Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 36

Tổng truy cập: 1374811

MỘT SỰ THĂNG CẤP LẠ LÙNG

Một sự thăng cấp lạ lùng – Achille Degeest.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Cảnh tượng thuật lại ở đây diễn tả ơn Chúa Thánh Thần mà Chúa Kitô ban cho các môn đệ khi Ngài chưa lên cùng Cha Ngài. Ơn Chúa Thánh Thần mà Chúa Kitô ban cho các môn đệ khi Ngài chưa lên cùng Cha Ngài. Ơn Chúa Thánh Thần có mục đích làm cho hàng giáo phẩm nên môi giới trong việc tha thứ tội lỗi và ban phát Chúa Thánh Thần. Đoạn Tin Mừng này là một trong những đoạn đánh dấu sự chuyển tiếp giữa thời kỳ Chúa Kitô trong những ngày còn trong thể xác và thời kỳ Giáo Hội tức là thời kỳ Chúa Kitô theo Thần Linh. Đoạn này loan báo những liên hệ mới nối kết con người với Thiên Chúa. Giáo Hội ngày nay đang sống trong một sự hiện diện của Chúa Kitô khác với sự hiện diện của những ngày kế tiếp Chúa sống lại, nhưng là một sự hiện diện thể hiện lời hứa không để các môn đệ mồ côi. Đâu là những liên hệ hiện nay của người Kitô hữu với Chúa Kitô, với Chúa Cha và với Chúa Thánh Thần.

1) Với Chúa Kitô. Chúa Kitô trong giai đoạn lịch sử của Ngài trong sự chết sống lại và vinh hiển, là đối tượng của đức tin. Chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Đấng thực hiện sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta và nơi chúng ta. Thiên Chúa là Đấng cao xa đã nhờ Chúa Kitô, trở thành một sự hiện diện gần gũi với con người. Niềm xác tín mạnh mẽ rằng Chúa Kitô sống lại và hằng sống vẫn hiện diện với chúng ta ngày hôm nay, là một ơn huệ kỳ diệu của Phục Sinh. Việc Chúa sống lại không làm cho Ngài hiện diện cách thể lý như khi còn ở Galilêa, nhưng nó tạo điều kiện cho một sự kết hợp mới, về thiêng liêng thâm sâu hơn với Ngài nhờ đức tin và các bí tích. Hơn nữa, Chúa Kitô hoạt động trong chúng ta và qua chúng ta.

2) Với Chúa Cha. Xuyên qua hành động tin kính Chúa Kitô, chúng ta đến được với Chúa Cha. Nhìn ngắm Chúa Kitô trong một cái nhìn đức tin, tức là nhìn thấy Chúa Cha. Ngược lại, Chúa Cha khi nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Con, sẽ có một cái nhìn trìu mến mà Ngài hằng có đối với Chúa Giêsu. Lời nguyện cầu của chúng ta với tư cách là môn đệ Chúa Giêsu bắt gặp sự lắng nghe mà Chúa Cha luôn có đối với Chúa Con; lời cầu nguyện này luôn được chấp nhận. Hơn nữa toàn thể môn đệ họp thành Giáo Hội hôm nay, làm được những công việc mà Chúa Giêsu đã làm trong quãng đời ngắn ngủi của Ngài ở trần gian. Việc Phúc Âm hoá thế giới là một thí dụ. Trên tất cả mọi sự, nhờ ơn cứu độ, chúng ta được nên con của Thiên Chúa trong Chúa Con. Trở nên con cái Thiên Chúa: ôi, một sự thăng cấp kỳ diệu!

3) Với Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta những cơ cấu nội tâm làm phát sinh những hành động đức tin. Chính Ngài tạo ra trong chúng ta một tương quan mới liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài sáng soi, khuyên nhủ và củng cố chúng ta. Cần nhấn mạnh điều mà thánh Gioan nói về Thần Linh mà Chúa Giêsu ban cho các môn đệ. Các môn đệ ngày nay tức là Hàng giáo phẩm. Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến một sự phản kháng chống đối Hàng giáo phẩm nhân danh cái mà người ta có thể tóm tắt bằng từ ngữ dễ chịu là “tiếng nói tiên tri”. Những tác phẩm mới đây đã chứng tỏ rằng có một thứ tiên tri sai lầm, tách lìa khỏi Hàng giáo phẩm hay đối nghịch bằng một sự đối nghịch tự căn bản đối với giáo quyền, vùng vẫy trong những xung đột mâu thuẫn và chắc chắn không thể xuất phát từ Chúa Thánh Thần được. Thế thì do thần linh nào đây? Hãy coi, một tiên tri như thánh Phanxicô thành Assisi ngày xưa và nhiều vị Tông đồ lớn ngày nay, họ luôn tỏ ra rất lưu tâm đến việc hiệp thông với Phêrô và các môn đệ. Có lẽ thái độ của họ bắt nguồn từ cái họ không coi tình cảm cá nhân mình là cái gì tuyệt đối. Thật quá dễ mà chụp mũ từ ngữ Thần linh vào những “tiếng kêu la” của một thứ nhạy cảm độc địa hoặc những lời sấm của một thứ kiêu ngạo vô thức. Nhưng ai có được bảo đảm sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần nếu không phải là Phêrô và các Tông đồ.


