Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 35

Tổng truy cập: 1373881

MỘT TÌNH YÊU CÓ THỂ SỜ CHẠM ĐẾN ĐƯỢC

  1. Một tình yêu có thể sờ chạm đến được

(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

“Ai có thể tách chũng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô ( Rm 8,13)”.

Báo “Người Canh Phòng” số ra ngày 19/6 có tường thuật rằng, theo một báo cáo của liên hợp quốc, con số những người di dân phải rời bỏ quê hương hiện nay vượt quá 50 triệu người trên khắp thế giới. Đây là con số kỷ lục kể từ sau thế chiến lần thứ hai. Sự gia tăng  số người di dân khiến các quốc gia tiếp nhận và các tổ chức trợ giúp cũng phải khựng lại. Phân nửa số dân tị nạn là trẻ em. Họ đi một mình hay từng đoàn, thất thểu tìm chốn nương thân, và thường bị rơi vào tay bọn buôn người.

Tôi chưa từng bị thiếu ăn một ngày nào, nhưng gia đình thân phụ tôi,  khi phải di tản sau thế chiến lần thứ 2, đã có kinh nghiệm này. Họ lê lết đi qua nhiều quốc gia và sống nhiều năm trong các trại tị nạn. Một người bà con của bố tôi đã sống cảnh ly tán từ năm 16 tuổi và sống sót sau chiến tranh nhờ được tiếp tế thực phẩm từ những người Mỹ thiện nguyện. Câu chuyện bi thảm của người họ hàng đó mãi 30 năm sau mới kết thúc, khi ông ta được đoàn tụ với mẹ và những người thân ở Canada.

Kinh Thánh thuật lại khá nhiều câu truyện về những di dân và những người đang bị cơn đói hành hạ, giống như trình thuật trong bài Tin mừng hôm nay. Thời Chúa Giêsu,  nhiều người sống rất bấp bênh, thiếu cái để ăn, thiếu nơi để ở, luôn bị đe dọa phải sống lưu vong hay bị tống khứ ra ngoài xã hội. Nhiều người trong họ, nhất là phụ nữ và trẻ em, dễ rơi vào tình trạng như vậy. Matthêu nói về việc Đức Giêsu làm phép lạ nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn, khởi đầu bằng sự thương cảm của Ngài đối với đám đông, khi họ cần được chữa lành về thể lý cũng như tinh thần. Đoàn người đi theo Đức Giêsu tới một nơi hoang vắng. Các môn đệ Chúa  đã không tỏ ra vô cảm. Khi các ông thấy họ đói, đã xin Đức Giêsu giải tán để họ vào các làng mua thức ăn.

Tuy nhiên, việc Chúa Giêsu giảng dạy và chữa lành, thỏa mãn sự đói khát thiêng liêng của dân chúng, cũng chưa đủ nói lên việc thực hiện sứ mạng cứu thế của Ngài. Để trả lời các môn đệ, khi họ xin Chúa giải tán dân chúng, một đám đông khổng lồ gồm 5 ngàn người không kể phụ nữ và trẻ em, Ngài đã nói với các ông:” Họ không cần đi đâu cả, anh em hãy cho họ ăn”. Đây đích thực là một sự quan tâm rất cụ thể, khởi dẫn đến một phép lạ Đức Giêsu sẽ thực hiện. Nhưng về phía chúng ta thì sao ? Đức Giêsu nhắc đến trách nhiệm của các tông đồ cũng như của mọi người. Phép lạ  Đức Giêsu thực hiện chỉ có thể hiểu được khi gắn kết với sứ mạng cứu thế của Ngài. Phép lạ này không phải để phô diễn một kỳ tích trước quần chúng, nhưng nhằm  biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, một tình yêu cụ thể mà chúng ta có thể sờ đến, chạm đến được. Khi chúng ta cho người nghèo túng được  ăn , hay cho những người vô gia cư có nơi trú ngụ, cho dù đó có phải là phép lạ hay không, thì ít ra động thái ấy vẫn biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa một cách rất cụ thể. Và đây chính là bổn phận của mỗi người chúng ta, cũng như của cả Giáo hội.

Tình yêu có thể sờ thấy, chạm thấy, đáp ứng những nhu cầu rất cụ thể của con người. Đó cũng là lý do ngôn sứ Isaia đã phóng một tầm nhìn xa về Vương quốc của Thiên Chúa, và không phải chỉ mình Isaia có được viễn kiến đó. Cái nhìn về Vương quốc được biểu tỏ qua hình ảnh nước uống nhằm thỏa mãn cơn khát. Đồng thời, mọi người có thể thỏa thích mua rượu và sữa mà không phải trả đồng nào. Bản văn thực sự nói về cuộc lưu đày của dân Israel, hoài vọng về cố hướng và mơ ước dến một đời sống mới, một cuộc sống mà Thiên Chúa đã hứa ban cho họ. Đó không phải là một quê hương trần thế, nhưng là một vương quốc thiêng liêng sẽ được thiết lập.

