích của Đức Giêsu. Người câm điếc lúc bấy giờ chắc không bị phân tâm trước những thuyết coi thường thể xác của chúng ta, và anh ta cảm thấy những cử chỉ tiếp xúc đơn giản và tự nhiên của Đức Giêsu như mạc khải sự trìu mến của Người: Ngón tay của Chúa trong lỗ tai bị bịt kín của anh, nước miếng của Người trên lưỡi bị thắt buộc của anh.

Lạy Chúa Giêsu, nhờ Thánh Thể của Chúa, xin chữa lành tâm hồn con người ngày nay. Các giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội, đối với giáo dân gần thiên nhiên hơn chúng ta, đã khuyên các Kitô hữu lúc bấy giờ rước lễ dưới hai hình thức, lấy rượu đã truyền phép mà môi miệng họ vừa hiệp thông nơi Chén Thánh, để bôi lên mắt và tai của mình, nhằm thánh hóa những cơ quan này? Bây giờ không cần phải trở lại những tục lệ của các thế kỷ đầu tiên, nhưng ít nhất chúng ta chớ làm nhẹ đi cử chỉ rước Mình Thánh Chúa. Chúng ta hãy nhận “lấy” và “ăn” theo như Chúa đã nói. Điều đó rất thích hợp với bản chất con người của chúng ta, cả về thể xác lẫn linh hồn.

Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói.

Cử chỉ này cho ta thấy rằng, quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện không phải là một sự can thiệp y khoa bình thường. Còn về lời than thở của Đức Giêsu không những chỉ hiểu rang đó là xách biểu lộ lòng trắc ẩn đối với người bệnh, mà còn là một chuyển động nơi toàn thân Đức Giêsu đang xúc động mãnh liệt để kêu cầu Thiên Chúa, khi nhận thấy một “nỗ lực”, một “nhiệm vụ khó khăn”, một đối kháng rất ghê gớm cần phải vượt thắng. Đức Giêsu thực sự đang “làm lại” công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Con nói bị hư hỏng sắp tìm lại được vẻ huy hoàng nguyên thủy của mình.

Ép-pha-tha, nghĩa là: hãy mở ra!

Lời nói của Đức Giêsu được Maccô ghi lại bằng tiếng Hy Lạp, nhưng đúng ra được phát biểu bằng tiếng Aramên, là tiếng nói của Đức Giêsu. Chúng hãy nghĩ rằng, đối với những độc giả của mình không hiểu tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, Máccô phải dịch nghĩa chữ “Effata”!

Chúng ta cũng lưu ý thêm, Đức Giêsu không nói với những cơ quan bị tật nguyền mà nói với chính người bệnh: “Hãy mở ra” hay đúng hơn “hãy mở trở lại”.

Nghi thức Effata này, xưa kia được thực hiện trong khi rửa tội. Vị linh mục sờ vào tai và xức nước miếng mình lên một đứa bé hay người lớn.

Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.

Khi dùng nghi thức này để rửa tội, Giáo Hội đã sớm hiểu phép lạ này trên bình diện tượng trưng? “Con người có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe”. Đui, điếc và câm: Đó là thân phận con người trước mặt Thiên Chúa, Thánh Maccô sẽ lặp lại nhiều lần trong cùng một bối cảnh rằng, chính những môn đệ của Đức Giêsu cũng là những người điếc và câm, những người không hiểu gì (Mc 8,18; 8,52; 7,18).

Qua phép Rửa, chính Đức Giêsu đích thân hành động. Người gặp một người tự nhốt kín mình, không thể thiên lạc được và chữa trị toàn diện: Chúa đã làm cho người này có thể nghe và hiểu Lời Chúa. Chúa cũng ban cho họ quyền thông truyền lời đó cho kẻ khác. Đó là vấn đề Đức tin. Tình trạng tự nhiên lúc vừa sinh ra của chúng ta, đó là sự tự nhốt kín mình, một tình trạng cô đơn cách biệt: Con người bị “bít kín” trước những sự việc của Thiên Chúa. Con người phải được Đức Giêsu “mở ra” để đón nhận mầu nhiệm Nước Trời.

Biết bao Kitô hữu hiện nay vẫn còn “đóng kín”, mắc kẹt trong thế giới tập quán, trong sự hiểu biết hạn hẹp những truyền thống nhỏ nhoi của họ. Chúng ta có thuộc vào số những người đi nhà thờ mà không hề biết mở miệng để đáp lại chủ tế hay để hát xướng không? Chúng ta có phải là những người mà trong cuộc sống hàng ngày, không bao giờ dám nói về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, về Tin Mừng không?

Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”

Những lời ca tụng trên nhắc lại trình thuật đầu tiên về cuộc sáng tạo: “Thiên Chúa thấy tất cả những gì Người đã làm đều tốt đẹp” (St 1,30). Nhờ Đức Giêsu, một sáng tạo mới đang xuất hiện, một con người mới được tái tạo… một con người hiệp thông, một người biết lắng nghe và đáp lại. Lắng nghe Thiên Chúa. Nói với Thiên Chúa. Lắng nghe anh em. Nói với anh em.

Lạy Chúa, Chúa là Chủ sự sống, và mọi công trình của Chúa, thật đáng ca ngợi biết bao!

 

 

 

 

 

79. Chú giải của Fiches Dominicales.

CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC TẠI VÙNG ĐẤT DÂN NGOẠI

 

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Tại vùng đất dân ngoại

Sau khi tranh luận với những người biệt phái và các ký lục về “sạch, và “ô uế”, Đức Giêsu vào vùng dân ngoại, một cử chỉ cho thấy lời nói và việc làm của Ngài luôn đi đôi với nhau. Khi đi ngang qua miền Tyrô và Siđôn (hiện nay thuộc Libăng), nhận lời cầu xin của một phụ nữ Syrô-phênêxi, Ngài đã đuổi quỉ ám ra khỏi con gái bà (7,24-30: Sách bài đọc năm B không trích câu chuyện này). Giờ thì Ngài đã ở trong miền Thập Tỉnh (Đêcapôli): nơi chốn Máccô xác định ở đây có tính cách thần học hơn là địa lý, vì người Do Thái coi miền có mười thành phố này; ở phía Đông sông Giócđanô, như vùng đất ngoại giáo và ngoại quốc. Theo Marcô, câu chuyện đã xảy ra chính tại miền này, và chỉ trong Tin Mừng của ngài mới có: “Người ta đem một ngài vừa điếc vừa câm đến với Đức Giêsu, và xin Ngài đặt tay trên anh”.

2. Người câm điếc được chữa lành cách lạ lùng

Lúc chúng ta chờ đợi Đức Giêsu chữa lành người câm điếc bằng một cử chỉ và lời nói đầy quyền năng của Ngài, thì Máccô chúng ta kinh ngạc khi ông thuật lại Đức Giêsu đã chửa lành theo cách các thầy lang ngoại giáo và Do thái thời đó thường làm.