 

37. Dấu chân của Thiên Chúa – R. Veritas

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Nhiều năm trước đây có một nhà bác học vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy cứ chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những người Ả Rập cùng đi đường đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời chắp tay cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:

- Các ông làm gì vậy?

Họ thản nhiên trả lời không chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng tôi.

Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa mai:

- Vậy chứ các ông đã thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài khi nào chưa?

Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:

- Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy tai nghe tiếng Chúa bao giờ cả?

Nhà bác học sửng sốt lên giọng:

- Các ông thực là những người điên, các ông mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.

Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.

Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:

- Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là tối hôm qua có con lạc đà nào đã đi qua đây rồi.

Một tia sáng đầy hy vọng và vui mừng loé lên trong ánh mắt hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những câu hỏi liên tiếp:

- Vậy thì chắc là ông đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc ông ngủ chăng?

Nhà bác học thật thà đáp lại:

- Không, tối hôm qua tôi ngủ ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng không sờ tới lông nó.

Hướng dẫn viên nói:

- Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông lại nói là mắt ông không thấy, tai ông cũng không nghe tiếng chân lạc đà.

Nhà bác học cương quyết cãi lại:

- Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?

Cùng lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng kéo dài những tia sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:

- Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với ông Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học. Đời sống được xây dựng trên khoa học, được hướng dẫn bởi khoa học, được đánh giá bằng khoa học. Cái gì cũng phải có khoa học. Mà khoa học thì phải chính xác, rõ ràng, có thể phân tích, mổ xẻ và kiểm nghiệm được. Tinh thần khoa học thực nghiệm được áp dụng vào mọi lãnh vực, kể cả tôn giáo. Người ta nhân danh khoa học mà phê phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa học, kiểm nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê tín. Thái độ phê phán và não trạng thực nghiệm của con người thời nay không khác bao nhiêu so với tâm tính thực nghiệm và cứng rắn của Tông đồ Tôma thời xưa trong câu truyện Tin Mừng hôm nay.

Nghe các bạn kể lại: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa Phục Sinh”, ông Tôma vẫn không tin. Ông muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, chứ không phải dựa trên các chứng từ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của ông. Ngài đã hiện ra và bảo ông: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy… Hãy đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi ông: “Đứng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin…”. Không những tin vì đã thấy mà còn phải tiến đến chỗ tin cho dù không được thấy. Dựa vào Lời Chúa, ông Tôma đã tin mà không cần kiểm chứng nữa. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc khải chân lý này: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”.

Thưa anh chị em,

“Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”. Lời này như được ngỏ với chúng ta, những người tín hữu Kitô hôm nay mà lòng tin dựa trên chứng từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào kinh nghiệm giác quan: sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh gần 2000 năm, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận đức tin. Tin nơi Thánh Kinh, tin nơi Giáo Hội, những bảo chứng đáng tin nhất, không còn cách nào khác. Với ơn đức tin, chúng ta có thể gặp Chúa và tiếp cận với Ngài. Đó là một hạnh phúc thật sự. Theo ý hướng đó, lời tuyên xưng của ông Tôma cũng phải là lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, của mỗi người ca vào Đức Kitô ”Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.

Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh thực sự đem lại cho người Kitô hữu một niềm hân hoan khôn tả, như Thánh Phêrô đã xác quyết: “Dù bây giờ anh em không thấy Ngài, nhưng anh em tin, nên anh em sẽ được vui mừng khôn tả, vì đã nắm chắc thành quả của đức tin anh em, là ơn cứu độ” (1Pr 1,9). Niềm hân hoan đó không chỉ lắng sâu trong tâm hồn, mà còn tràn ra bên ngoài trong cuộc đời các Kitô hữu. Điển hình là niềm vui trong cuộc sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).

