Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 19

Tổng truy cập: 1374591

MÙA CHAY ĐỔI MỚI TÂM HỒN

  1. Mùa chay đổi mới tâm hồn – Lm. Đan Vinh
  2. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: MÙA CHAY BIẾN ĐỔI TÂM HỒN.

Bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên một núi cao trước mặt ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Áo người trở nên trắng như tuyết. Có hai nhân vật Cựu Ước là Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người, có tiếng Chúa Cha giới thiệu Người là Con yêu dấu và đòi các môn đệ phải vâng nghe lời Người. Ba môn đệ từ vui mừng đến khiếp sợ khi đối diện với vinh quang Thiên Chúa.

CHÚ THÍCH:

– C 1-2: +Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê: Đây là ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu. Các ông là những người nhiệt thành yêu mến Thầy, và được trao các nhiệm vụ then chốt, nên Đức Giêsu đã cho các ông thấy trước vinh quang của Người, để thêm lòng tin, hầu đủ sức vượt qua giờ phút đau thương trong cuộc khổ nạn của Người (x. Mt 26,37). + Một ngọn núi cao: Theo truyền thống xa xưa, thì đó là núi Ta-bo. Tuy núi này chỉ cao 360 m so với Địa Trung Hải, nhưng do nằm trên cánh đồng rộng lớn Ét-rê-lon, cũng gây cho người ta cảm tưởng là một ngọn núi cao. Ngày nay nhiều người nghĩ tới ngọn Khéc-môn cao 2.795m gần thành Xê-da-rê của Phi-líp-phê. Đi từ Xê-da-rê tới nơi mất khoảng 5 ngày đường như Tin Mừng đã viết. Tuy nhiên có lẽ khi viết câu này, Mát-thêu chỉ chú trọng đến ý nghĩa tượng trưng của Núi: Núi là nơi khởi đầu và kết thúc mặc khải của Thiên Chúa đối với Mô-sê thời Cựu Ước hay với Đức Giêsu thời Tân Ước (x. Mt 5,1; 28,16). Núi cũng là nơi quy tụ muôn người nên một trong Nước Trời trong thời kỳ cánh chung hay tận thế (x. Mt 15,29; Is 2,2-3). + Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông: Đức Giêsu tỏ bày Thiên tính vinh quang của Người cho các môn đệ thấy. Trong thời Xuất Hành, sau mỗi lần đàm đạo với Đức Chúa, mặt Mô-sê sáng chói, đến nỗi dân Ít-ra-en sợ không dám lại gần ông (x. Xh 34,29-30). + Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng: “Chói lọi như mặt trời” là biểu hiện thuộc về thiên quốc (x. Mt 28,3; Cv 9,3) và thuộc về thời cánh chung (x. Kh 1,14; 4,4). Theo thể văn khải huyền thì y phục trắng tinh giống như ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.

– C 3-4: + Ông Mô-sê và ông Ê-li-a: Hai ông này tượng trưng cho Luật Mô-sê và các ngôn sứ, nghĩa là cho toàn bộ Cựu Ước. Như thế tất cả Cựu Ước đều hiện diện để làm chứng và tôn vinh Đức Giêsu. Hai vị này đàm đạo với Đức Giêsu về cái chết của Người sắp được thực hiện tại Giê-ru-sa-lem như một cuộc Xuất Hành Mới (x. Lc 9,31). Qua đó cho thấy toàn bộ khung cảnh biến hình này đều qui hướng về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giêsu. + Dựng ba cái lều: Theo truyền thống Do thái thì Thiên Đàng được gọi là “Lều vĩnh cửu” hay “Nhà tạm đời đời” (x. Lc 16,9). Vào thời cuối cùng, Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Người trong lều vinh quang của Người, và dân chúng sẽ cắm lều quanh Đấng Cứu Thế (x. Ga 1,14).         

– C 5-6: + Đám mây sáng ngời bao phủ các ông: Trong Cựu Ước, khi tiếp xúc với dân Ít-ra-en, Đức Chúa thường xuất hiện trong đám mây (x. Xh 24,15-16). Ở đây, Thiên Chúa dùng mây che phủ các ông, để nói lên sự can thiệp đặc biệt như Người đã từng cho mây rợp bóng trên dân Ít-ra-en xưa (x. Xh 13,21; 14,19-20), hay “rợp bóng” trên Đức Ma-ri-a trong ngày sứ thần truyền tin sau này (x. Lc 1,35). + Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người: Lời này nhắc lại lời Chúa Cha phán khi Đức Giêsu chịu phép rửa (x. Mt 3,17). Nhưng ở đây còn thêm mệnh lệnh cho các môn đệ: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Qua đó, cho thấy Đức Giêsu chính là vị Ngôn Sứ Mới sẽ xuất hiện thay thế Mô-sê vào thời cánh chung (x. Đnl 18,15). + Các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất: Thái độ và cử chỉ của các môn đệ là phản ứng khiếp sợ mà con người thường biểu hiện khi tiếp xúc với Thiên Chúa (x. Xh 19,21; Is 6,5).

– C 7-9: + “Trỗi dậy đi, đừng sợ!”: Đức Giêsu đã ra lệnh các môn đệ giống như khi Người phục sinh đứa bé gái con viên thủ lãnh (x. Mt 9,25). + Chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi: Khi tiếng nói vừa dứt, thì mọi sự cũng tan biến theo. Từ đây, chỉ còn một mình Đức Giêsu là Thầy dạy Luật mới, Luật hoàn hảo và vĩnh viễn. + “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”: Lệnh truyền: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy” cho thấy một mầu nhiệm lớn lao vừa được mặc khải (x. Đn 12,4.9). Có lẽ Đức Giêsu muốn tránh sự xáo trộn về chính trị, vì dân Do thái lúc bấy giờ đang trông chờ một Đấng Thiên Sai đến giải phóng họ khỏi ách thống trị của đế quốc Rô-ma. Chỉ sau khi Chúa Giêsu sống lại thì vai trò của Người mới được hiểu đúng theo thánh ý của Thiên Chúa.

CÂU HỎI:

1) Tại sao ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lại được Đức Giêsu cho chứng kiến cảnh Người biến hình? 2) Núi cao nói đây là núi nào? Thực ra, Núi ở đây ám chỉ điều gì? 3) Thời Xuất Hành, nhân vật nào cũng được biến hình giống như Đức Giêsu ở đây? 4) Việc Đức Giêsu biến đồi dung nhan và áo mặc mang ý nghĩa gì? 5) Hai ông Mô-sê và Ê-li-a là đại diện cho ai? Nội dung hai ông đàm đạo với Đức Giêsu xoay quanh đề tài nào? 6) Lều là hình ảnh tượng trưng điều gì? 7) Đám mây bao phủ các môn đệ tượng trưng cho điều gì? 8) Lời Chúa từ đám mây khẳng định gì về sứ mạng của Đức Giêsu? 8) Tại sao Đức Giêsu đòi ba môn đệ phải giữ kín điều họ mới chứng kiến?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2).
  3. CÂU CHUYỆN:

1) Vị hoàng tử chiến thắng được dị tật gù lưng:

Có một hoàng tử kia đẹp trai lại văn võ song toàn. Nhất là luôn khiêm tốn hòa nhã, nên rất được vua cha và bá quan trong triều nể phục. Hoàng tử chỉ có một khuyết điểm duy nhất là cái tật gù lưng từ lúc mới sinh. Chính vì mang dị tật bẩm sinh này mà chàng luôn mang mặc cảm tự ti và không dám xuất hiện trước dân chúng. Triều đình có lệ này là tạc tượng các nhân vật thuộc hoàng tộc khi họ được 20 tuổi. Bức tượng ấy sẽ được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân chiêm ngưỡng. Năm đó, hoàng tử vừa tròn 20 tuổi. Dù không muốn cho người ta tạc tượng, nhưng do không dám trái lệnh vua cha, nên chàng chỉ yêu cầu hai điều và được vua cha chấp thuận: Một là bức tượng của chàng phải được tạc trong tư thế đứng thẳng chứ không gù lưng. Hai là chỉ được đặt bức tượng ấy tại phòng riêng của chàng khi chàng còn sống.

Từ khi có bức tượng trong phòng, mỗi ngày hoàng tử đều đến trước tượng ngắm nhìn hình ảnh của mình. Chàng rất thích dáng vẻ hiên ngang của bức tượng, và cố bắt chước tư thế của bức tượng. Sau một thời gian, mọi người đều ngạc nhiên nhận thấy hoàng tử đã được biến đổi không còn bị gù lưng như trước nữa. Trái lại càng ngày chàng càng có dáng vẻ hiên ngang oai vệ giống y như bức tượng trong phòng của chàng. Sau khi đã sửa được cái tật gù lưng, hoàng tử đã đồng ý cho trưng bày bức tượng của chàng tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân mặc sức chiêm ngưỡng.

2) Khỏi bệnh ung tư nhờ tin cậy vào Thánh Giá Chúa:

Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Sa-lê-siên ở thành phố Cáp tại Ha-i-ti, muốn nhờ điêu khắc gia nổi tiếng là PÊ-RI-KHÊT làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị, trong lúc ông đã bị mắc bệnh ung thư sang thời kỳ cuối.

Các nữ tu đã cử một chị cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về yêu cầu này. Hôm đó viên bác sĩ của Pê-ri-khết cũng đang có mặt khám bệnh cho Pê-ri-khết. Ông nói với chị nữ tu:

– Lẽ ra chị đã phải đến đây từ lâu mới đúng. Còn bây giờ rất tiếc căn bệnh ung thư của ông Pê-ri-khêt đã trở nên quá nặng. Sau đó viên bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc:

– Ông là tín hữu công giáo. Từ nay ông chỉ nên đặt trọn niềm tin vào Chúa để chữa bẹnh thôi. Còn những chuyện khác thì xin ông đừng quan tâm tới nữa.

Pê-ri-khêt đã nghe lời khuyên của viên bác sĩ điều trị cho mình nên từ ngày đó ông không còn thiết tha với việc cầm bút vẽ và điêu khắc để sáng tác bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào khác. Tuy nhiên ít ngày sau, chị nữ tu kia lại xuất hiện gặp nhà điêu khắc và tiếp tục năn nỉ:

– Này ông Gio-va-ni Pê-ri-khêt. Chị em nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp rất mong ông làm cho nhà dòng một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết rõ khả năng Chúa ban cho ông. Hôm nay trước khi trả lời dứt khoát cho nhà dòng, tôi đến đây xin hỏi ý kiến ông thêm một lần nữa.

Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi cuối cùng ông nói với chị nữ tu:

– Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng tôi thực hiện trước khi về với Chúa, và tôi xin các chị em nữ tu cầu cùng Chúa ban ơn giúp tôi hoàn thành công việc này.