Để tránh những con mắt tò mò, Ngài kéo riêng người câm điếc: “Xa khỏi đám đông”. Ngài: “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Chúng ta thấy Đức Giêsu cũng dùng nước miếng để chữa người mù ở Bétsaiđa trong Máccô 8,23 và chữa người mù từ mới sinh trong Ga 9, 6.

Potin xác nhận: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Đức Giêsu Lịch sử đích thực), Centurion, tr.172). Ở đây phải chăng cũng cần nhắc là trước thời cánh tân phụng vụ, trong lễ nghi rửa tội, có cử chỉ vùa lấy nước miếng xức vào lỗ tai và miệng của đứa trẻ vừa đọc lại lời của Đức Giêsu?

– Ngài ngước mắt lên trời, một cử chỉ cầu nguyện và khẩn nài quen thuộc cho thấy quyền năng của Đức Giêsu từ đâu mà có.

– Ngài rên lên một tiếng. Đây không phải là tiếng kêu cảm thương đối với người bệnh cho bằng một lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền n lực sự dữ.

Ngài phán một lời mầu nhiệm mà Máccô đã có ý thuật lại bằng tiếng Araméen, ngôn ngữ Đức Giêsu dùng, mặc dù ông viết Tin mừng bằng tiếng Hy lạp, đó là ‘Eftata’, nghĩa là ‘hãy mở ra’.

Lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu hiệu lực ngay tức thì: đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh như được tháo cởi, anh bắt đầu nói rõ ràng; và như trong như người câm trong chuyện khác về phép lạ, việc Chúa chữa lành làm dấy lên sự phấn khởi nơi đám đông chứng kiến phép lạ dù Đức Giêsu đã khuyên họ giữ kín.

3. Dấu chỉ thời đại Đấng Thiên Sai

Lời tung hô Máccô trích dẫn để kết luận câu chuyện cho chúng ta thấy chìa khóa của bài đọc: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được.”

Phần thứ nhất của lời tung hô qui chiếu về sách Sáng thế: “Thiên Chúa thấy tất cả những gì Ngài đã làm đều tốt đẹp”, (Sáng thế 1,31). Như vậy, nó ám chỉ việc Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là những dấu chỉ về sự sáng tạo mới mọi người chờ đợi trong thời buổi cuối cùng.

Phần thứ hai hiển nhiên ám chỉ đến những sấm ngôn của Isaia, nhất là sấm ngôn trong sách bài đọc của Chúa nhật thứ 23 này: “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra và miệng người câm sẽ reo hô mừng rỡ”. Điều này có nghĩa là tất cả những gì các ngôn sứ loan báo đều được hoàn tất nơi Đức Giêsu. Nó cũng chào đón sự mở đầu của thời đại Đấng Thiên Sai.

4. Loan báo sự chữa lành thiêng liêng

Việc Chúa chữa người câm điếc ở miền Thập Tỉnh được kết thúc bằng lời tung hô chào đón những dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nó chuẩn bị cho việc chữa người mù ở Bétsaiđa trong 8,22-26 (sách bài đọc năm B không có). Việc chữa lành này sẽ mở đường cho các môn đệ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai.

Như vậy, theo Máccô, phép lạ này cho chúng ta thấy ý tượng trưng của việc chữa lành thiêng liêng mà các môn đệ Đức Giêsu đang cần. Trong câu chuyện, các môn đệ không được chỉ đích danh. Các ông hình như vắng mặt. Nhưng lời mời gọi đầy rung cảm: “Hãy mở ra” nhằm đến các ông trước tiên vì các ông vẫn còn câm điếc một cách bướng bỉnh trước sứ điệp của Thầy mình. Chính các ông có tai mà vẫn không nghe, nên tai các ông cần phải mở ra để có thể nghe lời Thầy mình và lưỡi các ông cũng cần được tháo cởi để có thể lấy đức tin đáp trả lời mời gọi ấy. Chính các ông có mắt mà không thấy (8,18), nên mắt các ông cần được mở ra và soi sáng để có thể tuyên xưng cùng với lòng tin tưởng: “Thầy là Đấng Thiên Sai” (3,29).

Sau cùng, Máccô có chủ ý để phép lạ này xảy ra trong phần đất dân ngoại và đặt nó trong “đoạn về bánh trường sinh” là đoạn hoàn toàn nói đến việc dân ngoại được mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể; ông cũng có chủ ý khi đặt trên môi những người ngoại giáo lời tung hô: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được”. Là muốn công bố và báo trước lời tuyên xưng đúc tin của các cộng đoàn Kitô hữu đã sinh ra và sẽ sinh ra từ việc truyền giáo cho dân ngoại. Như vậy, những độc giả xuất thân từ ngoại giáo trước kia cũng như ngày nay có thể dễ dàng lắng nghe đoạn Tin Mừng này, đồng hóa mình với người câm điếc được chữa khỏi cũng như với đám đông nhân chứng. Họ cũng được mời gọi “cởi mở đón nhận Lời và Hành động của Đấng Cứu Thế”, và “đừng sợ hãi khi phải ‘công bố’ chúng với thế giới”. (Xem J. Hervieux, Tin Mừng Máccô, Centurion, tr.107)

BÀI ĐỌC THÊM

1. “Hãy mở ra!”

Vulliez, “Thiên Chúa rất gần. Năm B”

“Phải chăng Đức Giêsu là người chuyên làm phép lạ để lòe bịp dân chúng, lôi cuốn họ theo mình và làm cho họ sống sảng khoái mê ly trong một thế giới hư ảo?

Khi thuật lại cho chúng ta trình tự chi tiết về việc chữa lành người câm điếc, Máccô, tác giả Tin Mừng, hướng dẫn chúng ta nhìn xa hơn, nhằm giúp hiểu Đức Giêsu cách sâu sắc hơn. Khi chữa người khuyết tật để anh có thể nghe và nói được, Đức Giêsu mạc khải Ngài là ai: hơn hẳn một người có phép thần thông, Ngài chính là Đấng Thiên Sai.

Thực vậy, Isaia đã loan báo điều ấy. Lúc Đấng Thiên Sai đến giải thoát dân Ngài, thì một người mù sẽ mở ra và tai người nghe được”. Đối với sự điếc lác, mù tối, câm nín và tê liệt, Ngài là dấu chấm hết. Ngài sẽ tạo nên những con người mới. Và giờ đây nhờ Đức Giêsu, người mù xem thấy, người điếc nghe được, người câm lên tiếng và người tê liệt bước đi. “Mọi sự Ngài làm đều mới lạ… và tất cả những gì Ngài thực hiện đều đáng ca ngợi”.