Anh chị em thân mến, nếu Giáo Hội hôm nay có được cuộc sống như các tín hữu tiên khởi thì Giáo Hội lo sợ gì trước những tra vấn của khoa học. Chẳng những thế, Giáo Hội còn có khả năng cống hiến cho thời đại khoa học một lời chứng sống động, hùng hồn về hoạt động của Đấng Phục Sinh trong lịch sử, ngang qua cuộc sống dấn thân của các Kitô hữu để đem lại tình yêu và sự sống cho anh em đồng loại.

Con đường của lòng tin chúng ta hôm nay là con đường của lòng mến. Càng yêu mến nhiều, càng tin vững chắc. Và những người có lòng mến Chúa thường không cần phải tin, mà họ thấy. Thánh Tôma tiến sĩ cầu nguyện: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”. Và có lẽ đó cũng là lời cầu xin của mỗi người tín hữu chúng ta, trong cuộc hành trình đức tin trên trần thế này cho đến ngày được xuất hiện trong vinh quang với Đấng Phục Sinh.


 

38. Phục sinh

Chứng lý về sự Phục sinh của Chúa Kitô, không chỉ dựa vào sự kiện ngôi mộ trống, mà còn phải kể đến những lần Đấng Phục sinh hiện ra với nhiều người, cũng như phải quan tâm đến những lời chứng của những người đã tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô sống lại. Trang Tin Mừng hôm nay sẽ cung cấp cho chúng ta những chứng lý quan trọng và sống động ấy.

Chúa Kitô Phục sinh hiện đến vào lúc thánh Tôma vắng mặt, cho nên ông đã không tin rằng Chúa Giêsu sống lại. Vì thế, ông đòi hỏi một sự kiểm chứng. Thử hỏi 10 vị tông đồ kia, nếu không tận mắt nhìn thấy và đích thân gặp gỡ Đấng Phục sinh, các ông có thể dễ dàng chấp nhận lời của anh em khác không? Chúng ta rất hồ nghi. Bởi lẽ, chuyện kẻ sống lại là chuyện rất khó chấp nhận. Và chính các ông đã không ít lần tỏ ra nghi ngờ, nao núng, kể cả sau khi đã gặp Đấng Phục sinh.

Chúng ta không nên trách Tôma, ngược lại phải biết ơn ngài. Bởi vì chính “sự cứng lòng” của ngài lại làm kiên vững cho niềm tin yếu đuối của chúng ta, khi Đấng Phục sinh đáp trả đòi hỏi sự kiểm chứng bằng giác quan của thánh Tôma: “Tôma hãy đặt ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Điều này không chỉ để thỏa mãn đòi hỏi riêng của thánh Tôma, mà còn đáp trả cho yêu cầu của tất cả chúng ta, những kẻ “không thấy” mà được gọi là “tin”, nhất là trong thời đại khoa học thực nghiệm hôm nay.

Đồng thời, “sự cứng lòng” của thánh Tôma cũng làm cho lời chứng của cộng đoàn thêm mạnh mẽ. Ngày nay, chúng ta đều là những người không thấy mà tin dựa vào lời chứng của các tông đồ – những kẻ dám sống, dám chết cho niềm tin của mình.

Thánh Tôma là môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng đức tin. Sau khi được kiểm chứng về việc Phục sinh, ngài đã tin – một niềm tin đầy đủ nhất khi ông tuyên xưng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Khi ông tuyên xưng như thế, thì lời chứng của các tông đồ thật sự trở thành “đắt giá”, thật sự trở thành nền tảng vững chắc cho việc tuyên xưng đức tin của bao thế hệ Kitô hữu.

Hơn thế nữa, Đấng Phục sinh hiện ra không chỉ để chứng minh Người đã sống lại, nhưng còn để ban cho các ông sự sống mới “Người thổi hơi vào các ông…”

Con người vốn chỉ là bùn đất và chỉ có thể trở nên sống động qua việc “thổi hơi” của Thiên Chúa. Thì ở đây, chúng ta cũng nói được rằng chính Đấng Phục sinh đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới, Ngài thổi hơi để biến đổi các tông đồ từ những con người yếu đuối, nhút nhát trở thành những con người mới với sức sống mới, trở thành những khí cụ sắc bén trong Thánh Thần để rao giảng Tin Mừng Phục sinh.