Đối với những người sống lưu vong rời xa đất mẹ, phải chiến đấu chống lại cái đói và tình trạng vô gia cư, không gì đáng mơ tưởng cho bằng lời hứa về một quê hương thanh bình với lương thực dồi dào. Khi đáp ứng những nhu cầu thể lý của những con người đang sống cảnh cơ hàn, tình yêu và những lời hứa của Thiên Chúa trở nên thật kỳ diệu.

Tình yêu của Thiên Chúa là một thực tại linh thánh. Quả thật, Thánh Phaolô  đã khẳng định rằng “ Cho dù hoạn nạn, cơ cực, bị sát hại, đói khát, trần trụi, tù đày, gươm đao,..vẫn không thể tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”. Đây là một lời hứa linh thiêng rất sâu sa, được  gói ghém nơi một đoạn văn đẹp nhất trong toàn bộ  Kinh Thánh. Thánh Phaolô đã khẳng khái tuyên bố “ Dù sống hay chết, dù thiên thần hay ma vương quỷ lực, dù hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ một sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một thụ tạo nào khác, đều không thể tách lìa chúng tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đây là lời hứa của Thiên Chúa về một tình yêu vĩnh cửu dành trao cho con người. Điều này biểu tỏ một thực tại, cho thấy tình yêu chính là  căn gốc thuộc  bản tính Thiên Chúa và Thiên Chúa hứa sẽ chăm sóc, yêu thương chúng ta, cho dù hiện tại chúng ta có như thế nào đi nữa. Đây cũng là lời gọi mời được gửi trao cho các tông đồ của Đức Giêsu cũng như cho toàn thể  Hội Thánh, một cộng đoàn được quy tụ  nhân danh Ngài. Hội Thánh tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu và các môn đệ, để nuôi dưỡng những người đói khát, giúp đỡ những người trần trụi có áo mặc, những kẻ không nhà có nơi ăn chốn ở, và cho những kẻ bị hất ra khỏi xã hội có chỗ dung thân. Khi thực hiện điều này, ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa sẽ trở nên một thực tại hữu hình, đập tan bóng tối đè nặng nơi những trại tị nạn đang nhốt kín biết bao con người khổ đau, và tình yêu của Thiên Chúa sẽ thâm nhập vào tận đáy lòng của những con người mà trước đây họ vẫn tưởng rằng mình bị quên lãng.

Thiên Chúa không lãng quên ai bao giờ.

 

  1. Quan tâm tới cái đói

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã quan tâm đến cái đói cái khát, cũng như đến những khổ đau, bệnh tật là những sự kiện rất bình thường của thân phận con người. Từ đó chúng ta ghi nhận được những khác biệt cần suy nghĩ.

Trước hết là các tông đồ, những người đã từng chứng kiến cách cư xử của Chúa Giêsu, thế mà các ông cũng chưa có được cái nhạy cảm của Ngài. Các ông đã đề nghị Ngài giải tán đám đông khi trời đã xế chiều, để mỗi người tự giải quyết lấy vấn đề cơm ăn thức uống của riêng mình. Bởi vì đâu có gì bắt buộc các ông phải giải quyết cho họ. Hơn nữa các ông là những người cộng tác với Chúa, có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ, một nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả, chứ đâu có phải là ba cái chuyện tẹp nhẹp, vụn vặt là ăn và uống.

Còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã phản ứng như thế nào? Tin Mừng cho chúng ta thấy giữa Chúa Giêsu và đám đông có một sự gắn bó mật thiết: Đám đông đói khát giáo huấn của Ngài. Họ đã đi theo Ngài ngay cả khi Ngài muốn lẩn tránh họ. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ thấy được cái đói khát lời đem lại chân lý và sự giải phóng cho họ. Mà hơn thế nữa, Ngài còn thấy cả cái đói đang giày vò thân xác họ. Ngài không chỉ thấy suông, như một con người bàng quan. Trái lại, Tin Mừng đã ghi lại một chi tiết đầy ý nghĩa: Thấy đám đông, Ngài chạnh lòng thương xót và chữa lành những kẻ đau yếu. Ngài đã làm phép lạ cho 5 chiếc bánh và hai con cá hoá ra nhiều đến độ tới 5.000 người, không kể đàn bà và trẻ em, có thể ăn no mà còn dư tới 12 thúng bánh vụn.