Thời kỳ Đấng Thiên Sai được thể hiện mỗi khi con người đi từ tháp Babel nơi không ai hiểu ai đến Lễ Ngũ Tuần là lúc mọi Người đều nghe và hiểu nhau nói gì, dù rất khác biệt về ngôn ngữ chủng tộc và văn hóa, mỗi khi lời người khác không bị phớt lờ vì giải thích một chiều; mỗi khi lời nói của những người đã từng không thể phát biểu trong những cuộc họp, những đại hội, trước micro và máy quay phim, nay được vang lên khắp nơi, không còn bị cấm đoán nữa; mỗi khi những kẻ xấu không còn dám khẳng định mình làm “việc nhân đạo” bằng cách chiếm đoạt quyền ăn nói của những người “thấp cổ bé miệng” trong xã hội vì sau cùng, ai cũng có quyền lên tiếng; mỗi khi ai nấy đều chăm chú lắng nghe những khát vọng cao đẹp nhất của tâm hồn là những cảm hứng đúng đắn nhất của tinh thần nơi bản thân mình cũng như nơi người khác.

Thời kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi chúng ta tung được bức tường giam hãm mỗi người. Bức tường hình thành bởi tính tình và sự giáo dục đã nhận, hoặc bởi sức ép của tính tình và chính trị; mỗi khi thay đổi được điều kiện làm việc ở xưởng thợ, trong dịch vụ, nơi văn phòng, điều kiện làm việc khiến con người khó hoặc không thể giao tiếp với nhau.

Thời kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi con người cùng nhau tạo lập được thế quân bình chính đáng giữa lời phải nói và sự im lặng để lắng nghe; mỗi khi trong gia đình, trong nhóm, trong các đám đông, mối dây giao tiếp trở thành mối dây hiệp thông; mỗi khi các tín hữu phân định được tiếng Chúa trong những điều con người nói với nhau; mỗi khi những bạn hữu của Đức Giêsu không còn ấp úng trong việc loan báo Tin Mùng và ca ngợi những kỳ công của Thiên Chúa.

2. Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể!

(N. Quesson, trong “Những cuộc đàm đạo ngày Chúa nhật. Năm B, Droguet ét Ardent, tr. 187-188)

“Sự chữa lành hay sự giải thoát Đức Giêsu muốn thực hiện nơi chúng ta đến với chúng ta bằng cách nào? Các giáo phụ trả lời: “Bằng nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu”. Đúng vậy, Đức Giêsu chữa lành chúng ta bằng Thân Thể Ngài và bằng cách tiếp xúc với thân thể chúng ta! Marcô nhấn mạnh rất nhiều đến khía cạnh này của dấu chỉ: “Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên lên một tiếng” toàn bộ hành vi cứu độ của Đức Giêsu Cứu Thế được giải thích qua những cử chỉ thân xác. Chúng ta thường có khuynh hướng xóa bỏ những hình ảnh đầy cảm tính của Đức Giêsu dù chúng “rất người”. Nhưng chúng ta sẽ không thể gạt bỏ điều này, đó là Đức Kitô cứu độ chúng ta không phải bằng lời nói mà bằng những cử chỉ biết nói: bữa Tiệc ly, máu đổ ra từ Thập giá, hòn đá được lăn ra khỏi ngôi mộ trống. Chính những cử chỉ cụ thể này đã nói lên điều muốn nói! Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể!

Do đó, đương nhiên, các bí tích cũng nằm trong chiều hướng chung của việc Nhập Thể: một mình gặp gỡ Thiên Chúa không qua những cử chỉ cứu độ của Đức Giêsu, là một giấc mơ hão huyền mau qua và sẽ kết thúc mau lẹ bằng việc không còn sống với Thiên Chúa nữa, nhưng là sống theo bản tính tự nhiên: con-người khép-kín-trong-chính-mình, con người điếc, câm, mù trước những thực tại cao cả. Chúng ta chỉ gặp gỡ Thiên Chúa thực sự nhờ đôi tai, cái lưỡi và đôi mắt. Sự gặp gỡ với Đức Giêsu chỉ có sức mạnh biến đổi thực sự nhờ những dấu chỉ bí tích, những dấu chỉ thuộc thân xác và trong Giáo hội là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thái độ nào đối với những cử chỉ Đức Kitô muốn thực hiện trên chúng ta? Chúng ta sẽ đến gần Đức Giêsu để Ngài biến đổi chúng ta thành con người mới, con người được chữa khỏi câm điếc hay không? Con người từ nay trở đi hoàn toàn rộng mở!

 

 

 

 

 

80. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

CHỮA LÀNH MỘT NGUỜI NGỌNG ĐIẾC

 

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Điểm cần lưu ý trước tiên, đó là Chúa Giêsu đang ở trên đất lương dân, và đang chữa lành cho một người không phải là Do thái. Người không phân biệt đối xử. Điều quan trọng đối với Người là niềm tin. Và bước đầu của niềm tin là nhận biết mình bất lực, mình đang đau yếu, cần sự giúp đỡ của một đấng cao siêu hơn, quyền năng hơn.

2. “Người làm mọi sự cách hoàn hảo” (Mc 7,37). Hình như dân chúng đã khám phá ra sự liên hệ giữa phép lạ và tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, bởi vì việc cho kẻ câm được nói, kẻ điếc được nghe đúng là những công việc của Đấng Messia mà Isaia đã tiên báo (bài đọc 1). Một điều đáng ngạc nhiên: dân chúng ít học thì trực giác bén nhạy, trái lại các thượng tế, các thầy thông luật lại không nhận ra, dù họ nghiền ngẫm Thánh Kinh mỗi ngày (x. Ga 5,39). Chỉ có những tâm hồn cởi mở, đơn sơ, khiêm tốn như Maria mới có thể thốt lên: “Chúa đã làm cho tôi những việc kỳ diệu” (Lc 1,49). Tham dự Thánh lễ là cất tiếng ca tụng và tri ân Thiên Chúa.

3. “Epphata”: Ngay từ khi lãnh bí tích Rửa tội, người Kitô hữu được mở tai để nghe Lời Chúa, được mở miệng để tuyên xưng đức tin và cất lời ca tụng ngợi khen Chúa. Tuy nhiên căn bệnh câm điếc thiêng liêng luôn rình rập, đe dọa mọi người, như Chúa Giêsu đã từng khiển trách các sứ đồ “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (Mc 8,18; x. Ed 12,2) Cũng như đã trách cứ Biệt phái. Bởi đó cần tránh mọi thái độ kiêu căng tự phụ, mọi thiên kiến lệch lạc, mọi tham lam dục vọng v.v.. là những nhân tố biến ta thành những kẻ “điếc lác, trước tiếng lương tâm và che mắt tâm hồn ta không nhìn thấy được Chúa.

4. Thiết tưởng nên nhấn mạnh đến mối liên lạc cá nhân mà Chúa Giêsu tạo ra giữa Người với các bệnh nhân Người chữa trị. Lối Người hành động không có tính cách xa xôi, vô danh, tổng quát. Đối với Người, con người là một nhân vị đặc biệt, độc nhất không thể thay thế. Một trong những yếu tố căn bản của mầu nhiệm Tin Mừng là sự ưu ái mà Thiên Chúa dành cho con người và mầu nhiệm ấy bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Một đàng, Thiên Chúa làm việc để cả nhân loại trở nên một dân tộc, dân của Ngài, một đàng, Ngài biết tên của mọi người trong dân ấy. Trong Tin Mừng, người Mục tử biết tên mỗi con trong đoàn chiên mình. Chúa Giêsu, đối với mỗi một người, có một cái nhìn độc nhất, một lời nói riêng biệt. Một tình yêu cá nhân. Mọi người trên đời này đều đã, đang hoặc phải khám phá ra rằng Chúa Giêsu xem mình như một con người và cư xử với mình như một nhân vị Thiên Chúa nâng con người tầm thường lên một ngôi vị.