Thế là sau đó nhà điêu khắc bắt tay làm việc với tất cả nhiệt tâm của một người mong sớm được gặp Chúa. Đây quả thật là một công việc rất nặng nhọc đối với một bệnh nhân ung thu ở thời kỳ cuối như Pê-ri-khết. Nhưng chính ông lại cảm thấy có một điều gì rất lạ lùng đang diễn ra nơi mình: Mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông bị mất sức mệt mỏi, thì lại làm cho ông như được thêm sinh lực. Ông tiếp tục làm việc ngày này qua ngày khác như không hề bị bệnh cho đến khi hoàn thành được tác phẩm tuyệt đẹp là cây thánh giá vô giá. Ông thấy mình cũng đã hồi phục sức khỏe trở lại. Chính Chúa Giêsu đã chữa lành bệnh ung thư cho Pê-ri-khết, giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác nhờ lòng tin biểu lộ qua lòng cậy trông và yêu mến Chúa. Pê-ri-khêt tưởng rằng cây thánh giá ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng ông thực hiện để chuẩn bị chết lành, nhưng với niềm tin cậy phó thác cao độ, thể hiện qua sự không ngừng cầu nguyện kết hiệp với Chúa đang khi làm việc, Pêrikhêt đã được Chúa biến đổi và chữa lành bệnh ung thư thời kỳ thứ ba cách đặc biệt. Đây là hình ảnh ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã, đang và sẽ còn mang đến cho nhân loại chúng ta.

Ngày nay, cây thánh giá do Pê-ri-khết thực hiện vẫn đang được treo trong gian thánh nhà thờ tu viện Sa-lê-siên thành phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều khách hành hương đến chiêm bái: Mỗi ngày rất nhiều người khỏe mạnh hay đau yếu đã hiện diện tại đây để kính viếng và ai nấy ra về đều nhận được hồng ân biến đổi cả phần hồn lẫn phần xác.

  1. SUY NIỆM:

1) Về hoàn cảnh cuộc biến hình của Đức Giêsu:

Cuộc biến hình đã xảy ra sau khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc hành trình của Người lên Giê-ru-sa-lem để trải qua cuộc tử nạn và phục sinh theo thánh ý Chúa Cha. Tin Mừng thuật lại cuộc biến hình này như sau: “Từ lúc đó, Đức Giêsu Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! “ Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phê-rô: “ Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16,22-23).

2) Về cuộc biến hình của Đức Giêsu:

– Cuộc biến hình của Đức Giêsu đã diễn ra trước mặt ba môn đệ thân tín là: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an trên núi cao khi Người đang cầu nguyện: Khuôn mặt của Người “chói lọi như mặt trời” giống như khuôn mặt sáng ngời của ông Mô-sê sau khi được gặp Đức Chúa (x. Xh 34,29-35). Y phục của Người “trắng tinh như ánh sáng” biểu hiện cho vinh quang thiên giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.

– Có hai nhân vật Cựu Ước là ông Mô-sê đại diện Luật Pháp và ông Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ hiện ra đàm đạo với Người, cho thấy Tân Ước tiếp nối Cựu Ước và Đức Giêsu đến không phá hủy Lề Luật Mô-sê hay lời sấm của các ngôn sứ, nhưng để làm cho nên hoàn thiện. Điều đáng lưu ý là trong khung cảnh vinh quang ấy, Mô-sê và Ê-li-a đã hiện ra và cùng nhau đàm đạo về cái chết của Đức Giêsu như một cuộc Vượt Qua Mới mà Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem. Qua đó cho thấy sự liên quan mật thiết giữa hai biến cố tử nạn và phục sinh mà biến hình chỉ là sự hé mở phần nào cho thấy vinh quang của Đức Giêsu sau khi sống lại, hầu giúp các môn đệ khỏi bị thất vọng khi chứng kiến cuộc tử nạn đau thương của Người trên thập tự.

– Ngoài ra còn có đám mây xuất hiện tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, và từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17,5). Qua đó Chúa Cha đã chính thức xác nhận Đức Giêsu là Mô-sê Mới thời kỳ Cánh Chung, đúng như Mô-sê xưa có lần đã báo trước cho con cái Ít-ra-en như sau: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18,15).

3) Về các điều kiện để được biến hình giống Đức Giêsu:

Mùa Chay là mùa tập luyện thiêng liêng, là thời gian thuận tiện để các tín hữu lên núi cao của lòng mình để đối diện với Thiên Chúa và cầu xin Ngài giúp biến đổi nên giống Đức Giêsu hầu chuẩn bị mừng đại lễ Phục Sinh sắp đến. Muốn thay đổi con người mình, chúng ta cần bỏ mình đi, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. Muốn bỏ mình đi thì việc trước hết là phải nhận biết mình có những điều tốt điều xấu, các thói hư quan trọng cần phải tu sửa, vì “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”.    

– Lên núi là vào trong lòng mình để cầu nguyện: Trong mùa Chay, chúng ta cùng các môn đệ Đức Giêsu đi theo Người lên núi cao, nghĩa là siêng năng tham dự các tuần tĩnh tâm Mùa Chay. Trong bầu khí thinh lặng của lòng mình, chúng ta sẽ cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giêsu. Cầu nguyện là điều kiện tiên quyết để được ơn biến đổi chói lọi như mặt trời như Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay (x. Mt 17,2) hoặc như ông Mô-sê được biến đổi diện mạo nên sáng ngời khi ông đang ở trên núi Xi-nai với Thiên Chúa (x. Xh 34,29-35).

Thế giới hôm nay thiếu những con người cầu nguyện, và thừa những con người lăng xăng hiếu động… Có ba môn đệ cùng ở trên núi với Đức Giêsu, nhưng chỉ mình Người mới có sự thay hình đổi dạng nhờ sự cầu nguyện đàm đạo với Chúa Cha, đang khi ba ông kia lại mê ngủ. Về sau tại núi Cây Dầu, một lần nữa ba ông này lại mê ngủ đang lúc Thầy các ông canh thức cầu nguyện. Do đó, dù cùng lên núi với Thầy, nhưng các ông vẫn trơ trơ không thay đổi để nên tốt hơn. Trong cuộc sống hiện tại đầy vất vả cạm bẫy và thử thách, chính nhờ sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận Thần Khí soi dẫn, các tín hữu chúng ta mới không bị hoang mang sợ sệt, mê ngủ hoặc trốn trách nhiệm đối với công việc chung của Hội Thánh…

– Hãy vâng nghe lời Người!:  Yếu tố thứ hai giúp các tín hữu được ơn biến đổi chính là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Đang lúc hiển dung, Đức Giêsu đã được Chúa Cha giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! “ (Mt 17,5). Ngày nay muốn được ơn biến đổi nên giống Đức Giêsu, chúng ta cần tin Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, chuyên cần lằng nghe Lời Người và xin Thánh Thần giúp chúng ta sống theo Lời Chúa dạy nơi bản thân, trong gia đình và ngoài xã hội.

Trong những ngày Mùa Chay cũng như trong suốt cuộc sống đời thường, mỗi tín hữu chúng ta cần siêng năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày để được nghe lời Chúa phán dạy trong phần Phụng Vụ Lời Chúa, và sau đó được hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể trong phần Phụng Vụ Thánh Thể khi rước lễ. Ngoài ra, chúng ta cũng phải chuyên cần tham dự tĩnh tâm Mùa Chay cả cộng đoàn hay riêng từng lứa tuổi, chăm chỉ tham dự các buổi Hiếp Sống Tin Mừng hay Chia sẻ Lời Chúa hằng tuần theo nhóm nhỏ của các hội đoàn tông đồ giáo dân…

– Đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa: Tuy nhiên để có thể chuyên cần dự lễ cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giêsu trong Tin Mừng, sẵn sàng vâng nghe Lời Chúa Giêsu như lời Chúa Cha truyền dạy, mỗi tín hữu chúng ta cần ý thức vai trò quan trọng của Thần Khí Thiên Chúa để năng cầu xin ơn Ngài trợ giúp khi đọc kinh dự lễ, biết mở lòng đón nhận các ơn Chúa và luôn theo Thần Khí hướng dẫn như Đức Giêsu xưa. Chính nhờ Thần Khí cua Chúa Phục Sinh được thổi trên các Tông đồ vào chiều ngày phục sinh và nhất là Thần Khí của Chúa Phục Sinh đã biến thành gió bão đầy sức mạnh và ngọn lửa cháy sáng đức tin… mà chúng ta sẽ hy vọng được biến đổi nên một con người trưởng thành về nhân cách, nên người tín hữu đạo đức luôn có lối sống đẹp lòng Chúa Cha noi gương Đức Giêsu, năng thực tập sông giới răn yêu thương để nên môn đệ đích thực của Người (Ga 13.34-35), tích cực dấn thân đi loan báo Tin Mừng Nước Trời và làm chứng cho Chúa Giêsu ngay trong môi trường sống và làm việc của mình x. Mt 28,19-20), luôn sống tình mến Chúa yêu người như kinh Thương Người có Mười Bốn Mối, trở nên khí cụ gieo rắc bình an hòa thuân trong gia đình cũng như khu xóm, giáo xứ và bất cứ nơi nào mình đang sông như Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô đã ký nhận.

  1. THẢO LUẬN:

1) Mùa Chay là mùa biến đổi: lọai bỏ tội lỗi xấu xa để trở nên tốt hơn. Vậy chúng ta cần biến đổi những gì trong lối sống đạo hiện tại, để xứng đáng được Thiên Chúa xác nhận là “Con rất yêu dấu” như Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay? 2) Chúa Cha đã phán với các môn đệ rằng: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Vậy chúng ta hôm nay phải làm gì để vâng nghe lời dạy của Chúa Giêsu?

  1. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. xin biến đổi con, xin biến đổi cuộc đời con từng bước qua lời cầu nguyện:

Xin biến đổi cái nhìn của con mỗi lần con chiêm ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và nghe lời Chúa phán dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,29).

Xin biến đổi môi miệng con mỗi lần con được hạnh phúc đón rước Chúa vào lòng.

Xin biến đổi tai con mỗi lần con nghe Lời Chúa trong Sách Thánh tại nhà thờ hay tư gia.

Xin làm cho khuôn mặt của con rạng ngời hơn mỗi lần con được gặp gỡ Chúa.

Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời ăn tiếng nói và cách ứng xử của con với tha nhân chung quanh.

Lạy Chúa. Thế giới hôm nay không cần những tín hữu mang bộ mặt buồn chán thất vọng. Xin cho chúng con luôn biết nhẫn nại và can đảm đồng hành với Chúa và với các anh em trên những nẻo đường đức tin nhiều sỏi đá để cuối cùng mới đến được với Thiên Chúa là nguồn vui, niềm tin cậy và hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng con.

  1. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

  1. Con đường Thập Giá – Lm Trần Thanh Sơn

Khởi sự Mùa Chay, chúng ta đã cùng Đức Giêsu tiến vào hoang địa, để nhận diện rõ bộ mặt của tên cám dỗ. Và cũng chính nơi hoang địa, chúng ta cũng đã chứng kiến cuộc chiến thắng vẻ vang của Đức Giêsu trước các mưu mô của ma quỷ. Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỷ bằng chính Lời của Thiên Chúa. Hay nói một cách khác, Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ, bởi Ngài đã chọn Thánh Ý Chúa Cha làm cùng đích cuộc đời của mình.