Chúa đã chẳng làm phép lạ từ con số không, nhưng từ những chiếc bánh và những con cá, đang có sẵn là khẩu phần của một người nào đó đã biết tiên liệu mang theo mình. Dĩ nhiên lương thực ấy phải là kết quả của mồ hôi nước mắt, của lao công khó nhọc. Khẩu phần ấy giờ đây được bẻ ra và phân phát cho mọi người.

Thế giới hôm nay còn có những kẻ đói, còn có những dân tộc đói bởi vì có những chiếc bánh được giữ riêng cho những cá nhân, và không hề được bẻ ra để chia sẻ, để giúp đỡ. Chúng ta không có khả năng thực hiện được một việc làm ngoạn mục như Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta luôn được mời gọi để chạnh lòng thương xót, để chia sẻ và quan tâm tới người khác, nhất là những kẻ nghèo đói. Chính mối quan tâm này sẽ giúp chúng ta dần dần tìm thấy cách thức giải quyết, bởi vì có rất nhiều cái đói chồng chất trong xã hội này: đói của ăn thiêng liêng, đói của ăn vật chất, đói tình thương, đói văn hoá, đói giáo dục, đói sự thật, đói chân lý, đói những quyền căn bản để làm người. Thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để giải quyết phần nào những cái đói ấy cho bản thân cũng như cho những người chung quanh.

 

  1. Cộng tác với Chúa

Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Theo thánh Gioan, thì số thực phẩm ít ỏi này là của một em bé. Em bé này đã trao cho Chúa tất cả và rồi hàng ngàn người đã được ăn uống no nê. Giá như em bé này đã không trao cho Chúa, thì có lẽ đám đông đã không được nuôi ăn giữa nơi hoang vắng khi trời đã về chiều. Từ hành động của em bé, chúng ta đi tới một kết luận, đó là hãy cộng tác với Chúa để xoa dịu nỗi đớn đau của người khác, cũng như để đem lại cho họ niềm vui mừng và hy vọng.

Có một hành khách vừa mới bước lên chiếc xe taxi, anh liền nói với bác tài xế: Bác lái giỏi quá. Bác tài nhìn anh và hỏi: Bộ anh định xỏ xiên tôi hả. Anh trả lời: Không phải vậy đâu, tôi khen bác thực mà. Bác tài mỉm cười, lát sau bác nói: Anh làm vậy với mục đích gì? Anh trả lời: Tôi muốn, đem lại tình yêu, niềm vui mừng và hy vọng cho những người sống quanh tôi. Tôi nghĩ rằng một khi bác cảm thấy vui, bác sẽ niềm nở với những khách hàng của bác. Rồi những người này cũng sẽ niềm nở với những người mà họ gặp. Như vậy, sự niềm nở và tử tế sẽ được trải rộng đến hàng trăm, hàng ngàn người. Lời nói của anh làm chúng ta nghĩ tới một câu danh ngôn: Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi đó mà rủa sả bóng đêm.

Trở lại với đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy em bé đã trao cho Chúa tất cả những gì mình có. Và Chúa đã chia sẻ quà tặng ấy cho hàng ngàn người. Như thế, mỗi người chúng ta đều có thể và phải trở thành dụng cụ cho Chúa thực hiện những phép lạ. Mỗi người chúng ta đều có thể và phải trở trở thành phương tiện cứu giúp cho hàng ngàn người.

Có một ngôi sao truyền hình nổi tiếng của Anh quốc đã trở lại Công giáo. Anh cho biết: Sở dĩ có cuộc đổi đời này là do ảnh hưởng của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh nói: Làm sao tôi có thể diễn tả được tôi đã mang ơm Mẹ như thế nào. Mẹ đã chỉ cho tôi thấy một Kitô giáo bằng hành động. Mẹ đã dạy cho tôi biết quyền năng của tình thương. Mẹ đã làm cho tôi xác tín: Một cá nhân giàu lòng khoan dung từ ái có thể khơi dậy cả một ngọn sóng thương yêu, để rồi ngọn sóng này sẽ ùa tràn vào thế giới.

Đó cũng là sứ điệp của đoạn Tin Mừng hôm nay: dù chỉ là một cá nhân, nhưng hành động của chúng ta vẫn có một tầm mức quan trọng và đáng kể, nếu chúng ta biết chia sẻ những gì mình có với Chúa, thì Ngài sẽ làm phần còn lại, là biến cái ít ỏi, nhỏ nhoi ấy trở thành hữu ích, đem lại hoa trái vượt quá điều chúng ta mong ước. Chúng ta hãy dâng cho Chúa mọi khả năng, vật chất cũng như tinh thần để tuỳ Ngài sử dụng. Và rồi Ngài có thể dùng chúng để làm những phép lạ.