 

 

 

 

 

81. Chú giải của William Barclay.

CHỮA LÀNH MỘT NGƯỜI CÂM ĐIẾC

 

Để tiếp tục cuộc du hành rao giảng, Chúa Giêsu đã chuyển hướng đi. Ngài băng từ mạn tây hồ Tibêria (Tia, Siđon tức vùng Liban hiện nay) sang mạn đông tức vùng Thập Tỉnh (xứ Giođan) (c. 31). Ngài rảo khắp vùng đất dân ngoại để thi hành sứ mệnh của mình. Vừa mới chữa lành đứa con gái người phụ nữ dân ngoại, giờ đây Ngài lại ban phát hồng ân cho một người dân ngoại khác (c. 32). Maccô là tác giả duy nhất trong bốn tác giả Phúc Âm tường thuật lại việc chữa lành người câm điếc này. Tuy nhiên trình thuật này chứa đựng một khía cạnh khá lạ cần phải làm sáng tỏ. Người ta xin Chúa Giêsu đặt tay lên người bệnh để chúc lành nhưng Chúa Giêsu lại không làm thế; Ngài kéo người bệnh riêng ra và bắt đầu chạm đến các cơ quan cần được chữa lành. Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai và bôi nước bọt vào lưỡi người bệnh (c. 33). Với quan niệm vệ sinh hiện nay thì cử chỉ này xem ra làm chúng ta khó chịu. Tuy nhiên chẳng qua là Chúa Giêsu vay mượn một số thói quen y học của thời Ngài: đó là chạm tay vào cơ quan hư hỏng đồng thời sử dụng nước bọt, thứ nước được xem như nguồn sống kề cận với lời nói của con người để bôi vào lưỡi. Thái độ cầu nguyện tiếng Ngài thở dài (biểu thị phải làm một việc khó khăn) và lời Ngài thốt ra bằng tiếng Aram: “Hãy mở ra”, là những chi tiết lịch sử quý báu của lần chữa bệnh này (c. 34). Đang ở giữa vùng lãnh thổ dân ngoại nên Chúa Giêsu đã thích ứng với lối chữa bệnh của môi trường và thời buổi lúc đó. Loại chữa bệnh này được tìm thấy đầy dẫy trong các trình thuật về phép lạ nơi vùng đất dân ngoại thời đó nên nó chẳng làm ngỡ ngàng các độc giả đầu tiên của Phúc Âm Maccô là những người hiểu biết các tập tục của những người đương thời với họ. Cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu lập tức phát sinh hiệu quả (c. 35). Bệnh nhân câm điếc bắt đầu nghe và nói dễ dàng. Lẽ ra sau khi đạt được mục đích, trình thuật có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên lần nữa tác giả lại đề cập đến bí mật Đấng Mêsia (c. 36a). như trước kia Chúa Giêsu đã truyền cho người phung cùi (1,44) và gia đình cô bé bị bệnh chết (5,43) phải giữ kín thì lần này Ngài cũng truyền cho thân nhân người bệnh không được tiết lộ với ai. Trong tất cả các trường hợp này, Đấng Mêsia đã biểu lộ quyền năng Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài. Tuy nhiên Ngài không muốn công bố sứ mệnh Mêsia trước hạn định, bởi vì người ta có thể lẫn lộn về tư cách “Mêsia” của Ngài, tước hiệu và Ngài chỉ nhận được một cách thoả đáng, đầy ý thức qua miệng lưỡi Phêrô tuyên xưng nhân danh các môn đệ (8,30). Và tước hiệu ấy sẽ chỉ nhận được ý nghĩa trọn vẹn qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy vậy, ngay lúc này đây, Maccô lại cho thấy rõ là lệnh Chúa Giêsu truyền giữ im lặng đã bị người ta cố tình vi phạm (c. 36b). sở dĩ như thế là vì trong khi Maccô ghi laị trình thuật này, Tin Mừng Chúa Kitô Cứu Thế đã loan ra đến tận các vùng dân ngoại, đến tận cả Rôma! Giờ đây quả thực tốt đẹp biết bao vì Tin Mừng ấy đã được “công bố” ở giữa lòng thế giới. Cuối cùng, chúng ta thấy Maccô còn muốn trình bày ở đây đám quần chúng dân ngoại của Chúa Giêsu phải ứng bằng một lời tuyên xưng đức tin rất mãnh liệt (c. 37). Người ta dùng những lời của tiên tri Isaia để chúc tụng Chúa Giêsu (Is 35,5-6): “Ngài làm kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được”.

Đó là đích điểm của trình thuật được Maccô chủ ý dàn xếp. Trong “Chương nói về bánh” (từ 6,30) Maccô không bỏ qua chủ đề chính liên quan tới sự chậm hiểu của những kẻ theo Chúa Giêsu, tức các môn đệ Ngài. Các tông đồ vẫn không nhận ra ý nghĩa của các dấu chỉ Thầy họ thực hiện. Ở đây, họ chẳng được Maccô nêu tên: họ có vẻ như bị “vắng mặt” đang khi thực ra họ vẫn ở bên cạnh Chúa Giêsu trong sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại (x. 8,1 và tiếp theo). Như thế, người ta có quyền nghĩ rằng đoạn Phúc Âm trên đây trực tiếp nhằm vào họ. Họ là những kẻ vẫn khăng khăng câm điếc trước sứ điệp của Thầy mình mặc dù chính họ là những kẻ đầu tiên nhận được lời kêu gọi mạnh bạo của Ngài: “Hãy mở ra!” (c. 34b).

Chúa Giêsu thực sự mời gọi bạn hữu Ngài – kể cả Maccô cũng như các độc giả của ông- mở lòng đón nhận Tin Mừng và hành động của Đấng Cứu Thế đồng thời can đảm đem “công bố” lời giảng và hành động ấy cho thế gian.

 

 

 

 

 

82. Xin cho được nghe và nói

(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)

 

Thường người ta coi sự vật mà họ có là ngẫu nhiên và không đánh giá được sự vật họ có cho tới khi người ta mất đi sự vật đó. Chẳng thế mà cổ nhân mới nói: Có hay đau mắt mới thương người mù. Về khả năng nói và nghe, người ta cũng coi là ngẫu nhiên. Tuy nhiên nếu đặt mình vào địa vị người điếc và ngọng trong Phúc âm hôm nay, người ta mới đánh giá được cơ quan nói và nghe. Người ngọng và điếc phải cảm thấy ước muốn được chữa lành nên người ta mới xin Đức Giêsu đặt tay chữa anh ta. Phúc âm ghi lại Chúa đặt ngón tay vào lỗ tai anh ta và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mắt lên trời, Người thở hơi và bảo: “Ephata”, nghĩa là hãy mở ra. Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được dễ dàng (Mc 7:34-35).