Đồng thời với việc ban sự sống mới là mệnh lệnh sai đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Tiếng “như” ở đây không phải là so sánh, mà là nền tảng và cội nguồn: nguồn cội của mệnh lệnh là chính Chúa Cha và nền tảng của mệnh lệnh là sứ vụ cứu thế mà Đấng Phục sinh hoàn thành. Các tông đồ được sai đi để làm chứng về Đấng Phục sinh và để nối dài hành động của Người trong thế giới. Hành động này giải thoát thế giới khỏi sự thống trị của tội lỗi, mà sức mạnh lớn nhất của nó là sự chết đã bị vượt qua.

Mỗi chúng ta, nhờ bí tích Thêm sức cũng được mời gọi trở nên những tông đồ hăng say làm chứng cho Chúa ngay trong môi trường sống của mình.

Trong thời đại hôm nay, chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh không chỉ bằng lời rao giảng mà còn phải bằng chính cuộc sống của chúng ta. Cụ thể trong xã hội hôm nay, có rất nhiều người nhất là những người trẻ, họ luôn sống trong lo âu, sợ hãi, khủng hoảng hoặc không cần biết đến ý nghĩa cuộc sống, họ lao vào những tệ nạn xã hội mà không thoát ra được. Trước tình trạng đó, lẽ nào chúng ta ngồi yên? Là những con người của thiên niên kỷ mới này, chúng ta phải là những người đi bước trước đem sự bình an và đức tin sâu sắc giúp họ thoát khỏi thất vọng để tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống.

Mỗi chúng ta cần phải mở rộng lòng dám đi sâu vào thế giới để tìm hiểu và đem Chúa Phục sinh vào mọi lãnh vực, không bo bo trong vỏ ốc nhưng phải mở rộng ra khắp thế giới.

Có một câu chuyện kể lại rằng, một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan của mình ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông bèn than thở với một người bạn thì nhận được một lời khuyên: “Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.

Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Napôlêon!

Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại.

Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.

Đấng Phục sinh đã chọn “ngày thứ nhất trong tuần” làm ngày gặp gỡ các tông đồ. Như thế, “Ngày thứ nhất trong tuần” đã trở thành ngày của cộng đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của cuộc “sáng tạo mới”. Xin cho mỗi ngày Chúa nhật cũng trở thành một ngày giúp chúng ta sống thánh thiện, hiệp thông, yêu thương… Để mỗi chúng ta trở thành một bằng chứng cho sự hiện diện sống động của Đấng Phục sinh.


 

39. Trào lưu

“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào lưu chính thống. Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ là trắng hoặc đen. Nếu có một điều gì đó chưa đích thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều đó không hề có thật.

Ngày nay, trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự thiếu chắc chắn gây ra nỗi e ngại, nên họ co rút lại vào trào lưu chính thống. Trào lưu này có thể rất hấp dẫn. Đối với người theo trào lưu chính thống, đường lối phải thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản. Nhưng trào lưu chính thống là một cách thức nghèo nàn trong việc nhìn nhận chân lý. Điều này có nghĩa là cuộc sống chỉ có một chiều kích mà thôi. Trào lưu này tước đoạt mất sự phong phú của lòng tin, hậu quả là đưa đến một thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần theo luân lý và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành một đám người chỉ đi theo đúng một đường lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá nhân, mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt riêng để đi theo.

Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường mòn đi xuyên qua rừng.

Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tiết kiệm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú của khu rừng.

Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những phương hướng, để mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.

Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.

Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khóa, để giải mã mầu nhiệm của cuộc sống.

Đức tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một đường lối an toàn. Đức tin này bảo vệ người đó khỏi phải làm một công việc khó khăn, đó là tìm kiếm ý nghĩa và những giá trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu chính thống là một đức tin đã được xác nhận bằng sự thiếu tự tin.

Đối với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một phần của cuộc sống. Còn đối với người không đi theo trào lưu chính thống, tôn giáo chính là cuộc sống được nhìn và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó, từng sự kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn. Đức tin lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng những sự kiện mà, nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị khô héo và chết đi.

Chúa Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không muốn những kẻ đi theo Người cách mù qaung. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt mọi người, mà không hề đe dọa hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn người ta tự nguyện đi theo Người, bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Và người còn đi đến chỗ mong muốn chúng ta có thể có được sự sống, không chỉ ở cuộc sống mai sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để có được một cuộc sống dồi dào.