Để kết thúc, tôi xin ghi lại nơi đây lời thơ của một thi sĩ: Lạy Chúa, con chỉ là một sợi dây, xin hãy biến con trở thành chiếc đàn. Con chỉ là một giọt nước, xin hãy biến con trở thành một dòng suối. Con chỉ là một tia lửa, xin hãy biến con trở thành một ngọn đuốc bùng cháy.

 

  1. Các con hãy cho họ ăn – Lm Đam. Trần Văn Điều

Trung Hoa và Ấn Độ là 2 quốc gia có tỷ lệ dân số cao nhất thế giới hiện nay. Trung Hoa nhờ áp dụng chính sách kinh tế hợp lý, đang triển vọng vươn lên thành một nước giàu có; trong khi đó, Ấn Độ do tài nguyên thiên nhiên không dồi dào, đường lối kinh tế chưa ổn định, xã hội quá phân biệt nhiều giai cấp khác nhau, nên quốc gia còn đang phát triển, đời sống dân chúng vẫn vất vả lầm than.

Cách đây vài thập niên, Calcutta khi ấy là một thành phố đông dân: ban ngày, người nghèo ngồi la liệt khắp phố, mong chờ lòng rộng rãi giúp đỡ của khách thập phương; ban đêm, họ không nơi cư trú phải nghỉ đêm trên các vỉa hè, hẻm cụt của thành phố. Một nữ tu trung niên người Albanie vốn đang phục vụ truyền giáo tại Ấn Độ, đã động lòng xót thương họ. Đêm ngày đối diện những cảnh nghèo hèn đau khổ của cư dân thành phố Calcutta, Chị đã tự hỏi: “Ta phải làm gì cho đám đông những người đáng thương này?”. Trở lại nhà dòng, Chị gom hết số tiền mình có, mua một căn nhà rẻ mạt và sửa chửa nó thành nơi cư trú qua đêm cho những kẻ không nhà. Bằng khả năng nhỏ bé nhưng với tấm lòng quảng đại to lớn, Chị muốn ra tay làm một cái gì đó giúp người khốn cùng không còn phải bơ vơ hiu quạnh nữa.

Không những lo cho họ có chỗ định cư, lại còn phải tìm nguồn cung cấp lương thực giúp họ sống qua ngày. Làm thế nào Chị nữ tu ấy- mà sau này người ta quen gọi là Mẹ Têrêsa- có thể nuôi đủ 9000 miệng ăn mỗi ngày? Chúa đã không chịu thua lòng bác ái của Mẹ. Nhiều bàn tay yêu thương sẵn sàng liên đới công việc từ thiện của Mẹ: một đôi bạn trẻ sắp lập gia đình, hy sinh không tổ chức tiệc cưới dành toàn bộ chi phí giúp người nghèo; Ủy Ban Nobel trao tặng Mẹ giải thưởng Nobel Hoà Bình năm 1979; nhiều phụ nữ thiện chí dâng hiến cuộc đời trong hội dòng Thừa Sai Bác Ái nối dài việc cứu tế.

Biết nhận ra những người nghèo đói quanh mình, sẵn sàng giúp đỡ tình trạng đau khổ của họ là phương thế đáp ứng lời mời gọi của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).

  1. Tình trạng đói khát trong cuộc sống.
  2. Sách Các Vua quyển thứ II thuật lại: tiên tri Êlisa, môn đệ thân tín của Êlia, đến vùng Baal- Salisa rao giảng. Dân chúng hàng trăm người khát Lời Chúa tuôn đến nghe Êlisa nói đến nỗi không mang lương thực đi đường (2V. 4,42-44). Với 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa của một người dâng cúng, Êlisa đã xin Chúa giúp dân no nê cơm bánh đường dài.
  3. Tin Mừng hôm nay (Mt 14,13-21) cũng cho thấy: đám đông dân chúng từ các thành thị đến nghe Chúa giảng. Nơi hoang địa xa nhà, họ không đủ thuận lợi để mua thức ăn dọc đường. Với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé mang theo (Ga. 6,9), Chúa đã làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn dư dả.
  4. Cha Mark Linh, SJ. cho biết: Báo Chicago Sun Times có thực hiện một nghiên cứu thì biết rằng thế giới hiện nay trên 6 tỉ người, trong đó hàng đêm khoảng 450 triệu người đi ngủ (13%) mà bụng vẫn đói cồn cào. Họ không đủ điều kiện để có cơm bánh qua ngày, suy dinh dưỡng trầm trọng.
  5. Phi Châu xưa nay vốn là một lục địa có nhiều quốc gia nghèo đói trong vùng. Thập niên 1990, nước Rwanda xảy ra tình trạng tranh chấp giữa 2 sắc tộc: Tutsi và Hutu. Đất đai kém cỏi, hạn hán thường xuyên, lại thêm cuộc nội chiến phe phái, đời sống dân Rwanda mỗi ngày một cùng cực hơn. Liên Hiệp Quốc phải kêu gọi Quốc Tế cứu đói Rwanda.
  6. Giúp đỡ kẻ khốn cùng: hãy cho họ ăn.
  7. Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Ngài không ngừng thi ân cứu giúp khi con người lâm cơn đói khát.