Tiếp tục ý tưởng đó, Lời Chúa hôm nay cho thấy, con đường của Thiên Chúa là con đường của sự từ bỏ tận căn con người cũ của mình. Do đó, để đi trọn con đường này, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải có một đức tin thật mạnh mẽ, một đức tin dám đặt trọn cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa, dám “đi mà không biết mình đi đâu” như tổ phụ Abraham.

  1. THẬP GIÁ, CON ĐƯỜNG TỪ BỎ :

Đáp lại tiếng Chúa gọi, tổ phụ Abraham đã từ bỏ quê hương, họ hàng, nghĩa là từ bỏ đi những gì là quen thuộc, gần gũi, từ bỏ cả những sự nâng đỡ tự nhiên. Thậm chí, ông còn được kêu gọi từ bỏ cả nhà cửa để đi đến miền đất mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho. Đây quả là một sự từ bỏ thật quyết liệt, vì đụng chạm đến chính bản thân của mình. Nó đòi chúng ta ra khỏi “pháo đài” của chính mình, ra khỏi “tổ kén” yên ổn của mình, từ bỏ cách suy nghĩ, cách lý luận của mình, để bắt đầu một cuộc sống mới theo sự dẫn dắt của Lời Chúa. Người được Thiên Chúa gọi từ đây không còn sống theo ý mình, nhưng phải luôn luôn tìm và sống theo Thánh Ý của Thiên Chúa, cụ thể là sống theo giáo huấn của Đức Giêsu Kitô như chúng ta vừa nghe Chúa Cha phán dạy trong bài Tin mừng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”.

Từ đây, người môn đệ vẫn tiếp tục sống và hoạt động, nhưng không còn cậy dựa vào sức mình, nhưng luôn cậy dựa vào ơn Chúa, hay nói theo cách nói của thánh Phaolô trong bài đọc hai, chúng ta hoạt động “nhờ quyền lực của Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát và kêu mời chúng ta bằng ơn thiên triệu thánh của Người”.

Để có thể đi đến miền đất mà Thiên Chúa đã hứa, vị tổ phụ của chúng ta đã “từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa”. Như thế, từ bỏ cái cũ, những cái tiêu cực, chính là bước khởi đầu, và là điều kiện tiên quyết để có thể đón nhận những cái mới. Tuy nhiên, sự từ bỏ này tự nó, không phải là điều dễ dàng, vì sẽ gây ra cho chúng ta biết bao sự mất mát và đau đớn. Do đó, để hoàn tất cuộc từ bỏ, lột xác này, mỗi người chúng ta còn cần có một đức tin thật vững mạnh.

  1. CON ĐƯỜNG CỦA ĐỨC TIN :

Trở lại với trình thuật về ơn gọi của tổ phụ Abraham. Chúa đã gọi tổ phụ Abraham “từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa” để đi đến xứ mà Ngài sẽ chỉ cho. Nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, Abraham đã ra đi, cho dù không biết là mình sẽ đi đâu, tương lai của bản thân mình, gia đình mình sẽ như thế nào. Nhưng cho dù có xảy ra điều gì đi nữa, cho dù trước mắt tương lai có mịt mờ, thì Abraham vẫn “ra đi như lời Thiên Chúa phán dạy”. Tổ phụ Abraham đã ra đi không phải vì ông đã nắm chắc tương lai, nhưng ông đã bước đi trong niềm tin vào lời hứa của Thiên Chúa. Chính vì thế, ông đã được gọi là “Cha của những kẻ tin”. Và quả thật, vị tổ phụ của chúng ta đã không phải thất vọng khi đặt niềm tin của mình nơi Thiên Chúa. Sau này, dòng dõi của ông đã nên đông đúc, và Đấng Cứu Thế muôn dân hằng mong đợi cũng đã được sinh ra từ nơi dòng dõi của ông. Tổ phụ Abraham đã đi trọn hành trình đức tin của mình, cho dù đó là một hành trình vô định, đầy những bấp bênh, chính vì thế ông đã xứng đáng nhận được vinh dự là tổ phụ của Con Thiên Chúa nhập thể làm người.

Việc ra đi trong bấp bênh, bước đi trong đêm tối của tổ phụ Abraham, chính là hình ảnh báo trước con đường thập giá mà Đức Giêsu sẽ đi. Hành trình thập giá cũng chính là một hành trình trong đức tin, bởi lẽ hành trình thập giá đòi những ai bước đi trên đó phải hy sinh, và đi trong đêm tối, ngược với những suy nghĩ tự nhiên của con người. Hay nói theo cách nói của thánh Phaolô, thập giá vẫn luôn là một điều ô nhục, điên rồ, trước mắt mọi người (x. 1 Cr 1, 18. 23).

Trong bài Tin mừng, thánh sử thuật lại việc biến hình của Đức Giêsu trên núi. Lúc đó, “mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết”, với việc biến hình này, Đức Giêsu cho các môn đệ thấy trước vinh quang thật sự của Ngài. Một vinh quang vượt ngoài trí tưởng tượng của các ông. Một vinh quang rực rỡ mà chỉ cần nhìn thấy cũng đủ làm cho các ông choáng ngợp trong hạnh phúc, đến nỗi Phêrô đã phải kêu lên: “Lạy Thầy, chúng tôi được ở đây thì tốt lắm, nếu Chúa ưng, chúng tôi xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môisen, và một cho Êlia”. Phêrô và các môn đệ muốn ở lại luôn trên núi để hưởng nguồn hạnh phúc mà các ông chưa từng được hưởng.

Thế nhưng, ngay lúc đó, Đức Giêsu đã ra lệnh cho các ông: “Các con không đựơc nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Nghĩa là nếu các môn đệ muốn được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc ở nơi Thiên Chúa, thì giờ đây, các ông phải “xuống núi”, nghĩa là các ông phải sẵn sàng theo chân Đức Giêsu để bước đi trong niềm tin cho tới tận đỉnh đồi Canvê, và “cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.

Tóm lại, con đường thập giá không chỉ là con đường đức tin đi trong đêm tối, nhưng thập giá còn là con đường của sự từ bỏ, một sự từ bỏ trọn vẹn cho đến cùng con người cũ của mình, để mặc lấy con người mới trong Đức Kitô.

  1. CHÚNG TA HÔM NAY :

Tổ phụ Abaraham đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, can đảm dấn bước trong niềm tin và đã trở nên mẫu gương cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, chỉ nguyên một việc nhìn ngắm mẫu gương của tổ phụ Abraham sẽ không đem lại lợi ích gì cho chúng ta, nếu chúng ta không dám sống như ngài.

Bước vào Mùa Chay năm nay, theo gương của tổ phụ Abraham, mỗi người chúng ta hãy cố gắng từ bỏ đi một thói hư, tật xấu nào đó: đó có thể là sự lười biếng, tính tự ái, thói quen nhậu nhẹt, bài bạc, chửi thề, nói hành, nói xấu, cố chấp, ương bướng… Việc từ bỏ này không phải là dễ dàng thực hiện, vì con người chúng ta rất yếu đuối, nhưng nếu chúng ta biết đặt trọn niềm tin, và hết lòng cậy dựa vào ơn Chúa, tôi tin chắc, tất cả chúng ta sẽ thực hiện được.

Cùng với việc từ bỏ là lên đường, mỗi người chúng ta cũng hãy có một quyết tâm tham dự Thánh lễ và hiệp lễ mỗi ngày, khi có thể. Và nhất là quyết tâm hiệp dâng Thánh Lễ ngày Chúa Nhật thật đầy đủ, trọn vẹn. Nhờ đó, vào ngày Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và là Chúa chúng ta trở lại, tất cả chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Ngài muôn đời. Amen.

 

  1. Biến đổi theo Thánh Ý Chúa

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Mỗi khi Mùa Chay về, ấy là lúc chúng ta nghe đây đó văng vẳng bên tai: hãy đi xưng tội; làm việc lành; bố thí; hy sinh hãm mình và ăn chay để đền tội…. Tuy nhiên, điều đó cần, nhưng không đủ, nên Mùa Chay vẫn cứ đến rồi lại đi mà ít làm cho người tín hữu suy tư và quyết định biến đổi con người cũ là con người ích kỷ, kiêu ngạo, tội lỗi, để mặc lấy con người mới, con người giống hình ảnh của Đức Giêsu. 

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này mời gọi mỗi chúng ta một phần biết sống những đòi hỏi của Tin Mừng. Mặt khác cũng cần phải biến đổi để trở nên con người mới thực sự theo ánh sáng của Tin Mừng, tức là theo thánh ý Thiên Chúa.

  1. Ý nghĩa Lời Chúa

Khởi đi từ bài đọc I: trình thuật việc Đức Chúa kêu gọi ông Abram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12, 1). Ông Abram đã sẵn sàng vâng nghe tiếng Chúa truyền, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống yên ổn tại quê nhà, để lên đường đến nơi Chúa sẽ chỉ cho trong tương lai. Sự ra đi của Abram là một cuộc từ bỏ tiên quyết. Vì thế, Chúa đã hứa ban cho ông và dòng dõi ông hưng thịnh đến độ: trở nên một dân lớn. Ông được chúc phúc, được vinh quang và trở thành trung gian để chúc phúc cho người khác cũng như mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ông mà được chúc phúc (x. St 12, 2-3).

Sang bài đọc II: thánh Phaolô mời gọi người môn đệ dấu yêu của mình là Timôthêô hãy bắt chước ngài như chính ngài đã bắt chước Đức Kitô; đồng thời cũng mời gọi ông cộng tác trên hành trình loan báo Tin Mừng mà thánh nhân đang loan báo. Lộ trình và kế hoạch đó là của Thiên Chúa đã được tiền định từ lâu. Khi được chọn và gọi để tham gia vào sứ mạng đến với muôn dân như thế, người môn đệ phải hiểu, sống và hăng say loan báo về Đấng “ … đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (2Tm 1, 10).

Cuối cùng là bài Tin Mừng: thánh Mátthêu trình thuật biến cố Đức Giêsu hiển dung như một sự kiện toàn cho tất cả những gì đã tiên trưng trong Cựu Ước mà sách Luật và lời các tiên tri đã loan báo.

Hình ảnh của Đức Giêsu sáng chói được hiện lên trong vai trò là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Ngài hiển dung giữa hai vị đặc biệt có liên hệ đến mình là Môsê và Êlia. Tại sao lại có sự xuất hiện hy hữu và đặc biệt này? Thưa! Điều đó dễ hiểu vì:

Môsê là nhà lập luật cho Đạo Dothái. Sự hiện diện của ngài muốn nói lên rằng: nhiều lần, Đạo luật Môsê báo trước về Đấng Cứu Độ, và hôm nay Đấng Cứu Độ ấy chính là Đức Giêsu đang xuất hiện. Tiếp theo, ngụ ý rằng, Đức Giêsu đến thế gian không phải để hủy bỏ Luật cũ, và lập lên một thứ đạo hoàn toàn mới. Nhưng Ngài đến để bổ xung, hầu cho nó được kiện toàn.