Việc Chúa Giêsu làm trong Phúc âm hôm nay là việc hoàn thành lời ngôn sứ Isaia tiên báo là Đấng Thiên sai sẽ đến làm cho người điếc được nghe (Is 35:5) và người câm được nói (Is 35:6). Hai việc này cũng được dân chúng trong Phúc âm hôm nay chứng kiến khi họ nói: Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được (Mc 7:37).

Mục đích của việc Thiên Chúa tạo dựng nên lưỡi và tai, là để ta có thể thông đạt cho người khác, nghĩa là nói cho người khác nghe và nghe người khác nói. Có bao giờ ta cảm đội Thiên Chúa đã ban cho ta cái lưỡi để nói và tai để nghe không? Một cách tốt nhất để cảm đội ơn Chúa về hai cơ quan nói và nghe là biết dùng cho đúng mục đích của Đấng Tạo dựng. Miệng lưỡi ta được dựng nên để thông đạt tin tức, nói sự thật và sự thiện hảo, chứ không phải nói lừa dối và nói lời ghen ghét. Tai ta phải được dùng một cách khôn ngoan chứ không phải để nghe và khuyến khích người khác nghe nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian. Nghe người khác nói hành, nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống là lạm dụng mục đích của Đấng tạo dựng đôi tai. Khi vào toà cáo giải, ta có thể xưng tội nói hành nói xấu người khác, nhưng có bao giờ ta xưng tội đã nghe người khác nói hành nói xấu không?

Việc người ta xin Đức Giêsu chữa người điếc và ngọng bao hàm lòng tin tưởng cậy trông vào quyền năng Chúa. Và việc Chúa chữa người ngọng và điếc xẩy ra trong lãnh thổ dân ngoại của miền Thập tỉnh. Điều đó chỉ cho thấy Chúa Giêsu cũng để ý đến dân ngoại và thương xót họ. Việc Chúa chữa người điếc và ngọng còn ám chỉ mục đích gì khác nữa chứ không phải chỉ để người đó có thể nghe và nói chuyện giữa loài người với nhau thôi. Miệng lưỡi và lỗ tai còn được tạo dựng với mục đích cao hơn nữa là để nghe và loan truyền lời Chúa nữa. Đó là việc mà người điếc và ngọng được chữa khỏi và bạn hữu anh ta đã làm. Họ loan truyền với nhau: Ông ấy làm việc gì cũng tốt cả (Mc 7:37).

Khi lãnh nhận phép rửa tội, linh mục chạm vào tai ta, và đọc chính lời Chúa nói trong Phúc âm hôm nay: Hãy mở ra. Đây có nghĩa là tai ta phải được mở ra đón nhận lời Chúa và lắng nghe lời Chúa bằng đức tin. Đức tin mở tai ta cách thiêng liêng. Ta có thể nghe lời Chúa trong Thánh kinh. Tuy nhiên nếu không có đức tin, ta chỉ nghe như đọc chuyện thường, chứ không phải nghe lời Chúa. Lời Chúa phải có sức tác động tâm hồn và thay đổi đời sống con người. Lời Chúa mạc khải trong Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại. Tuy nhiên chỉ có những người mở rộng tâm hồn, những người khiêm tốn, mới lãnh hội được lời Chúa. Biết lắng nghe là một yếu tố quan trọng trong việc thông đạt hàng ngày. Người biết lắng nghe là người không những chỉ nghe bằng tai, mà còn nghe với cả tâm hồn. Tai ta có thể nghe câu chuyện Thánh kinh, nhưng chỉ có tâm hồn mới có thể lắng nghe tiếng Chúa.

Tóm lại mục đích của việc tạo dựng miệng lưỡi và lỗ tai là để dùng vào việc ca tụng và làm vinh danh Thiên Chúa. Chúa cho ta lỗ tai nghe để nghe những lời ca tụng Người. Chúa cho ta miệng lưỡi để tung hô ngượi khen Chúa.

Hôm nay ta cầu xin Chúa cho ta biết sống trong tâm tình biết ơn: biết ơn Chúa cho ta có thể nói được với nhau và nói được với Chúa trong lời cầu nguyện và thờ phượng, biết ơn Chúa vì ta có thể nghe được người khác, cũng như nghe được lời Chúa khi có người tuyên xưng. Trong thánh lễ ta lắng nghe lời Chúa trong Thánh kinh và trong bài giảng, và cả trong thánh ca và thánh nhạc. Lời Chúa không phải là tiếng nói một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả. Nghe lời Chúa rồi ta cầu xin cho được biết đáp trả bằng cách loan truyền lời Chúa, bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng đời sống đức tin.

Trong bài giảng lễ Chúa nhật, có linh mục kia hỏi cử toạ xem có ai nhớ tuần trước linh mục giảng về điều gì không? Cử toạ yên lặng một lúc. Cuối cùng một thanh niên có vẻ bụi đời, giơ tay phát biểu:

– Dạ thưa Cha, con nhớ rồi.

– Sao Anh nhớ thế nào? Linh mục hỏi.

– Thưa Cha, con nhớ Cha giảng thế này: Đó… đó… đó là lời Chúa.

Lời cầu nguyện xin cho được biết nghe và loan truyền lời Chúa:

Lạy Thiên Chúa toàn năng!

Con xin tạ ơn Chúa đã ban cho con

miệng lưỡi và lỗi tai để thông đạt với loài người

và thông đạt với Chúa.

Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,

biết tìm phương tiện và cách thế,

giúp người điếc và ngọng được thông đạt

với nhau và với Chúa theo cách thế của họ. Amen.

 

 

 

 

 

83. Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng

(Giải thích và suy niệm của Nguyễn Ngọc Thế SJ)

 

Vài hàng sơ lược

– Với câu mở đầu (31), Máccô nối kết câu chuyện này với câu chuyện trước, nghĩa là với chuyến đi rao giảng ở ngoài Israel của Giêsu. Sau khi rời Tia, giờ đây Giêsu lại đến một miền đất khác. Đó là miền đất Thập Tỉnh, một miền đất của dân ngoại. Với Mác-cô quan trọng là Giêsu đi khắp miền dân ngoại để rao giảng Tin Mừng. Miền thập tỉnh – Deka,polij (dekapolis), là một liên hiệp của các thành phố trong miền đông Gio-đan. Trong miền thập tỉnh này, chiếm phần lớn là dân Hy-lạp và Sy-ri. Miền này không thuộc về sự cai quản của Hê-rô-đê. Tổng trấn La-mã là người có quyền ở đây và miền này có những ưu tiên riêng biệt. Dân Do-thái là thiểu số trong miền này, và thuộc về tầng lớp thấp hèn. (ss. G. Schille – Horst Balz/ Gerhard Schneider (Hrsg.), Band I, s.681-682)

– Câu chuyện chữa bệnh này thuộc về những câu chuyện Giêsu làm phép lạ. Và nó chỉ ra nhiều điểm liên quan đến y học dân gian và cách thức làm phép lạ thời đó: Đụng vào chỗ đau, sử dụng nước miếng, hướng nhìn lên trời để ‘kéo’ sức mạnh có sức chữa lành xuống, rên lên là công thức bí mật trong khi chữa bệnh. Trong thực tế, Giêsu đã hòa nhập và thích ứng với xã hội thời đó.