* Nơi sa mạc nắng cháy da người, dân Do Thái lo sợ đói ăn, khát uống. Thiên Chúa đã nuôi dân bằng manna và chim cút, Ngài lại còn cho Maisen cầm gậy gõ vào đá khiến nước vọt ra tràn trề dân uống thoả thuê (Xh. 16-17,1-6).

* Tiên tri Êlia bị hoàng hậu I-de-ven truy nã vì đã ra lệnh sát hại các sư sãi thần Ba-al. Trên đường tránh nạn, Êlia khiếp sợ và lo lắng cho mạng sống mình. Suốt bốn mươi ngày đi đến núi Khô-rếp, Chúa đã nuôi Êlia bằng bánh và nước, giúp ông an tâm ẩn mình, tiếp tục phục vụ Thiên Chúa (1V. 19,1-8).

* Sách tiên tri Isaia còn cho thấy: Thiên Chúa dọn sẵn cho dân Người một bữa tiệc miễn phí đầy cao lương mỹ vị, người nghèo khổ đói khát không có gì để trả cũng được mời tham dự (Is 55,1-3). Bữa tiệc ấy chính là hình ảnh Nước Trời, nơi con người được no nê sung mãn mọi sự.

  1. Chúa Giêsu cũng thúc giục các Tông Đồ: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Ngài mời gọi con người hãy quan tâm đến nhu cầu thiếu thốn của tha nhân.

Thánh Martin de Porrès: “đứa con bị từ chối” bởi người cha là một hiệp sĩ Tây Ban Nha. Tuy gia đình nghèo khổ, mẹ Ngài vẫn kiên tâm giáo dục 2 chị em Martin nên người tốt lành, hữu ích cho xã hội. Một ngày nọ đi chợ, Martin gặp người nghèo túng bên đường, Martin đã bớt xén tiền chợ, bố thí giúp kẻ khốn cùng. Cậu biết mình cơ cực nhưng nghĩ đến còn nhiều người khác neo đơn hơn: Martin đã rộng tay san sẻ cái mình có.

Cơn bão Katrina 2005 làm nhiều cư dân VN vùng New Orleans và Bilosi gặp khó khăn. Ngày ngày, họ nhận hàng viện trợ Red Cross cung ứng, tháng tháng lãnh phiếu Food Stamps chi tiêu cho qua ngày đoạn tháng. Bất ngờ vài tháng sau đó, quê nhà Việt Nam bị cơn bão số 9 tàn phá miền Trung dấu yêu: đồng hương đất Mẹ không nhà cửa trú thân, mỗi bữa ăn chỉ được giúp tiêu chuẩn một gói mì tôm, cơn đói hành hạ thê thảm. Kiều bào VN hải ngoại đã không ngại đóng góp tiền của, nhanh tay cứu giúp anh chị em quê nhà còn khốn khổ hơn nỗi xót xa Katrina của mình.

Mahatma Gandhi đã nói: “Theo quan niệm cá nhân tôi, tất cả chúng ta xét ý nghĩa nào đó đều là tên ăn cắp. Vì: ta có quá nhiều cái dư thừa không cần thiết, trong khi người anh em quanh ta còn thiếu thốn đang cần đến nó. Chúng ta có vật nào đó không cần, thì vật ấy chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những người nghèo cần đến nó”.

  1. Thiên Chúa cần những bàn tay cộng tác của con người.

Tiên tri Êlisa không thể giúp dân chúng vùng Baal-Salisa thoát khỏi cơn đói lả, nếu không có người dâng cúng cho tiên tri 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa. Chúa Giêsu muốn giúp cho dân chúng đi nghe Ngài giảng được ăn no nê, Chúa mời gọi em bé dâng cúng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Ngài đã thực hiện phép lạ hoá bánh ra nhiều vì yêu thương con người. Ngài sẵn sàng chúc phúc cho con người, khi con người biết cộng tác, đóng góp khả năng mình vào chương trình của Thiên Chúa. “Thánh ý Ngài là gia nghiệp con mãi mãi…Con hướng lòng quyết thực thi thánh chỉ, mãi mãi cho đến cùng” (Tv.118:111-112).