Còn Êlia chính là vị ngôn sứ quan trọng trong thời Cựu Ước. Sự hiện diện của ông có thể được hiểu là đại diện cho các ngôn sứ. Bởi vì ngài là người đã gìn giữ và canh tân Luật Môsê. Điều đặc biệt hơn cả nơi tiên tri Êlia chính là vị tiền hô của Đấng Cứu Thế (x. Ml 3, 23-24).

Sự hiện diện của hai nhân vật điển hình cho thời Cựu Ước có mặt trong cuộc biến hình của Đức Giêsu muốn nói lên sự gạch nối giữa Cựu Ước và Tân Ước.  Đồng thời qua biến cố này, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các môn đệ về bản tính của mình trong vinh quang, để các ông đi vào Mầu Nhiệm Ánh Sáng của ơn cứu độ. Vì thế, thật hạnh phúc cho các ông khi được nếm trải trước giây phút huy hoàng của Nước Trời.

Đây là một trong hàng trăm ngàn phần thưởng mà Đức Giêsu hứa ban cho những ai bỏ mọi sự mà đi theo Ngài. Vì thế, Phêrô đã thốt lên: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, hay quá! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái” (Mt 17, 4). Khi các ông còn đang ngây ngất như thế, thì Chúa Cha xuất hiện như một lời chứng về Người Con yêu quý của mình; đồng thời cũng mặc khải cho các ông hiểu rằng: muốn được vào vinh quang thì phải vâng nghe lời Đức Giêsu.

  1. Hãy vâng nghe Lời Người

Nếu trước đó, Đức Giêsu đã mời gọi những môn đệ từ bỏ mọi sự để đi theo mình, đồng thời  Ngài cũng đưa ra khuôn mẫu của người môn đệ cần có là: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Lúc khác, Ngài nhấn mạnh hơn khi nói: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10, 37). Rồi ngài cũng tiên báo cho các ông biết rằng: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10, 22).

Những điều kiện mà Đức Giêsu vạch ra và đòi hỏi các môn đệ đi theo như thế, không phải là một con đường xa lạ đối với Ngài, bởi chính Ngài đã vâng lời Thiên Chúa để đi trên con đường đau khổ đó hầu cứu chuộc nhân loại. Vì thế, đã nhiều lần Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của mình để các ông hiểu rõ sứ vụ của thầy và chính các ông sẽ tiếp bước (x. Mt 16, 24). Lời mời gọi này được Đức Giêsu đưa ra đúng vào thời điểm mà các môn đệ đang tranh nhau chỗ nhất, nhì trong vương quốc của Ngài; lại có những môn đệ đang so đo tính toán thiệt hơn, thì có thể sẽ làm cho các ông chùn bước vì phải bước đi theo Thầy trên hành trình đầy gian nan khốn khổ và chết chóc.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không để các môn đệ của mình thất vọng, nên ngay sau khi tiên báo về cuộc thương khó lần thứ nhất, người đã đưa các ông lên trên núi để biến hình trước mặt các ông, hầu như một động lực nâng đỡ và khuyến khích họ tiến bước trên con đường khổ giá. Việc Đức Giêsu biến hình là một lời mời gọi cho các môn đệ: nếu muốn được vào vinh quang thì phải trải qua thập giá. Muốn tiến tới hạnh phúc vĩnh cửu thì cũng phải biến đổi hình dạng, tức thay đổi con người cũ trở thành con người mới, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.

Qua biến cố này, Đức Giêsu hé mở cho các ông thấy một chút tương lai của cuộc hành trình ấy. Đây chính là phần thưởng mãn nguyện, tuyệt vời nhất mà Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ thân tín của mình.

Nhưng để được như vậy, người môn đệ phải trải qua con đường tập giá, phải biến đổi.

Ngày hôm nay, Đức Giêsu cũng đang mời gọi mỗi chúng ta đón nhận cùng một sứ điệp như đã mặc khải cho các môn đệ khi xưa.

  1. Một cuộc biến đổi của chúng ta

Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối […] và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để sống thật sự công chính và thánh thiện” (Ep 4,22.24). Thật vậy, chúng ta theo Chúa, là chúng ta phải chấp nhận con đường phưu lưu, đầy gian khổ và đôi khi cả cái chết nữa. Chấp nhận biến đổi. Như vậy, người đi theo Chúa và sống những điều Chúa đòi hỏi phải là những người liều. Liều vì Chúa. Liều vì sứ mạng. Liều vì Giáo Hội. Chứ không phải liều cách mù quáng. Liều vì bị ép phải liều.

Biến đổi! Lời mời gọi mang tính quyết định. Nếu chúng ta không biến đổi con người cũ là con người tội lỗi như: tham, sân, si, của bản năng con người, thì chúng ta chẳng khác gì dòng sông không chảy, một cái ao tù được tạo thành ngay trong tâm hồn những ai cố chấp không chịu biến đổi.

Tuy nhiên, nói biến đổi thì dễ lắm, nhưng khi thực sự quan tâm mới thấy là khó.

Trong đời sống thực tế, chúng ta vẫn thấy đây đó có nhiều người hô hào canh tân, đổi mới, cách mạng, nhưng là thứ biến đổi mù quáng, nhằm tôn thờ khoái lạc, coi trọng tiền bạc, thượng tôn quyền thế, và đề cao những thứ hạnh phúc nhất thời, tạm bợ. Họ sẵn sàng bỏ qua hay coi thường sự hy sinh, nhẫn nại, khiêm nhường… Canh tân như vậy thì không những không đem lại cho con người hạnh phúc, mà lại mở đường đưa con người vào chốn diệt vong. Canh tân như thế chính là canh tân, hy sinh theo kiểu Biệt Phái, chứ không theo cung cách và đòi hỏi của Tin Mừng.

Trong đời sống đạo hiện nay nơi chúng ta, hẳn mỗi người không lạ gì khi vẫn thấy đây đó những người luôn tự hào, can đảm cũng như sẵn sàng vác thánh giá cho cả làng, nhưng thánh giá của chính mình thì đè đầu ấn cổ và bắt người khác vác thay. Hy sinh như thế là hy sinh người khác chứ không phải hy sinh chính mình. Lại có những người hy sinh giả tạo mà Đức Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận đã nói đến trong sách Đường Hy Vọng: “Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm!” (ĐHV số 171).

Biến đổi giả tạo hay ngụy trang như vậy thì chẳng khác gì “đánh bùn sang ao”. Thậm chí còn tệ hơn trước. Họ hô hào cách mạng người khác, chứ bản thân thì không hề thay đổi. Những người như thế được ví như: “Thay quần, thay áo, thay hơi, thay dáng, thay dấp, mà người chẳng thay” (Ca dao). Những chuyện “đao to búa lớn” được cất lên hiệu triệu để làm cho con người, cuộc sống, xã hội được tốt hơn, nhưng trên thực tế không biết bao lần nhân loại đã phải đau đớn mà nhận định rằng: “thay đổi kiểu đó thì chẳng khác gì ‘treo đầu dê, bán thịt chó’”, hay “cái đầu thì không thay đổi mà chỉ ngồi bẻ mấy đốt ngón tay”.

Biến đổi và canh tân mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta thi hành chính là: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Đòi hỏi này phải chăng rất khó! Tuy nhiên, con đường này là con đường dẫn đến hạnh phúc, bình an và hoan lạc. Nhưng tiếc thay, con đường này rất ít người đi.

Thật vậy, con người ngày hôm nay rất sợ hy sinh, và người ta tìm mọi cách để làm sao cho mình thoát ra khỏi những sự bất trắc của cuộc sống. Nhưng nên nhớ rằng: chúng ta là người kitô hữu, nên nếu tránh gian khổ, chúng ta đừng mong làm thánh. Hay thánh mà không qua đau khổ chính là thánh giả, thánh lâm thời. Khi những đau khổ, gian nan thử thách ập đến, nước sơn giả tạo bên ngoài phai nhạt đi thì lúc đó tượng thánh sẽ lộ hiện lên nguyên hình Quỷ.

Cuộc đời của chúng ta đi theo Chúa không chỉ có chuyện hoa thơm, trái ngọt; chỉ có niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống; nhưng vẫn luôn còn đó những thất bại, mật đắng, dấm chua… Nhưng điều quan trọng là ta “thay thái độ để đổi cuộc đời” và phải hiểu rằng: thử thách gian khổ là “giấy phép theo Chúa” để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá…” (ĐHV 714). Sống được như thế, thì trong mọi hoàn cảnh, mọi biến cố chúng ta đều: “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại”.

Như vậy, Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy xé lòng chứ đừng xé áo. Hãy hướng về Đức Giêsu để làm một cuộc cách mạng biến đổi cái cũ là tội lỗi, ích kỷ, tham lam, kiêu ngạo… để trở thành một con người mới với nhiều hoa thơm nhân đức như: hy sinh, từ bỏ, khiêm nhường, dấn thân, liên đới và bao dung…

Lạy Chúa, xin cho chúng con được ơn biến đổi và canh tân. Xin tăng thêm niềm tin cho chúng con để chúng con can đảm bước theo Chúa cho trọn cuộc đời, hầu qua đau khổ, chúng con được tiến vào vinh quang Nước Trời. Amen.

 

  1. Sống đức tin – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Trong khi dân chúng còn thắc mắc về Chúa Giêsu, mỗi người nghĩ về Ngài một cách, thì ông Phêrô đã thay mặt nhóm môn đệ thân tín của Chúa tuyên xưng : “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Lời tuyên xưng này là thành quả của giai đoạn huấn luyện của Chúa. Được theo sát bên Chúa, được chứng kiến mọi hoạt động của Chúa, lại được Chúa dạy dỗ riêng nhiều điều, các môn đệ được dẫn dắt từng bước để nhận ra Chúa Giêsu là ai. Nhưng cho đến lúc này các ông mới chỉ thấy quyền năng của Chúa, còn con đường Ngài phải đi thì các ông chưa biết, Chúa Giêsu muốn các ông phải chấp nhận toàn thể sứ mạng và thân phận của Ngài. Vì thế, khi ông Phêrô vừa tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô, Ngài liền nói đến việc Ngài sẽ phải chịu đau khổ, bị xỉ nhục và phải chết rồi sống lại. Sau đó Ngài rời miền Galilê tiến lên Giêrusalem. Nhưng trước khi đi lên Giêrusalem, Ngài còn cho các ông được thấy vinh quang của Ngài, nghĩa là Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào chân dung thật của Ngài, mà chúng ta thường gọi là Chúa biến hình.