– Theo Helmut Meklein, so với Mác-cô, Mát-thêu 15,29-31 kể lại rằng, sau khi rời Tia, Giêsu đi đến ven Biển Hồ Ga-li-lê ngay. Ở đó Ngài chữa kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Sau sự kiện chữa lành này, Mát-thêu đã kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ hai cho bốn ngàn người ăn. (Mt 15,32-39).

Suy niệm

– Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.

Trong mỗi phép lạ, Mác-cô đều nêu bật rõ hai phần, phần người làm phép lạ xuất hiện, và phần người cần được giúp đỡ đến. Thêm vào đó, Mác-cô nêu rõ bối cảnh của phép lạ. Như phép lạ Ngài chữa người bị quỷ ám trong Mc 1,21: “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um.” Hay phép lạ khác cũng liên quan đến người bị quỷ ám trong vùng của người Ghê-sa-ra: “Đức Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa” (Mc 5,1). Ngoài ra, có thể coi thêm ở Mc 1,29; 2,1-3; 7,24tt và 8,22.

Còn ở đoạn phúc âm này, khung cảnh của phép lạ Giêsu sắp làm cũng được nhắc đến: “Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”. Tuy nhiên, theo R.Pesch thì khi diễn đạt bối cảnh như vậy, Mác-cô không có ý nhấn mạnh đến tính cách lịch sử của nơi phép lạ xảy ra, mà Mác-cô muốn diễn đạt một chương trình truyền giáo. Vâng, Đấng làm mọi sự tốt đẹp cần được loan báo không chỉ nơi miền đất đầy ánh sáng, mà còn cần phải được loan truyền tại miền đất của dân ngoại, trong miền Thập Tỉnh.

Theo Meinrad Limbeck, thì đối với Giêsu miền đất dân ngoại không phải là miền đất ô uế. Và ngoài những người ở mảnh đất Israel còn có nhiều người cần đến sự giúp đỡ và cứu thoát của Giêsu.

– Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.

Một người vừa điếc vừa ngọng – một người bị giới hại rất nhiều trong tương quan với người khác. Thật là khó khăn anh ta mới có thể hiểu được người khác, và ngược lại cũng thế. Chẳng dễ dàng gì để người vừa điếc vừa ngọng có thể hiểu điều mình muốn diễn đạt. Vì vậy, mà cánh cửa mở ra với thể giới bên ngoài, đến với người khác, rất hẹp hay đôi khi bị đóng lại đối với những người điếc và và ngọng. Có thể nói rằng, một bức tường ngăn cách đang đứng trơ trơ ở đó. Cái thê thảm nằm ở chỗ là, bây giờ không chỉ người điếc không nghe được những âm thanh ở bên ngoài, mà anh ta chỉ có thể nghe chính mình mà thôi. Một thế giới như bị đóng kín. Một cuộc đời như bị khóa kỹ vào trong căn phòng đóng chặt tất cả cửa sổ, và bị cách âm hoàn toàn. Chúng ta thử mường tượng, trong hoàn cảnh như vậy, chúng ta chỉ còn nói chuyện với chính mình, chúng ta chẳng còn nghe thấy gì cả và cũng chẳng được người khác lắng nghe. Thật thê thảm. Nếu cứ như vậy thì một lúc nào đó tất cả sẽ bị “xé rách” ra hết. Cả tâm hồn, cả cuộc sống, cả những gì thật là cao quý có thể đều bị “xé nát”. Một cuộc sống thật buồn, vì cuộc sống đó bị cô lập, bị tách ra khỏi lòng xã hội.

Hình ảnh này cũng có thể liên hệ đến chính chúng ta. Vâng, chúng ta hãy để Đức Thánh Cha Biển Đức chia sẻ về điều này:

“Các giáo phụ nói về đề tài con người và nói cho con người của thời đại các ngài. Nhưng điều mà các ngài nói, cũng có liên hệ một cách mới mẻ cả với chúng ta, những con người thời hiện đại. Không những có sự điếc tai của thân thể làm cho con người gần như hoàn toàn bị tách ra khỏi sinh họat xã hội. Còn có một sự giảm yếu trong sự lắng nghe đối với Thiên Chúa, mà chúng ta đang gặp phải, nhất là trong thời đại chúng ta. Chúng ta không thể cảm thấy Thiên Chúa được nữa; có quá nhiều làn sóng khác nhau chiếm cứ đôi tai chúng ta. Điều được nói về Thiên Chúa, xem ra như là điều “tiền khoa học” đối với chúng ta, xem ra như không còn thích hợp với thời đại chúng ta nữa. Với sự giảm yếu sự lắng nghe, hoặc nói cách khác, với sự điếc tai tinh thần đối với Thiên Chúa, thì cũng bị mất đi khả năng chúng ta nói cùng với Ngài hoặc nói với Ngài. Như thế, chúng ta bị thiếu đi một nhận thức quyết định. Những giác quan nội tâm chúng ta gặp nguy hiểm bị mai một đi. Với sự thiếu mất sự nhận thức này, thì tầm mức của tương quan chúng ta với thực tại cũng bị bao vây một cách mãnh liệt và đầy nguy hiểm. Chân trời của đời sống chúng ta bị thu hẹp một cách đáng ngại.” (Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera)

Vâng, thật đáng ngại biết bao, khi cuộc sống của chúng ta bị giới hạn trong thế giới nhỏ bé của chính mình, trong thế giới bao la nhưng thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng đi khả năng lắng nghe Lời Ngài, và vì thế mà tình yêu của Chúa cũng bị để ngoài tai. Vì vậy, lúc này những đôi tai như bị điếc hay bị điếc thật và những đôi môi như bị ngọng hay bị ngọng thật, cần được dẫn tới với Giêsu. Chính Ngài sẽ ra tay chữa lành, chính Ngài sẽ đến để cứu chữa. Ở đây, chúng ta nghe tiên tri I-sa-ia đã loan truyền:

“Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (Is 35,4)

Như vậy, người ta đưa anh điếc và ngọng đến với Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.

Thái độ đặt tay là thái độ mà Giêsu đôi khi làm để chữa bệnh, như trường hợp chữa cho con gái ông Gia-ia: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” (Mc 5,23) Ngoài ra, cũng có nhiều đoạn khác nhắc đến việc chữa bệnh của Giêsu qua việc đặt tay, hay dùng tay để đụng tới người bệnh: Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1,40-41) Hay trong trường hợp của người mẹ vợ ông Phêrô: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.” (Mc 1,31) Vâng, đôi bàn tay nhân từ yêu thương, bàn tay của Giêsu là đôi bàn tay chữa bệnh, nâng dậy, và dẫn về với con đường của sự sống. Về đôi bàn tay nhân ái này, Đức Thánh Cha Biển Đức đã nói như sau: “Người giơ tay nắm chúng ta trong các bí tích, Người chữa lành chúng ta khỏi bịnh hoạn của những đam mê và tội lỗi nhờ sự xá giải trong bí tích hoà giải. Người ban cho chúng ta khả năng trỗi dậy để đứng trước Thiên Chúa và trước những người nam và nữ.” (Bài giảng Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI giảng ngày 5/2/06 khi ngài viếng thăm Giáo xứ Thánh Anna tại Vatican)

– Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra!