 

40. Tôma và con mắt thứ ba – Lm. Trần Ngà

Cách xử sự của Tôma cũng là cách xử sự thông thường của nhiều người. Người ta chỉ chấp nhận là có thật những gì mà người ta có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay, những gì cân, đo, đong, đếm... được. Còn những gì người ta không thấy, bị xem như là không có. Khi tôi hỏi bạn bè: Tại sao bạn không tin Thiên Chúa, không tin có linh hồn, không tin có sự sống đời sau? Họ trả lời thật đơn giản: "Có thấy đâu mà tin!"

Thế nhưng, có nhiều điều chúng ta không thấy nhưng chúng ta vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên cường nơi bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn tuyệt vời của nhà khoa học (bởi vì tình yêu, ý chí, trí tuệ... là những thực tại vô hình, không màu sắc, không trọng lượng, không khối lượng)... nhưng không ai dám phủ nhận rằng những thực tại nầy không có.

Với đôi mắt trần nầy, tầm nhìn của người ta rất hạn hẹp, như "ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung".

Với đôi mắt trần nầy, chúng ta chỉ nhận thấy một ít sự vật phù du mà thôi. Còn những điều quan trọng, những điều chính yếu thì không thể nhận thấy. Nhà văn Saint-Exupéry đã khám phá ra điều nầy, ông viết: "L'essentiel est invisible pour les yeux" (Thực tại thiết yếu thì mắt trần không thấy được). Do đó, nhân loại cần đến những con mắt khác, những con mắt thứ ba để nhận thức những thực tại cao siêu. Con mắt nầy giúp người ta nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu, nhìn thấy điều thiết yếu, nhìn thấy chân lý...

Con mắt thứ ba của các nhà vi trùng học là ống kính hiển vi. Nhờ con mắt nầy, nhà nghiên cứu có thể nhìn thấy vi trùng và những siêu vi cực nhỏ... Con mắt thứ ba của các nhà thiên văn là ống kính thiên văn, nhờ đó các nhà khoa học có thể thấy được những ngôi sao cách mặt đất đến mười tỉ năm ánh sáng... Con mắt thứ ba của các nhà quân sự là màn ảnh ra-đa, là vệ tinh quan sát... Chúng giúp các nhà quân sự nắm rõ địa hình cũng như các bí mật quân sự của đối phương nhằm đạt tới chiến thắng.

Trong Phật giáo, con mắt thứ ba của nhà tu hành đạt đạo là 'huệ nhãn', giúp người ta thấy được những thực tại tâm linh siêu hình. Đối với Đức Giêsu, con mắt thứ ba mà Ngài mong muốn các môn đệ Ngài phải có là Đức Tin. Nhờ "Con Mắt Đức Tin", nhân loại có thể nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương, nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, nhận ra mình có hồn thiêng bất tử, biết mình có cuộc sống mai sau, có thiên đàng hoả ngục...

Tông đồ Tôma chưa có con mắt thứ ba. Anh chỉ tiếp cận với thế giới qua đôi mắt trần. Anh chủ trương chỉ những gì được xem thấy tận mắt, được sờ tận tay... mới là điều có thực. Chính vì thế, khi nghe các môn đệ bảo anh: "Nầy Tôma, Thầy đã sống lại và đã hiện ra với chúng tôi", Tôma cho là chuyện đùa.

Cho dù Tôma có thấy Chúa tận mắt đi nữa, chắc gì anh đã tin, vì biết đâu đó chỉ là bóng ma của Chúa Giêsu hiện về. Anh đòi phải kiểm chứng bằng cách xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn... thì anh mới tin! Chúa Giêsu không hài lòng với quan điểm đó. Ngài nói: "Tôma, vì anh đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin."

Như thế, phúc cho những ai không dùng đôi mắt trần, nhưng dùng con mắt thứ ba, "Con Mắt Đức Tin" để nhận ra Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn tuyên dương những ai có Đức Tin vì đó là con mắt tối cần giúp thấy được những thực tại siêu nhiên và đạt tới ơn cứu độ. Chúa luôn khiển trách các môn đệ khi các ông yếu lòng tin. Chúa buồn phiền vì dân chúng thiếu lòng tin. Chúa khiển trách Tôma là kẻ cứng lòng tin. Xin khai mở cho chúng con con mắt thứ ba, con mắt Đức Tin, để chúng con nhận biết Thiên Chúa Cha là Cha yêu thương, nhận biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và nhận biết Thánh Thần Chúa là Đấng thánh hoá mọi người, cùng nhận biết mọi người là anh em thật của chúng con trong Chúa Kitô. Amen.

home Mục lục Lưu trữ