Nói rõ hơn, Chúa Giêsu đã đem theo ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Ta-bo, đang lúc cầu nguyện, Chúa biến hình : sắc diện Ngài biến đổi và có một dung mạo khác thường, nghĩa là Chúa tỏa lộ một ánh sáng đặc biệt cho các môn đệ thấy chính Ngài là ai, là “vinh quang của Thiên Chúa”, là “Chúa vinh quang”. Trước đây, các môn đệ sống bên Chúa, đã hiểu phần nào về con người của Chúa, nhưng hôm nay nơi núi biến hình, các ông mới đích thực cung chiêm uy linh vinh quang của Chúa.

Trong lúc Chúa biến hình có hai người đàm đạo với Chúa, đó là ông Môsê và Elia. Đàm đạo về cuộc khổ nạn mà Chúa sắp trải qua ở Giêrusalem, còn ông Phêrô và các bạn thì ngây ngất trong ánh sáng siêu linh ấy, nhưng giữa lúc đó có một đám mây bay đến phủ rợp các ngài, rồi mất hút hai vị đại ngôn sứ, và mọi sự trở lại bình thường.

Quang cảnh trên cho chúng ta thấy có ánh sáng rồi có bóng mây. Đời là thế. Có vinh quang có đau khổ, có vinh có nhục, có buồn vui đắp đổi, có khóc có cười, có nước trời có trần gian, có vàng thau lẫn lộn…Vì thế, ngay trong vinh quang của Ta-bo, Chúa đã đàm đạo với các ngôn sứ về cuộc khổ nạn của Ngài để nhắc nhở và củng cố đức tin của thánh Phêrô và các tông đồ, để giúp họ đứng vững giữa những thử thách và trung thành với sứ mệnh nặng nề của ngày mai. Thánh Phêrô, trong một khoảnh khắc thời gian, được sống trong hai thế giới : trần gian và thiên đàng. Và khi được cung chiêm hạnh phúc nước trời, ngài đã sung sướng quá và thốt lên : “Lạy Thầy, được ở lại đây thì tốt quá”. Nhưng rồi bóng mây bao phủ trên họ, và họ phải xuống núi, trở về với nhiệm vụ của mình.

Bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng ghi nhớ, nhưng chúng ta đặc biệt ghi nhớ câu nói của thánh Phêrô trên đây và hình ảnh đám mây bao phủ trên các tông đồ lúc ấy làm bài học cho chúng ta. Chúng ta thấy đó, thánh Phêrô đã thốt lên như thế khi được thấy hạnh phúc nước trời ngay tại thế, nhưng chỉ trong một khoảnh khắc thôi rồi họ lại trở về với cuộc sống cam go và nhiệm vụ nặng nề của mình. Lời nói của thánh Phêrô được coi là niềm vui, đám mây tượng trưng cho nỗi buồn.

Chúng ta cũng vậy, có lẽ trong cuộc đời theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được một số những an ủi, niềm vui, phước lộc. Nhưng chúng ta cần nhớ : bao lâu còn sống ở trần gian, niềm vui nào cũng mau qua, như người ta vẫn nói : Vui qua sầu tới. Cho nên, chúng ta cần phải có một thái độ đúng trước niềm vui, là đừng bao giờ chỉ biết có niềm vui của riêng mình, nhưng phải biết giới hạn và san sẻ niềm vui đó, và đừng bao giờ để cho niềm vui của mình trở nên đau khổ cho người khác, vì khi chúng ta vui thì còn nhiều người khác đang buồn. Cũng đừng bao giờ say sưa trong niềm vui mà quên bổn phận hay nhiệm vụ của mình. Lúc có niềm vui thì hãy nhớ tới lúc hết niềm vui. Nếu chúng ta có thái độ đúng đắn như thế, chúng ta sẽ không còn ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước thuận cảnh hay nghịch cảnh, trước niềm vui hay nỗi buồn. Ngược lại, khi chúng ta không có được niềm vui như người khác, thì chúng ta cũng đừng bao giờ thất vọng, chán nản, buông xuôi.

Vì thế, chúng ta phải làm chủ được cuộc đời mình, là cuộc đời được đan dệt bằng những niềm vui và nỗi buồn. Chúng ta hãy sống với hoàn cảnh thực tại của mình, chúng ta hãy chu toàn nhiệm vụ hằng ngày của mình, chúng ta hãy lấy nhiệm vụ làm nguồn vui, chúng ta chỉ có quyền hưởng niềm vui khi đã làm xong nhiệm vụ. Nhiệm vụ nào cũng là gánh nặng, nhưng gánh nặng được chúng ta hoàn thành lại trở nên niềm vui cho chúng ta. Đó là bài học Chúa dạy các tông đồ xưa kia và dạy chúng ta hôm nay : “Qua đau khổ sẽ tới vinh quang”, sau cơn mưa, trời lại sáng.

 

  1. Vinh quang của Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Cuộc biến hình trên núi Taborê là hình ảnh sống động, ấn tượng đã để lại trong lòng mọi Kitô hữu những suy nghĩ, những cảm nghiệm sâu xa về sự vinh hiển của Chúa Giêsu sau khi Ngài phải trải qua những cực hình thể xác, những đau khổ tinh thần bởi vì hầu như mọi người đã bỏ rơi Ngài. Vinh quang trên núi Tabôrê hôm nay xua tan mây mù đen tối về cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà Ngài đã loan báo cho các tông đồ ở Cêsarê-Philipphê. Chúa Giêsu đã cho ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan được thấy vinh quang của Ngài, và đặc biệt được nghe lời Thiên Chúa Cha từ trời giới thiệu Người Con Chí Ái, đồng thời với sự minh chứng của các nhân vật Cựu Ước như Ông Môsê và Ông Êlia để các môn đệ an tâm dấn bước theo Chúa, nghe lời Chúa dạy và sẵn sàng gánh vác công việc của Chúa sau này…

Trình thuật của thánh Matthêu trong trích đoạn 17, 1-9 là một áng văn hay và là một cuộc miêu tả hết sức đẹp về sự biến hình của Chúa trên núi Tabôrê. Ba nhân vật Phêrô, Giacôbê và Gioan là ba tông đồ đã được Chúa Giêsu đem theo riêng bên mình, chứng kiến một số sự kiện, biến cố quan trọng trong cuộc đời theo Chúa, chẳng hạn biến cố con ông Giairô, hiện diện trong vườn Giêt-si-ma-ni. Thánh Phêrô sau này làm đầu Giáo Hội. Phêrô là Đá, Chúa xây Giáo Hội trên nền Đá là Phêrô và các tông đồ. Thánh Giacôbê là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem và cũng là vị tông đồ được phúc tử đạo đầu tiên. Thánh Gioan là người viết Phúc Âm thứ tư, là tông đồ về trời sau cùng và là người truyền đạt mạc khải công khai của Chúa.

Tiếng Chúa Cha phán đã là bảo chứng quan trọng cho mọi người, mọi thế hệ biết được Ba ngôi Thiên Chúa, làm ta nhớ lại trên dòng sông Giorđăn, Chúa Cha xác nhận: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, ai tin Thiên Chúa phải nghe lời Chúa Giêsu. Các nhân vật Cựu Ước như Môsê và Êlia giúp các tông đồ hiểu Chúa Giêsu vừa là Vị giảng huấn, vừa là Tiên tri và thực hiện lời các tiên tri.Thánh Phêrô xin dựng lều để muốn mừng lễ Lều Trại vì bây giờ đang trong thời kỳ mừng lễ Lều. Đám mây bao phủ làm ta nhớ tới thời Cựu Ước về sự hiện diện của Thiên Chúa. Núi và đám mây bao phủ gợi lại hình ảnh Môsê trên núi Sinai xưa.

Chủ đích Tin Mừng hôm nay cho ta hay rằng Thiên Chúa từ trời như đang nhắn gửi nhân loại và đặc biệt Dân Do Thái lắng nghe lời của Môsê, và căn dặn phải nghe lời Đấng được sai đến hướng dẫn dân, Đấng ấy thi hành ý Thiên Chúa Cha, là Con và là tôi tớ, những lời của Đấng ấy dù có khác lạ với lối suy nghĩ của nhân loại, của người đời, như thể lời loan báo về cuộc khổ nạn, về cái chết và phục sinh. Các môn đệ ngã sấp mặt xuống đất gợi lại sự hiện diện của Thiên Chúa thời Cựu Ước, hình ảnh Thiên Chúa trong bụi gai, Môsê phải cúi mặt không được nhìn vì nhìn sẽ chết vv…Giữ kín những điều đó để khỏi bị người ta hiểu lầm, tranh giành nhau về chính trị, về quyền hành vv…Khi Chúa chết sống lại, sự hiểu lầm ấy sẽ hết đi…

Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta nhận ra Đấng Cứu Thế mà Dân Do Thái mong đợi đã đến, Ngài đã đến với chúng ta cùng với Giáo lý, Giáo huấn của Ngài. Ngài muốn chúng ta sống như Ngài, lắng nghe lời Ngài và thực thi lời Ngài. Vinh quang của Chúa Giêsu cũng là vinh quang của chúng ta bởi vì Chúa Giêsu đã luôn làm hài lòng Thiên Chúa Cha khi thực hiện thánh ý của Chúa Cha: chịu đau khổ, chịu chết và phục sinh để cứu rỗi mọi người, cứu rỗi trần gian. Chúng ta thực thi ý Chúa là hoàn tất sứ mạng trần thế trong cuộc hành trình đức tin lâu dài. Lắng nghe lời Chúa và thực hiện lời Chúa trong đời sống của mình là đem lại hạnh phúc cho chính bản thân mình và đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh chúng ta trong bất kỳ trạng huống thuận hay nghịch của cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã chìm sâu trong ánh sáng vinh của của Chúa. Việc biến hình của Chúa đã làm cho các tông đồ quên đi những tang thương, thử thách của cuộc đời để các ngài ý thức về sứ mạng cứu thế của Chúa. Hôm nay trên núi cao, các môn đệ được chiêm ngắm vinh quang chói ngời của Chúa…Trong vườn Cây Dầu, các môn đệ sẽ chứng kiến những giây phút đau buồn, thảm thương của Thầy trước khi bị bắt, bị kết án và bị đóng đinh trên Thập giá. Xin cho chúng con luôn tin vào lời Chúa, lắng nghe Chúa nói và thực thi những điều Chúa dạy bảo hầu chúng con làm hài lòng Thiên Chúa, làm vui lòng anh chị em và làm đẹp lòng Chúa. Xin Chúa chúc lành cho chúng con và sứ mạng cứu thế chúng con đang thực hiện giữa mọi người. Amen.

 

  1. Chúa Giêsu biến hình – Lm Jos Nguyễn Hưng Lợi

Cuộc đời ngắn ngủi của Chúa Giêsu ở trần gian nói lên sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha của Ngài. Bởi vì đã là Thiên Chúa, Chúa Giêsu có thể kéo dài cuộc sống của Ngài đến vô cùng vô tận. Nhưng ở trần thế chóng qua này, Chúa Giêsu đã chấp nhận cái mong manh, chóng qua của thân phận con người. Đó là, sau khi Chúa Giêsu chấp nhận sự đau khổ theo ý Thiên Chúa Cha để cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã được ” biến hình đổi dạng trên núi cao ” và được Cha Ngài long trọng khen ngợi: ” Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17, 2).

Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê để cho các môn đệ thân tín thấy vinh quang của Ngài. Sự biến hình là phần thưởng cao quí, tuyệt vời Thiên Chúa Cha trao tặng cho Chúa Con, Đức Giêsu Kitô.Chúa biến hình trước mặt các môn đệ để các Ngài cảm nghiệm trước sự sáng láng sống lại của Chúa Giêsu. Biến hình hôm nay, Chúa chuẩn bị các môn đệ dễ dàng đón nhận sự đau khổ, cái chết thương đau của Chúa Giêsu trên thập giá. Bởi vì có đau khổ mới có vinh quang. Miêu tả biến cố biến hình, thánh sử Máccô viết: “Áo người trở nên trắng như tuyết, trắng hơn bất cứ thứ vải nào mà các thợ tẩy có thể tẩy được”. Thánh Matthêu diễn tả: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2). Đây là cuộc biến hình đổi dạng sau khi Chúa Giêsu đã một mực tuân hành ý Thiên Chúa Cha chấp nhận cuộc khổ nan để cứu chuộc nhân loại. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là chấp nhận vâng lời thánh ý Thiên Chúa Cha. Chính vâng phục ý Cha, Chúa Giêsu đã trút bỏ vinh quang, mang thân phận làm người, sống như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Chúa đã chịu đau khổ trong cuộc khổ nạn để cứu chuộc nhân loại, gánh tội cho con người,mặc dù Người hoàn toàn vô tội.

Chính vì thế, người môn đệ Chúa Giêsu luôn phải thốt trên môi miệng lời của Chúa Giêsu: ” Lạy Cha nếu có thể được thì xin Cha cất chén đắng này xa con, nhưng đừng theo ý Con mà là theo ý Cha ” ( Mt 26, 39 ). Vác thập giá đi theo Đức Giêsu Kitô, người môn đệ Chúa sẽ được thấy sự vinh quang của Chúa. Chúa đã nói: ” Mỗi lần anh em cho một trong những kẻ nhỏ mọn này ăn, uống, mặc là các con làm cho chính Ta “. Giúp đỡ, thăm viếng những kẻ tù tội, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với những kẻ khó khăn là chúng ta nhận ra khuôn mặt sáng láng của Chúa Giêsu. Người môn đệ Chúa sẽ họa lại được khuôn mặt của Chúa khi họ luôn có bộ mặt an bình, hân hoan vì có Chúa ở cùng họ.

Vinh quang của núi Tabôrê quả thực mau qua vì Chúa chỉ cho các môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy sự sáng láng, chói lòa của Ngài trong chốc lát. Người Kitô hữu, môn đệ của Chúa thấy vinh quang thì ít mà đau khổ thì nhiều, nhưng họ sẵn sàng chấp nhận vì họ cảm nghiệm được Chúa đang có mặt trong cuộc đời mình và như thế, họ sẵn sàng hy sinh vác thập giá để đi theo Chúa.

Vâng, người Kitô hữu luôn phải vượt thắng tội lỗi, bản thân để chiếm lấy vinh quang là Nước Thiên Chúa.

Cả cuộc đời của người Kitô hữu là một cuộc phấn đấu không ngừng. Người Kitô hữu phải bước đi trong cuộc hành trình đức tin. Cuộc hành trình đức tin đòi hỏi con người luôn phải mặc lấy Đức Kitô. Mà đã mặc lấy Đức Kitô, người Kitô hữu phải sống như Ngài. Do đó, người Kitô hữu phải sống khiêm nhượng, sống hiền lành để bộ mặt của Đức Kitô được nổi bật trong đời sống của mình.

Mùa chay là cơ hội tốt, là dịp thuận tiện cho chúng ta ăn năn sám hối, quay về với Chúa, với anh em, sống thánh thiện và đạo đức để hướng về cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đức Kitô.

Canh tân đời sống, ăn chay, bố thí và cầu nguyện là ba phương thế tốt nhất để người Kitô hữu thực hiện việc sám hối…

Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để mỗi lần thực thi việc bác ái, mỗi lần cầu nguyện, mỗi lần dâng thánh lễ là mỗi lần gương mặt chúng con bừng sáng vì Chúa đang khơi lên trong trái tim chúng con ngọn lửa mến, ngọn lửa tình yêu cứu độ. Amen.

 

  1. Các con hãy nghe lời Người – Sr Mai An Linh

Chúa Nhật II Mùa Chay, Tin Mừng Mathêu cho chúng ta nghe trình thuật về cuộc Biến Hình của Chúa Giêsu. biến hình là thay đổi hình dạng, diện mạo, có một dáng vẻ khác với dáng vẻ bình thường. Cũng tương tự như Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra cùng hai môn đệ làng Emmau dưới hình dạng khác, hình dạng một người đi đường. Sự biến hình của Chúa Giêsu là hòan tất điều mà các niềm tin hy vọng Khải Huyền Do Thái mong đợi, ở thời cuối cùng, diện mạo người công chính sẽ được biến đổi, và họ sẽ trở nên sáng láng và rực rỡ như diện mạo các Thiên Sứ đầy vinh quang.

Dựa vào một sự kiện trong qúa khứ vinh quang rạng ngời mà Mosê được hưởng khi còn ở trần gian (x.Xh.24,39), sự chờ đợi cánh chung đã mô tả vinh quang tương lai những kẻ được chọn. Trình thuật về Đức Giêsu biến hình đổi dạng tiếp nối việc việc Phêrô tuyên tín và trao sứ mạng trở nên Đá Tảng, trên đó Đức Giêsu xây Hội Thánh của Người. Đức Giêsu vạch ra cho Phêrô và các bạn thấy những điều bi đát đang chờ đợi Người tại Giêrusalem, và những điều kiện làm môn đệ Chúa Giêsu, tòan là những nghịch lý đau thương, một viễn tượng hết sức mù mịt. Nhưng Ngài đòi các ông phải chấp nhận cái thông điệp khó chấp nhận : Đức Giêsu là Đức Kitô phải chịu khổ nạn rối mới Phục Sinh, những ai theo Chúa Giêsu cũng phải chịu gian nan rồi mới được vinh quang. Phêrô đã không thể chấp nhận nổi nên mới can dán Chúa Giêsu, Ngài khẳng định dứy khóat : ai không nhận Đức Kitô chịu khổ nạn rồi mới Phục Sinh thì kẻ ấy là satan. Tuy nhiên Đức Giêsu thấy cần phải cho môn đệ niềm hy vọng được thấy “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Chúa Cha, cùng với các Thiên Thần của mình” (Mt.16,27) để các ông có thể chấp nhận được điều Chúa Giêsu mới nói.

Trong biến cố biến hình, Đức Giêsu đã chọn ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan tháp tùng mình. Đó là ba người đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái Giairô sống lại, và sẽ chứng kiến cảnh hấp hối của Đức Giêsu tại vườn dầu (x.Mc.5,37-42; Mt.26,37-46). Trọng tâm của biến cố biến hình là tiếng từ đám mây : “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng trìu mến, các ngươi hãy vâng nghe lời Người”(c.5). Tiếng xác chuẩn lời tuyên tín của Phêrô rằng : Đức Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống (x.Mt.16,16) thì giờ đây tiếng đó lại vang lên tóm tắt mọi điều dân mới của Thiên Chúa phải thực hiện trong Giao Ước mới là ” Hãy vâng nghe lời Người”. Vâng nghe thông điệp mà Chúa Giêsu mới dậy : Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới Phục Sinh và họ cũng phải bị như thế. Chính vì muốn các ông chấp nhận điều khó hiểu và nghịch lý này nên mới có tiếng nói từ đám mây.

Điều mà Phêrô cũng như các bạn không chịu chấp nhận thì tiếng từ đám mây muốn giúp các ông nhận ra khi nói Đức Giêsu là Con Chí Ái của Thiên Chúa nên hãy nghe lời Người dạy. Sau này trong bài diễn từ của Phêrô ở Giêrusalem đã chỉ ra rằng : Khi Phục Sinh Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha đã bầy tỏ nơi Ngài là Moisen mới, một Tiên Tri mà người ta đợi trông cho thời cuối cùng (Cv.7,37). Sự bảo chứng ấy, Thiên Chúa đã ban cho ngay trong cuộc biến hình, bằng cách cho ba môn đệ biết rằng hôm nay Ngài là vị tiên tri, phải nghe lời Ngài, nếu không thì sẽ bị khai trừ khỏi dân của Ngài(Cv.3,23), ơn cứu độ tùy thuộc nơi Ngài. Đó là cuộc sống vĩnh cửu mà Ngài hứa ban cho bất cứ ai vác thánh giá đi theo Ngài.

Sứ điệp Tin Mừng :Con đường mà Thiên Chúa chọn cho người tôi tớ của Giavê, không phải là con đường quyền lực trần thế, mà là con đường khổ nhục của Thập Gía. Nếu biết theo con đường đó, Hội Thánh sẽ vào ánh quang vinh của Thiên Chúa.Sự biến hình của chúng ta bao gồm trong việc trở nên đồng hình đồng dâng với Đức Kitô, bằng việc hòan thiện không ngừng về đường thiêng liêng (IICor.3,18), và sau khi vượt qua cõi chết cùng với Đức Kitô, hồn xác ta sẽ được nên sáng láng

.Phải biết gặp gỡ Đức Kitô trong cái tầm thường của cuộc sống, chúng ta đang nhìn ngắm Đức Kitô trong vinh quang Thiên Quốc của Ngài, chúng ta sẽ gặp lại Ngài trong vinh quang ấy và ta sẽ được ở mãi mãi với Ngài. Trong khi chờ đợi hãy sống trong đức tin và trong sự vâng phục Ngài.Bạn nghĩ gì về sự hy sinh mà Chúa Giêsu dành cho bạn ? Điều đó gần gũi hay xa lạ đối với bạn ? Thông điệp mà Đức Giêsu muốn trao gửi cho bạn có khó hiểu và khó tiếp nhận không ? Tại sao ?

Lạy Chúa, việc biến hình của Chúa Kitô như bản nhạc giáo đầu của hạnh phúc bất diệt. Xin Chúa thương nâng đỡ đức tin, củng cố đức cậy và tăng triển đức mến để khi chúng con nhận ra rằng : muốn được vinh quang với Chúa phải qua đau khổ mới tới vinh quang, thì chúng con cũng sẵn sàng chấp nhận mọi đau thương thử thách và kiên tâm làm chứng tình yêu cho tòan thế giới.

 

  1. Biến hình là hiến mình – Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn

Sáu ngày sau khi Phêrô tuyên tín Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống và cũng sau khi ông bị khiển trách là Xatan vì khuyên can Thầy đừng đi vào con đường khổ nạn như Người đã tiên báo (x. 16, 13-23), Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, cho các ông diện kiến vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa đúng như Phêrô đã tuyên xưng trước đó. Với biến cố này, Chúa Giêsu muốn cho Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng như cho mỗi người tín hữu chiêm ngưỡng trước vinh quang mà Người sẽ lãnh nhận cách hoàn hảo sau cuộc Thương Khó.