Không như những thầy thuốc bình thường, sẽ đưa người bệnh đến trước đám đông để chữa, vì qua đó họ muốn được người ta nhìn thấy, trầm trồ thán phúc khen ngợi và công nhận. Giêsu chẳng cần lời khen, và cũng không muốn ai thán phục, nên Ngài đã kéo riêng người bệnh tách khỏi đám đông, tách khỏi đám người tò mò, đám người hay dòm ngó, phê bình. Một cách nào đó, đôi khi Giêsu cũng không muốn đám đông quấy rầy, khi Ngài làm phép lạ, như trường hợp chữa cho con gái ông Gia-ia: “Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “ (Mc 5,40-41)

Sau khi tách người bệnh ra, và một mình với anh ta Giêsu đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.

Hành động đầu tiên là đặt ngón tay vào lỗ tai. Theo R. Pesch thì sức mạnh có sức chữa lành không chỉ toát ra từ đôi tay, mà còn từ ngón tay nữa. Chính ngón tay của Thiên Chúa đã giải thoát dân Ngài khỏi quyền lực của Pha-ra-ô. Vâng, qua cây gậy của A-a-ron, các phù thủy đã nhận ra ngón tay của Thiên Chúa: “Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy giơ gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất cho nó biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập… Các phù thủy thưa với Pha-ra-ô: “Đó là ngón tay của Thiên Chúa! “ Nhưng lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không nghe hai ông, như ĐỨC CHÚA đã nói trước.” (Xh 8,12 và 15) Và cũng với chính ngón tay của Thiên Chúa, Giêsu đã trừ quỷ, đã đuổi thần dữ ra khỏi cuộc đời: “Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,20)

Hành động thứ hai Giêsu làm cũng liên quan đến ngón tay. Vâng, Ngài đã dùng tay bôi nước miếng vào lưỡi anh ngọng. Theo R. Pesch , người ta có thể mường tượng rằng, Giêsu nhổ nước miếng trên tay của mình và sau đó mới bôi cho người bệnh.

Nước miếng là một chất để chữa bệnh. Vâng, tôi vẫn còn nhớ hồi nhỏ Mẹ tôi cũng đã từng dùng nước miếng mình để bôi lên vết xước da chảy máu sau những lần nghịch ngợm. Theo R. Pesch, thì kế bên Nước, Máu, Rượu và Dầu thì nước Miếng cũng thuộc về những chất lỏng có thể dùng để chữa bệnh. Nước miếng cũng có chất nhờn như dầu, và từ cơ thể con người nên cũng có “họ hàng” với máu. Như thời cổ đại Hy-lạp và La-mã, Do-thái giáo cũng coi nước miếng như là chất dùng đặc biệt để chữa bệnh đau mắt. Về điểm này, chúng ta có thể đọc được ở Mc 8,23: “Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: “Anh có thấy gì không?”

Sau hai hành động trên, Giêsu ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra!

Ngước mắt lên trời là hướng về cha mình. Theo Hans Urs von Balthasar, thì mỗi phép lạ mà Giêsu làm là một hành động của Cha được làm qua Giêsu. Chúng ta có thể đọc được thái độ hướng lên trời của Giêsu ở một vài phép lạ khác: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người.” (Mc 6,41) Hay như trong phép lạ kêu ông La-gia-rô ra khỏi mồ ở Gioan 11,41-43: “Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! “

Sau khi hướng mắt nhìn lên trời, Mác-cô thuật lại là Giêsu rên lên một tiếng. “stena,zw stenazo – rên “ Theo R. Pesch là cách diễn tả về thái độ Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Nghĩa là dấu chỉ Giêsu nhận được sức mạnh để chuẩn bị cho phép lạ Ngài làm.

Sau khi đã chuẩn bị như vậy, Giêsu lên tiếng nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra!

Mác-cô giữ lại từ ngữ này trong tiếng aramaica với ý nghĩa được dịch ra sau đó. Theo R. Pesch thì từ ngữ để chữa bệnh này, trong tai của người Hy-lạp là một lời lạ lẫm có sức chữa bệnh như một câu thần chú. Bình thường, thì lời chữa bệnh là lời đầy quyền năng có thể truyền tải sức mạnh. Vâng, một lời có sức giải thoát đời người khỏi bóng đêm, một lời có thể kéo đời người ra khỏi cái điếc và cái ngọng, một lời của tình yêu thương, một lời của ân sủng tràn đầy trên một đời người, trên cả dân Israel và hôm nay cho toàn thể nhân loại. Lời “Ép-pha-tha”, này Giáo Hội cũng dùng trong bí tích rửa tội. Vị linh mục hay thầy phó tế sẽ rờ tới tai và miệng của con trẻ và nói: “Ép-pha-tha – hãy mở ra”. Mở tai ra để lắng nghe Lời của Chúa, và mở miệng ra để loan báo Tin Vui của Chúa. Tin vui về ơn cứu thoát về tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa từ nhân. Theo Adolf Pohl, qua lời chữa lành của Giêsu, người đọc ở đây sẽ được nhắc nhớ đến sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài đã mở miệng cho con người, mở mắt, mở tai, mở lòng, mở niềm tin, mở cuốn sách cuộc đời, mở cánh cửa cuộc đời, và mở cả cửa lao tù nhốt con người vào trong đêm đen. Và Thiên Chúa mở cả cánh cửa của mồ mả và mở cả cánh cửa của trời cao để đón nhận con người.