Trong một lớp Kinh Thánh, khi học hỏi tìm hiểu về phép lạ hoá bánh ra nhiều, một học viên tân tòng đã hỏi Cha xứ rằng: “Thưa Cha! Ngày xưa Chúa đã làm phép lạ nuôi 5000 người ăn, tại sao thời nay Chúa không tiếp tục làm phép lạ thêm, để chúng ta khỏi phải đi làm đầu tắt mặt tối như thế này?”. Cha xứ đã khéo léo trả lời: “Chúa là Đấng quyền năng, Ngài vẫn thường xuyên làm phép lạ cho con người. Ngài vẫn nuôi dân Chúa mỗi ngày bằng lương thực Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Nhưng Chúa vẫn muốn chúng ta cộng tác với Ngài vì nếu Chúa cứ làm phép lạ hoài, con người sẽ lười biếng, cậy dựa vào Chúa hoàn toàn, không trưởng thành được”.

Có một lần đi sang Hoa Kỳ, nghiên cứu cơ sở để lập các chi nhánh dòng Thừa Sai Bác Ái tại quốc gia này, Mẹ Têrêsa Calcutta đã tâm sự: “Nhiều trẻ em sinh sống tại Mỹ không nghèo vật chất nhưng thật tội nghiệp, chúng lại nghèo tình thương”. Đời sống sung túc đưa con người đến tình trạng hưởng thụ quá đáng, quên cả sự hy sinh tiết kiệm để chia sẻ cho người nghèo,cộng tác với Thiên Chúa giúp thế giới này bớt đau khổ hơn.

  1. Lời nguyện kết thúc:

Lạy Chúa là Thiên Chúa của tình thương,

Chúa yêu thương chúng con quá đỗi, khi tự hiến thân mình

làm Bánh Thánh Thể, bẻ ra nuôi muôn người chúng con

được no nê và được sống dồi dào.

Xin giúp chúng con luôn liên kết cộng tác với Chúa

biết dâng mọi sức lao công vui buồn cùng giọt mồ hôi nước mắt

làm của lễ dâng tiến Chúa mỗi ngày. Amen.

 

  1. Bài học tiết kiệm – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác… Hôm nay xin được chia sẻ về bài học tiết kiệm.

  1. Chúa dạy bài học tiết kiệm

Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).

Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại tất cả được mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em (hãy đi) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1-12). “Họ liền đi thu những miếng thừa…và được mười hai thúng đầy”.

Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” (Mt 15,37; Mc 8,8).

Năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít. Số người phải là đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”?.

Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32).

Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình thương,là ơn sủng,là ơn cứu độ của Chúa trao ban.Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh.Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra,vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ trụ.

Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.

Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.

Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ,thời gian,tài năng,trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng,cần trân trọng nâng niu gìn giữ.Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường. Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy mã lạp sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng”. (ĐHV 817).

  1. Tiết kiệm và lãng phí

Tác giả Gã Siêu viết: “Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ”.

Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu: Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước… Tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm việc chậm trễ.

Thấy người mà nhớ tới ta.

Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm Đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình.

Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.

Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất. Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.

Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.

Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đất tiền, trang bị cho mình điện thoại di động, đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.

Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện…rất bình thường nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.

Tác giả viết: “Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con (dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản mới cách đó một hai năm mà thôi!!!

“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của anh ấy để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách anh ấy đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re… Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.

“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước?

“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4 mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không?

“Năm nào đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.

Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.

Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.

Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.

Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.

Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện. (Nguồn: dunglac.org).

Lafontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, khi mùa đông trở về gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.

  1. Cần phải tiết kiệm

Linh mục Nguyễn Hồng Giáo viết: “Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung không ai khóc, của chung không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.

Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn lắm nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món càng sang cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân linh mục dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.

Thời nay việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống, – dòng tu, giáo xứ, địa phận – thì người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp. (Nguồn: nguoitinhuu.com).

Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.

Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.

Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu.Tại nơi mở trương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.

Tiết kiệm đi chung với giản dị.

Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không xa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.

Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:

Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.

Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.

Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.

Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen (Mana).

 

  1. Năm chiếc bánh và hai con cá

(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

Bước ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương xót, ủi an, dậy dỗ, chữa lành và ban phát của ăn nuôi dân. Gặp những người cùng khổ và bệnh tật, Chúa xót thương chữa lành họ: Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ (Mt 14,14). Chúa dậy dỗ và mở mang kiến thức để họ hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời và tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương và quan phòng cho mọi loài thọ tạo. Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (Mt 6,26).

Để tiếp tục ban phát ơn lành, Chúa Giêsu cần lòng quảng đại và sự góp phần nhỏ bé của chúng ta. Thánh Matthêô diễn tả: Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”( Mt 14,16). Chúa nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, Chúa đã đọc lời chúc tụng, tạ ơn và phân phát cho mọi người. Chúa ban cho dân đầy dư tràn trề và ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu duỡng nuôi con dân bằng của ăn tinh thần và cả của ăn thể xác.