Đem ba môn đệ đi theo mình, Chúa Giêsu không chỉ muốn các ông chứng kiến, chạm đến con người Thiên tính của Người; không chỉ muốn các ông nghe trực tiếp lời minh chứng của Chúa Cha về Người mà còn để củng cố niềm tin cho các ông nữa. Ba môn đệ là những người đầu tiên bước theo Chúa. Các ông là những cột trụ của Giáo hội sau này. Chính vì thế, biến cố hôm nay là một biến cố rất quan trọng cho đức tin của các ông mà Chúa Giêsu cách nào đó muốn tỏ hiện để củng cố niềm tin vốn còn yếu nơi con người các ông.

Ba môn đệ đã thấy gì? Tin mừng cho chúng ta biết các ông đã thấy dung nhan của Thầy mình “chói lọi như mặt trời” và y phục của Thầy thì “trắng tinh như ánh sáng”. Các tác giả thể văn khải huyền thường miêu tả sự sáng ngời của những người lành thánh bằng hình ảnh sáng chói như mặt trời. Cũng vậy, thánh sử Mátthêu đã diễn tả dung nhan và y phục rạng ngời của Chúa Giêsu tựa như ánh sáng mặt trời – một sự chói lọi vinh quang Thiên tính không thể diễn tả, nhằm giúp cho các môn đệ chiêm ngưỡng vẻ đẹp vinh quang rạng ngời của Chúa Giêsu.

Bên cạnh đó, cả ba môn đệ đều chứng kiến sự hiện diện của hai nhân vật vĩ đại trong Cựu ước là Môsê và Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu. Chiêm ngưỡng cảnh huy hoàng này khiến thánh phêrô phải thốt lên : “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay” và xin được dựng lều ngay lập tức để giữ mãi giây phút thiên đàng ấy. Không phải ngẫu nhiên mà Tin mừng Nhất lãm đều nói đến sự hiện diện của hai nhân vật trong Cựu ước là Môsê và Êlia.

Chúng ta biết, Môsê và Êlia là hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng như trong lịch sử dân Dothái. Môsê đại diện cho Lề luật dân Dothái. Thông qua ông, Giavê Thiên Chúa đã ban xuống cho dân Người những giới luật làm kim chỉ nam, hướng dẫn tinh thần cho dân tộc Dothái. Môsê chính là con người của Biển Đỏ, con người của núi Xinai và là con người của cuộc Xuất hành. Còn Êlia là một Ngôn sứ vĩ đại, ông đại diện các Ngôn sứ. Chính ông là người chịu nhiều đau khổ vì Giavê Thiên Chúa, vì dân tộc Israel để rồi sau đó được cất lên trong vinh quang.

Cả hai ông đều có kinh nghiệm tiếp xúc với Giavê Thiên Chúa và được chiêm ngưỡng vinh quang của Người trên núi Sinai và Khôrếp. Đặc biệt hơn, khi nhắc đến tên hai ông, Tin mừng Nhất lãm không chỉ chỉ nhắc đến những công trạng của các ông mà còn nhắc đến toàn bộ Kinh thánh Cựu ước mà hai ông đại diện. Mà Kinh thánh Cựu ước là gì nếu không phải là lời loan báo về một Đấng Mêsia chịu nhiều đau khổ để đạt đến vinh quang?

Các môn đệ còn được nghe tiếng nói phát xuất từ Chúa Cha xác nhận nhân thân của Thầy: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Chúng ta nghe rất quen câu nói này, bởi đã một lần được nhắc đến trên dòng sông Giođan khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đồng thời chúng ta cũng thấy lạ, bởi hôm nay Chúa Cha không chỉ tái khẳng định lời Người đã nói mà còn kéo thêm một lệnh truyền: hãy vâng nghe lời Người. Ngày xưa, dân Dothái được khuyên nhủ hãy vâng nghe lời Môsê và các ngôn sứ là những người thay mặt Giavê Thiên Chúa đến lãnh đạo họ. Ngày nay, Chúa Giêsu chính là Môsê mới và chính Chúa Cha nhắc nhớ các môn đệ cũng như cho tất cả chúng ta hãy vâng nghe lời Người, mời gọi các ông biết đón nhận những biến cố trong cuộc Khổ nạn – Phục sinh của Thầy để có thể trở nên những chứng nhân đích thực.

Mùa Chay chỉ thực sự có ý nghĩa khi mỗi người chúng ta để cho Chúa biến đổi đời sống mình. Biến hình là hiến mình. Chúa biến hình nhằm giúp chúng ta ý thức rằng vinh quang mà Chúa tỏ hiện hôm nay sẽ trở nên trọn vẹn khi Người chấp nhận cuộc Khổ nạn, chấp nhận thập giá để cứu rỗi nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi biến đổi khi biết chấp nhận một cuộc thanh tẩy tâm hồn, tránh xa những cạm bẫy tội lỗi, những tư lợi nhỏ nhen ích kỷ hầu có thể đón nhận ơn thánh Chúa.

 

  1. Theo Chúa lên núi tâm linh để được biến hình

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

Đứng trước viễn tượng của cuộc khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đem ba tông đồ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi để biểu lổ cho các ông thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Mặc dầu đã theo Chúa ba năm, nghe lời Chúa giảng dạy, chứng kiến phép lạ Chúa làm, các tông đồ vẫn còn mang quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế và sứ mạng của Người. Các ông vẫn nuôi hi vọng Đấng Cứu thế sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, giàu có và hùng mạnh, khả dĩ có thể đánh đuổi quân ngoại bang là người La mã đang cai trị họ thời bấy giờ. Ba vị tông đồ được đưa lên núi biểu lộ những lợi điểm đặc sắc về việc làm môn đệ. Phêrô, mặc dầu nóng tính, lại ăn nói bộp chộp, nhưng với khả năng lãnh đạo có thể qui tụ các bạn đồng chí hướng. Giacôbê có lòng tin quả quyết. Còn Gioan biểu lộ lòng yêu mến nhiệt thành. Tuy nhiên ba vị tông đồ trên đây cũng sẽ chứng kiến cảnh khổ nạn của Thầy mình trong vườn cây dầu Ghếtsêmani. Sợ rằng cảnh khổ nạn và thập giá sẻ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, Chúa đem ba ông lên núi biến hình, cho dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng như ánh sáng (Mt 17:2). Việc Chúa biến hình có mục đích là giúp củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ trước viễn tượng của ngày Thứ sáu Chịu nạn.

Phản ứng của các tông đồ về việc Chúa biến hình đáng cho ta lưu ý đặc biệt. Thoạt tiên, các ông tỏ ra say mê và chìm đắm trong cảnh vinh quang của nước Chúa, muốn kéo dài thị kiến cảnh biến hình, nên mới thỉnh nguyện: Thưa Thày, chúng con mà được ở đây thì tuyệt vời (Mt 17:4). Các ông cũng thấy sự hiện diện của Môsê và Êlia trong cảnh biến hình. Rồi các ông nghe tiếng phán từ đám mây: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 17:5). Trong Cựu ước, đám mây thường là biểu hiệu của việc Chúa hiện ra. Điều nên lưu ý ở đây là tiếng phán từ đám mây khi Chúa biến hình cũng chính là tiếng phán từ trời khi Người chịu Phép rửa (Mt 3:17). Như vậy tiếng phán từ đám mây chỉ cho bộ ba tông đồ thấy rằng Thầy mình chính là người Con làm đẹp lòng Thiên Chúa trong việc thi hành thánh ý Chúa Cha. Vậy còn sự hiện diện của Môsê và Êlia trong cảnh biến hình thì sao? Theo truyền thống Do thái, Môsê được coi là tác giả qui tụ của bộ Ngũ Thư và Êlia, vị ngôn sứ vĩ đại của Cựu ước. Do đó sự có mặt của hai vị nhằm giúp các tông đồ nhận thức rằng đạo Kitô giáo mà Thày mình sẽ thiết lập không tách rời khỏi những gì đã được mạc khải trong Thánh kinh Cựu ước.

Vậy ba thực tại của cảnh biến hình: dung mạo vinh quang của Đức Kitô, sự hiện diện của Môsê và Êlia và tiếng phán từ đám mây có ngụ ý giúp các tông đồ nhận ra cuộc khổ hình và thập giá của Thày mình sau này, không phải chỉ là một thất bại, nhưng là một biến đổi, và như thế sẽ giúp các ông giữ vững đức tin theo Thày. Có một lần ông Phêrô đã tỏ ra hèn nhát, khước từ mọi liên hệ với Thầy mình. Ông vừa tuốt gươm chém đứt tai tên đày tớ của thày cả thượng phẩm hầu bảo vệ Thầy mình. Thế mà trong sân và cổng dinh thượng tế, ông sợ hãi chối Thày mình ba lần. Khi vừa nghe tiếng gà gáy, sực nhớ lại lời Chúa tiên báo, ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Mt 26:75). Những giọt nước mắt của ông tuôn trào dường như ông đang tự trách mình: Lạy Thày, sao con có thể phản phúc Thày như vậy khi chính con là người đã xin làm ba lều ở lại trên núi để chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của nước Thày? Phúc thay cho ông Phêrô! Dòng nước mắt thống hối của ông đã được Chúa đoái thương tha thứ.

Người tín hữu đang bước vào tuần lễ thứ hai mùa chay. Mùa chay là thời giờ cho người tín hữu luyện linh chưởng để đi theo Chúa lên núi tâm linh hầu được Chúa cho biến hình trong phạm vi nhỏ bé nào đó. Để có thể đứng vững khi gặp gian nan thử thách, người tín hữu cần có được những cảm nghiệm về những giờ phút giao cảm giữa Thiên Chúa và tâm hồn. Các tông đồ cảm thấy say mê và chìm đắm trong cảnh vinh quang của nước Chúa, thì ít ra, người tín hữu cần xin Chúa cho đánh động tâm hồn, hay xin được điều mà sách tu đức thần bí gọi là hiện tượng xuất thần hay bay bổng. Dự một buổi tĩnh tâm sốt sắng; chứng kiến những gương nhân đức thánh thiện; nghe đọc những tư tưởng cao đẹp, khiến ta nhiệt tâm trước tiếng gọi nên thánh. Sau khi nghe một bài giảng hùng hồn sốt sắng, khiến lòng rạo rực, lửa yêu mến Chúa bừng cháy trong tâm hồn, thôi thúc loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn để làm lại cuộc đời. Những khi cảm thấy tâm hồn an vui thanh thoát sau khi đã làm những việc thiện hảo, ta muốn hiến thân phụng sự và phục vụ. Trước những gương hi sinh, bác ái, ta ao ước muốn dấn thân theo Thầy chí thánh để làm việc tông đồ, giúp đỡ người nghèo đói, tàn tật và đau khổ. Khi gặp sóng to bão lớn ngoài biển cả, nguy hiểm đến tính mạng, không còn gì để bám víu, ta kêu cầu đến Chúa: Nếu Chúa để con sống, cập bờ ghé bến, con sẽ trung thành phụng sự Chúa suốt đời con.