Tóm lại, về những hành động của Giêsu trong phép lạ này, Đức Thánh Cha diễn tả rất hay và liên quan trực tiếp đến chúng ta:

“Phúc âm kể lại rằng Chúa Giêsu đưa ngón tay chạm đến lỗ tai của người câm điếc, và thấm một chút nước miếng của Ngài trên lưỡi của người bệnh và nói: Effata – Hãy mở ra! Tác giả phúc âm đã giữ lại cho chúng nguyên ngữ tiếng aramaica mà Chúa Giêsu đã nói, và như thế đưa chúng ta trực tiếp vào trong giây phút đó. Điều mà được kể lại trong phúc âm, là điều duy nhất, tuy nhiên không thuộc về quá khứ xa xôi: Chúa Giêsu thực hiện cũng một điều như vậy một cách mới mẻ và làm lại điều đó nhiều lần cả trong thời đại hôm nay. Trong bí tích Rửa Tội, Chúa Giêsu đã hoàn tất trên chúng ta cử chỉ chạm đến này, và đã nói với chúng ta: Effata, hãy mở ra! Để làm cho chúng ta có khả năng cảm nghiệm được Thiên Chúa và như thế để cho chúng ta có lại khả thể nói chuyện với Thiên Chúa. Nhưng biến cố này, - biến cố Bí Tích Rửa Tội - không có gì là ảo thuật. Bí tích Rửa tội mở ra một con đường. Bí Tích đưa chúng ta vào trong cộng đoàn của những kẻ có khả năng lắng nghe và nói, đưa chúng ta vào trong sự hiệp thông với chính Chúa Giêsu, Đấng duy nhất đã nhìn thấy Thiên Chúa Cha và sau đó đã có thể nói về Ngài (x. Gn 1,18): qua đức tin, Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta việc Người nhìn thấy Thiên Chúa, việc Người lắng nghe Thiên Chúa và nói chuyện với Thiên Chúa. Con đường của kẻ lãnh nhận bí tích rửa tội, phải là một diễn tiến của sự phát triển từ từ, trong đó chúng ta lớn lên trong cuộc sống hiệp thông với Thiên Chúa, và như thế đạt được một cái nhìn mới khác về con người và về tạo vật… và Phúc âm mời gọi chúng ta hãy ý thức rằng trong chúng ta có bị thiếu hụt về khả năng nhận thấy - một sự thiếu mà lúc đầu chúng ta không lưu ý được như vậy-, bởi vì phần còn lại được sử dụng bởi sự khẩn thiết và hợp lý của nó; bởi vì từ bên ngoài xem ra như tất cả đều tiến hành một cách bình thường, cả khi chúng ta không còn đôi tai lắng nghe và đôi mắt nhìn thấy Thiên Chúa nữa và chúng ta sống không có Ngài. Nhưng thử hỏi có phải tất cả đều diễn ra cách đơn thuần, khi Thiên Chúa bị thiếu đi trong đời sống chúng ta và trong thế giới chúng ta hay không? (Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera)

– Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.

Kết quả của phép lạ được Mác-cô diễn tả tương hợp với hành động Giêsu đã làm trước đây. Đó là “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.”

Như vậy, Giêsu đã đặt ngón tay vào lỗ tai và đã “mở tai” của người điếc, để anh ta có thể nghe lại được, và với nước miếng Ngài đã bôi vào lưỡi, để nhờ đó lưỡi anh hết bị buộc lại, nghĩa là được cởi ra khỏi “một sức mạnh đang trói buộc anh.”

Động từ “trói buộc” chỉ về một căn bệnh bị thần dữ trói buộc. Ở Luca 13,16 cũng nhắc đến người phụ nữ còng lưng được Giêsu tháo cởi khỏi xiềng xích trói buộc bà: “Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao? “

Vâng, giờ đây anh bạn điếc và ngọng của chúng ta đã có lại được khả năng nghe và nói. Và anh ta còn nói được rõ ràng nữa, chứ không phải bặp bẹ một vài câu. Mác-cô diễn tả rất rõ ràng. Anh ta đã trở lại con người bình thường như mọi người. Thật là một tin vui lớn lao. Tin vui này ứng nghiệm với lời của tiên tri Isaia 35,5-6:

“Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.

Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,

miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.

Vì có nước vọt lên trong sa mạc,

khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.”

– Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.

Lời truyền bảo phải giữ kín của Giêsu ở đây hướng về ngôi thứ hai số nhiều “họ”. Như vậy, nhóm người có mặt dù đã bị tách biệt, nhưng có thể vẫn chứng kiến được phép lạ Giêsu làm. Tuy nhiên, điều mà tác giả muốn diễn tả ở đây là việc lời truyền bảo giữ kín của Giêsu đã bị “phá tan”. Ngoài ra, Mác-cô cũng hướng về tinh thần truyền giáo của Giêsu và về Giêsu tại miền Thập Tỉnh, miền đất của dân ngoại, như chính một anh bị quỷ ám được Giêsu chữa bệnh, và sau đó được sai đi vào miền Thập Tỉnh để làm chứng: “Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” (Mc 5,19)

Vâng, hành động tốt lành của Giêsu không thể giữ kín được. Điều tốt lành cần được lan rộng, lan rộng như vết dầu loang.

Còn về nguyên nhân Giêsu truyền phải giữ kín, thì chúng ta cũng có thể nhận ra. Đó là Giêsu muốn thi hành sứ mạng của mình. Nếu không, thì người Do-thái có thể bắt Ngài và tôn Ngài lên làm vị thủ lãnh, là Vua theo ý riêng và chương trình của họ. Mà sứ mạng của Giêsu thì đâu có tương hợp với một kế hoạch chính trị nào.

– Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”

Một lời chứng và ngợi ca giữa mảnh đất dân ngoại, trong miền Thập Tỉnh.

Thật là tuyệt vời!

Vinh danh Thiên Chúa không chỉ tỏ rạng trong vùng trời của niềm tin, mà còn tỏ rạng trong bầu trời của nhiều tâm hồn chưa biết Chúa. Có lẽ vì thế, mà cần phải mở miệng tung hô to hơn và rõ ràng hơn.

Máccô diễn tả thật là hay: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả.” Lời ngợi khen này giành cho Giêsu. Và Giêsu được ăn mừng như Đấng được nhắc trong Sáng thế ký 1, 31: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp.” (ss. thêm ở Hc 39,16)

Vâng, trong Giêsu Gia-vê Thiên Chúa đang đến, như I-sa-i-a đã nói: “Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (35,4), và khi Người đến thì người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ nói được, và què sẽ đi lại đàng hoàng, người còng lưng sẽ đứng thẳng dậy và không chỉ thế, mà còn:

“có nước vọt lên trong sa mạc,

khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.

Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,

đất khô cằn có mạch nước trào ra.

Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên.” (Is 35,6b-7)

Vâng, Đấng Cứu Độ đã đến và khi Ngài đến thì Ngài sẽ giải thoát những người con yêu dấu của Ngài và:

“Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về,

tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,

mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.

Họ sẽ được hớn hở tươi cười,

đau khổ và khóc than sẽ biến mất.” (Is 35,10)

—————————

Tham khảo

– Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/1, s. 391-400

– Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1, s.296-301

– Meinrad Limbeck, Markus-Evangelium, Stuttgarter kleiner Kommentar, kbw-Verlag, Stuttgart 1984, s. 97-98

– Gottfried Schille – Horst Balz & Gerhard Schneider (Hrg), Exegetisches Woerterbuch zum Neuen Testament Band I, 2.Aufl., Kohlhammer Verlag, Stuttgart-Berlin-K#ln 1992I, từ ngữ Deka,polij (dekapolis)

– Helmut Merklein, Die Jesusgeschichte-synoptisch gelesen, Stuttgarter Bibelstudien 156, kbw-Verlag, Stuttgart 1994, , trang 135-136

– Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI, giảng ngày 5/2/06 khi ngài viếng thăm Giáo xứ Thánh Anna tại Vatican. www-vietcatholic.net

– Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera. www.vietcatholic.net

home Mục lục Lưu trữ