Năm bánh hai cá là biểu tượng nguồn tốt lành mà mỗi người chúng ta đang sở hữu. Mỗi cá nhân đều có một kho tàng vô giá ẩn sâu trong tâm hồn. Tôn giáo giúp chúng ta khơi dậy những tâm tình, những ân huệ và những khả năng được trao ban.

Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không có gì để cho đi. Mỗi người có cả một kho tàng tình yêu, sự cảm thông, tình xót thương và lòng quảng đại. Cái gì cũng có thể cho được, chúng ta có thể cho đi một nụ cười thân thiện, một lời nói êm nhẹ, một cử chỉ yêu thương, một thái độ tử tế, một ánh mắt thông cảm, một vòng tay ấm áp, một tâm tình chia sẻ tế nhị và một chút bánh, một ly nước.

Khi chúng ta biết cho đi, chúng ta sẽ nhân đôi niềm vui cả vốn lẫn lời. Cho đi là làm giầu thêm cho chính mình. Khi lồng ngực còn thở và trái tim còn đập, chúng ta còn có cái để cho, cho đi niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông. Càng cho càng có thêm. Xởi lởi trời lại cho mà.

Ngày xưa, khi đi giảng đạo tại những nước nghèo đói xa xôi, các nhà truyền giáo đã dùng mọi cách thế để đi vào lòng dân. Một trong những cách cụ thể, là lo cho dân có nơi ăn chốn ở, giúp đỡ, dậy dỗ và dùng thuốc thang chữa lành bệnh tật. Có nhiều người theo đạo vì: Theo đạo có gạo mà ăn. Điều này không sai, nhưng nếu lạm dụng sự giúp đỡ thì mất đi ý nghĩa của việc truyền đạo. Chúng ta thường nghe nói: Có thực mới vực được đạo. Đúng vậy, con người không sống trên mây trên gió, mà là cuộc sống cụ thể chân chạm đất. Những nhu cầu thể xác về ăn mặc không thể thiếu. Không phải ngày xưa khi mơi truyền đạo, mà cả ngày nay cũng thế, những nơi vùng sâu vùng xa nghèo đói cũng cần sự trợ giúp về cái ăn cái mặc. Không thỏa mãn nhu cầu thể xác thì khó có thể tập trung cầu nguyện, thờ phượng và trau dồi kiến thức văn hóa về đạo giáo hay về xã hội.

Ở Ấn Độ, người dân bị phân biệt giai cấp, những người cùng đinh nghèo đói và bị khinh bỉ. Mẹ Têrêxa đã phục vụ lâu năm tại đây. Mẹ đã lập nhiều nhà Tế Bần. Có nơi, các chị Dòng Bác Ái mỗi ngày phải lo phục vụ cả 9 ngàn người ăn. Một ngày không nấu là một ngày họ không có gì ăn. Vào ngày nọ, có một cặp vợ chồng mới cưới đến thăm và dâng cúng món tiền lớn. Mẹ Têrêxa hỏi: Ở đâu anh chị có món tiền lớn thế? Anh chị trả lời: Họ mới cưới nhau được hai ngày. Chúng tôi quyết định không tổ chức đám cưới vì muốn dành số tiền này để nuôi người nghèo. Mẹ hỏi: Tại sao anh chị lại muốn làm như thế? Họ trả lời rằng vì chúng tôi yêu nhau và muốn bắt đầu cuộc sống hôn nhân với hành động hy sinh này. Biết rằng họ thuộc hàng quý phái. Cử chỉ thật đẹp từ cõi lòng.

Tu thân tích đức là hướng nội. Từ bi hỉ xả và từ thiện bác ái là hướng ngoại. Khi có nội công thâm hậu, thì con người sẽ có sức mạnh phi thường. Ý chí là nguồn sức mạnh. Không phải mọi người to lớn, khỏe mạnh và cường tráng là người có nội lực thâm sâu. Ý chí giúp con người thành nhân và thành thánh. Vị thánh nào cũng có một ý chí kiên cường. Vị thánh nào cũng biết xả thân và cho đi. Cho đi mà không cạn kiệt. Cho đi là hướng ra tha nhân. Càng xả thân càng làm cho sự hiện hữu của mình thêm phong phú. Các thánh nhân đã cho đi không ngừng để làm giầu cho tha nhân và cho chính mình. Chúa Giêsu xuống trần gian, Ngài cho đi với cả trái tim yêu thương, sự tha thứ, thông cảm, chữa lành, sự bình an và cả mạng sống của chính Ngài.