Thật là một điều ủi an, khi ta mang trong thân xác những yếu hèn, bệnh tật và bản tính chết được, lại có ngày được chung hưởng vinh quang nước trời. Thánh Phêrô trong lúc xuất thần đã xin Chúa ở lại trên núi, để chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của nước Chúa. Nhưng Chúa bảo ông còn phải xuống núi đã để làm chứng cho đức tin vào Chúa, để chịu bách hại, xỉ nhục và khổ hình vì danh Chúa trước khi được hưởng vinh quang. Đó là đường lối Chúa đã đi: qua đau khổ thánh giá mới tới vinh quang phục sinh. Là môn đệ Chúa, sao ta có thể đi theo con đường khác ngoài đường Chúa đã đi.

 

  1. Con Yêu Dấu của Ta – Lm Augustine

Khởi sự Tin Mừng Mátthêu nhìn nhận Đức Giêsu là Con Vua Đavít (1,6-16). Tên của Người là Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu” (1,21) Nhưng người ta còn gọi Người là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23). Chính Người năng tự xưng là Con Người (11,19; 12,8-)

Mầu nhiệm Đức Kitô phải đánh động ta

Riêng các môn đệ khi được yêu cầu phát biểu ý kiến, đã tuyên xưng “Thầy là Đấng được Xức Dầu Tấn Phong, Con Thiên Chúa hằng sống” (16,16). Điều quan trọng là lời ông Phêrô mới tuyên xưng được chính Đức Giêsu xác nhận là do Thiên Chúa Cha mạc khải (16,17)

Tiếp theo liền sau đó, Đức Giêsu tiên báo về cuộc Thương Khó lần thứ nhất. Rồi Người nêu điều kiện cho những ai muốn bước theo Người, là họ phải từ bỏ chính mình, phải vác thập giá mình mà theo Người (16,24). Kế đến Đức Giêsu tiên báo “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (16,27). Chính Người liền sau đó, đã lên núi và biến đổi hình dạng như được kể trong bài Tin Mừng hôm nay (17,1-9)

Như vậy, điều được hàm ý là không ngôn ngữ loài người nào có thể nói cho ta biết Đức Giêsu là ai nếu không có sự can thiệp từ trời cao.

Với môn đệ Simon Phêrô, sự can thiệp của Thiên Chúa đã đến với ông qua lời giới thiệu của ông Gioan Tẩy Giả với hai môn đệ của ông này trong đó có người anh ruột của Simon Phêrô, là Anrê. Và ông Anrê này đến lượt đã giới thiệu cho em mình khi nói “Chúng tôi đã gặp Đấng được Xức Dầu Tấn Phong” (Ga 1,41). Tin Mừng Gioan còn cho biết chính việc Đức Giêsu biến nước lã thành rượu ngon tại Cana khiến các môn đệ tin vào Đức Giêsu (Ga 2,11)

Một cách nổi bật, quyền năng của Thiên Chúa còn đụng chạm tới ông Simon Phêrô cách riêng, khi Đức Giêsu chiếu cố đến nhà ông và đụng vào tay bà mẹ vợ của ông, để cho bà ta đang nằm liệt, được chỗi dậy khỏi cơn sốt (8,14)

Tin Mừng Mátthêu còn cho thấy quyền năng của Đức Giêsu không những cứu các môn đệ khỏi chết giữa biển động (8,25) mà còn đặc biệt cứu Phêrô khi ông bắt đầu chìm nên kêu xin Đức Giêsu cứu ông (14,30)

Nhưng tất cả những trường hợp nói trên cũng chỉ giúp Phêrô nhận ra sự bé nhỏ của mình trước mầu nhiệm vô song của Thiên Chúa hiện diện nơi Đức Giêsu. Phêrô sẽ chẳng bao giờ thấu hiểu được mầu nhiệm đó, mà chỉ được ban cho ơn hiểu biết từng chút một về bản thân Đức Giêsu và về chương trình cứu độ Ngài đến để thực hiện. Do đó đă xảy ra tình trạng tiền hậu bất nhất nơi Phêrô. Ông được Thiên Chúa Cha mạc khải cho biết Đức Giêsu là ai; hơn nữa Đức Giêsu còn chúc phúc cho ông và gọi ông bằng danh xưng Phêrô do Ngài ban tặng, để ông trở nên Tảng Đá, trên đó Ngài sẽ xây Hội Thánh của Ngài (16,18). Thế mà khi Đức Giêsu tiết lộ chương trình Chúa Cha giao phó cho Ngài là lên Giêrusalem lãnh lấy nỗi chết, để rồi sẽ sống lại, thì Phêrô đã kháng cự lại chương trình đó và đã bị quở trách nặng lời (16,23)

Vấn đề không phải chỉ là Đức Giêsu thực hiện chương trình đó, mà cả Phêrô cũng phải đặt mình để Ngài lãnh đạo theo chương trình đó.

Thực ra, không riêng Phêrô, mà tất cả những ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu đều không có con đường nào khác ngoài con đường vác thập giá mình mà theo Ngài (16,24). Bởi lẽ trò không trọng hơn Thầy, nếu “Đức Giêsu đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (x. 8,17), thì làm sao ta có quyền từ khước vác lấy cây thập giá Ngài dành cho ta để ta theo Ngài?

Nhưng đường thánh giá theo chân Đức Giêsu là đường đưa ta tới vinh quang vì “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc họ làm.” (16,27)

Lời khẳng định tiếp theo của Đức Giêsu khi nói: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người hiển trị” (16,28), lời khẳng định ấy cho thấy Nước Thiên Chúa không xa. Nước ấy gắn liền với bản thân Đức Giêsu, Đấng hy sinh chịu đau khổ và chịu chết, nhưng đến ngày thứ ba sẽ sống lại.

Mầu nhiệm ấy phải lôi cuốn ta

Vậy biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng (17,1-9) là để giúp các môn đệ thấy rõ hơn Ngài là ai theo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ta được đặt đối diện với vực thẳm của mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu – mầu nhiệm ấy phải đánh động ta, lôi cuốn ta, khiến ta say mê! Nhưng chìa khoá để mở cho ta thấy mầu nhiệm lại do chính Đức Giêsu nắm giữ! Một câu chuyện nhỏ có thể giúp ta nhận ra vấn đề vừa nêu.

Tác giả cuốn “Bảy Thói Quen của Những Người Thành Đạt” (The Seven Habits of Highly Effective People. Fireside. New York 1989) là ông Trần Cao Vọng (Stephen R. Covey).

Sáng Chúa Nhật hôm ấy, ông Vọng bước vào toa xe điện ngầm ở Nữu Ước. Ông đặt mình vào bầu khí yên lặng, trong đó người thì đọc báo, người trầm ngâm suy nghĩ, người trầm ngâm suy nghĩ, người lim dim ngủ. Thật là một cảnh an bình.

Bỗng một người đàn ông và các con ông bước vào toa tầu. Bọn trẻ ồn ào, khó bảo, làm cho không khí trong toa tầu thay đổi hẳn.

Ông Vọng kể lại: “Người đàn ông ngồi xuống cạnh tôi, nhắm mắt, hình như không chú ý đến những gì đang xảy ra. Bọn trẻ la hét, ném đồ vật, vồ cả mấy tờ báo của người khác. Chúng quấy phá quá sức, nhưng người đàn ông ngồi cạnh tôi vẫn không làm gì.

Thật khó mà không nổi cáu. Tôi không thể tin rằng ông ta vô tâm đến thế, để cho bọn trẻ chạy loạn lên mà không làm gì cả, choi như không có trách nhiệm. Dễ nhìn thấy những người khác trong toa cũng đều nổi giận. Sau cùng, không thể chịu đựng được nữa, tôi quay sang ông ta và nói: “Thưa ông, bọn trẻ nhà ông quấy đảo quá, ông không bảo chúng được một câu hay sao?”

Người đàn ông ngước mắt như lần đầu tiên biết được tình hình này và nhẹ nhàng nói: “Vâng, thưa ông, ông nói phải. Tôi nghĩ rằng tôi phải làm một cái gì. Vâng, chúng tôi vừa ở bệnh viện ra, mẹ các cháu vừa mất cách đây khoảng một giờ. Tôi không biết nghĩ như thế nào. Tôi cho rằng chúng cũng không biết xử trí ra sao.”

Ông Vọng nói tiếp: “Bỗng tôi nhìn sự vật một cách khác và bởi vì tôi nhìn khác nên tôi cũng nghĩ khác, cảm thấy khác, hành động khác. Cơn giận của tôi biến mất. Tôi không phải lo kiểm soát thái độ hay hành vi của tôi; con tim tôi tràn đầy nỗi đau của người đàn ông ấy. Một thiện cảm và lòng thương dâng lên trong tôi: “Vợ ông mới mất ư? Ồ, xin lỗi! Ông có thể cho tôi biết chuyện được không? Tôi giúp gì được ông đây?” Mọi cái đã thay đổi trong chốc lát.” (ibd., trang 30-31)

Mầu nhiệm phải khiến ta say mê

Cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giêsu là một thị kiến như chính Ngài cho biết (Mt 17,9). Thị kiến ấy mang lại một nhận thức hoàn toàn mới về nhân vật chính trong thị kiến là Đức Giêsu. Trước đó, Ngài chỉ là một người giữa muôn người, lại là người Nadarét nên dễ bị coi thường (x.Ga 1,46). Sau thị kiến, con người ấy còn gặp phải biết bao nỗi gian truân. Ngài bị phản bội, bị bắt, bị vu khống và cuối cùng bị giết chết trơ trụi trên thập giá. Cả sau khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết, không phải thế giới ùn ùn kéo đến để chấp nhận quyền lãnh đạo của Ngài. Nhưng điều quan trọng là từng người phải được hoán cải do nhận thức hoàn toàn mới về con người Giêsu làng Nadarét. Nhận thức ấy do ơn đức tin có thể được tóm tắt như sau:

+ Dung nhan chói lọi gợi ý cho thấy Đức Giêsu là Môsê mới đến để kiện toàn Lề Luật cho dân mới của Thiên Chúa (Mt 5,17).

+ Hai nhân vật Môsê và Êlia đàm đạo (Mt 17,3) về điều mà Luca gọi là “Cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9, 31) vì chính Ngài cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21). Điều này phải làm cho người có nhận thức mới trào dâng một lòng thống hối và tri ân – Khác với ông Vọng chỉ tỏ thiện cảm và lòng thương mà thôi.

+ “Đây là Con yêu dấu của Ta – Hãy vâng nghe lời Người” (17,5). Tùy ở mức lắng nghe Thần Khí của Đức Giêsu nói, ta mới hiểu sâu hơn được về mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và mới được hoán cải để sống hợp với nhận thức mới.

home Mục lục Lưu trữ