Khi Chúa Giêsu chữa lành, Chúa chữa tận căn và bệnh tật chấm dứt. Khi Chúa ban của ăn, Chúa ban dư tràn. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20). Khi Chúa yêu thương, Chúa hiến cả thân mình đến giọt máu cuối cùng. Chúa không ban ơn nửa vời.

Bước theo Chúa, Chúa cũng đòi hỏi một sự dứt khoát: Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (x. Lc 14,33).

Xem ra sự đòi hỏi của Chúa không dễ. Làm sao chúng ta có thể từ bỏ hết những gì chúng ta có? Chúng ta thường tìm cách tránh né vấn đề và nêu ra nhiều lý do để chối từ. Các tông đồ xưa đã thực hành lời Chúa một cách triệt để. Các ngài sống trọn vẹn lý tưởng và chết cho sứ mệnh của mình. Thánh Phaolô đã lên tiếng nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2,20).

Chúa trao quyền năng cho các tông đồ và sai các ngài ra đi trong tin yêu và phó thác: Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn (x. Mt 10,10).

Tôi nghe kể các tu sĩ Dòng Tên trong những năm huấn luyện tập tu. Mỗi tu sĩ ra đi vào đời trong một tháng thử thách, họ không được mang theo đồ dùng tiền bạc. Họ phải tự lo liệu tất cả, khát xin uống, đói xin ăn, tự tìm nơi ăn chốn ở và mọi nhu cầu thể xác tự giải quyết. Sống hoàn toàn trong sự phó thác nơi Chúa và cậy nhờ lòng tốt người khác. Trong những ngày lang thang giữa chợ đời, cũng có khi các tu sĩ bị xua đuổi, bị khinh rẻ, bị nghi ngờ và bị coi là kẻ ăn bám xã hội. Luyện tập nhân đức cần trải qua những gian truân và nhẫn nại sẽ giúp họ trưởng thành trong đời sống phục vụ sau này.

Thiên Chúa quan phòng cho mọi loài thảo mộc sinh hoa trái và ban nguồn thực phẩm để dưỡng nuôi con người trong thiên nhiên. Trong lịch sử cứu độ, một đôi khi Thiên Chúa can thiệp ban phát ân sủng trực tiếp như nước uống, Manna và chim cút cho dân Do-thái suốt hành trình lữ hành trong hoang địa. Nay Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi dân. Bánh và cá là hình ảnh của bánh hằng sống mà Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã chọn chính bánh rượu là của ăn hằng ngày để hiến thánh. Khi bánh rượu được hiến dâng trên bàn thờ, qua lời truyền phép của linh mục, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa để dưỡng nuôi toàn dân. Của ăn thần lương này đã giúp thỏa mãn mọi khát khao của con người dẫn vào cuộc sống đời đời.

Chúa ban cho dư tràn nhưng Chúa cũng nhăc nhở con người không được phung phí. Sau khi dân chúng ăn no thỏa, Chúa kêu gọi mọi người thu dọn: Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20).

Không một ân huệ nào là vô ích. Dù là một chút ít miếng vụn, đó cũng là hồng ân. Trong thế giới chúng ta đang sống, đang có biết bao nhiêu người lên giường ngủ mà bụng còn đói, trong khi nhiều người ăn uống thừa thãi và hoang phí. Xã hội bất công đưa dẫn đến con người tham lam và ích kỷ. Chỉ muốn gom góp và làm giầu cho chính mình. Chúng ta biết rằng thu vào là tiêu hao và tan biến. Có biết bao nhiêu nguồn sung túc của thế giới đã bị chiếm đoạt bất công. Có những người sống như nhà phú hộ giầu có, hằng ngày yến tiệc linh đình, trong khi bên cạnh nhà có Lazarô đói khổ, bệnh tật và thèm khát chén cơm thừa mà chẳng ai cho. Câu truyện đời như thế vẫn xảy ra hằng ngày. Hậu qủa thưởng phạt ngày sau tách biệt mỗi người một nơi.

Năm bánh hai cá là vốn liếng mà mỗi người chúng ta có được. Chúng ta đừng đem chôn vùi, nhưng hãy trao tặng lại cho Chúa, để Chúa biến hóa ra nhiều phân phát cho mọi người. Mỗi người hãy cùng chung góp khả năng, sức lực, của cải và thời giờ để sinh hoa kết qủa trong cuộc sống này. Không có một cuộc sống nào là vô ích. Ai cũng có thể góp phần làm tốt cho xã hội và Giáo Hội.

Lạy Chúa, xin khơi dậy kho tàng ân sủng trong lòng con, để chúng con biết đem ra phân phát và chia sẻ với mọi người.

Tất cả là hồng ân!

Chúng con cảm tạ danh Chúa đến muôn ngàn đời.

 

home Mục lục Lưu trữ