Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 42
Tổng truy cập: 1364503
MỨC ĐỘ CỦA ĐỜI SỐNG NHƯ LÀ GIÁ TRỊ LỚN NHẤT
MỨC ĐỘ CỦA ĐỜI SỐNG NHƯ LÀ GIÁ TRỊ LỚN NHẤT
Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn Ông phú hộ.
1.- NgỮ cẢnh
Những lời Đức Giêsu ngỏ với các môn đệ trước mặt một đám đông (12,1-12.22-34) bị cắt ngang bởi lời thỉnh cầu của một người trong đám đông để xin Đức Giêsu can thiệp vào một vụ tranh tụng giữa anh ta và người anh liên hệ đến chuyện gia tài (12,13-15). Sự cố này lại là dịp để Đức Giêsu kể Dụ ngôn Ông phú hộ (cc. 16-21). Như thế, đề tài chuyển đi từ những lời nói về việc thụ hưởng cho bản thân đến những thái độ đối với của cải trần thế (12,13-34): “Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (c. 15). Bài dụ ngôn tiếp theo có thể được coi như một bài bình luận cho câu nói của Đức Giêsu về sự tham lam (c. 15).
2.- BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Một vụ kiện (12,13-15);
2) Dụ ngôn Ông phú hộ (12,16-20);
3) Nhận định kết luận của Đức Giêsu (12,21).
3.- Vài điỂm chú giẢi
- Thưa Thầy (13): Bởi vì vấn đề chia gia tài được bàn đến trong Bộ Ngũ Thư (chẳng hạn Đnl 21,15-17; Ds 27,1-11; 36,7-9), một vị tôn sư về đạo giáo hoặc một kinh sư là những con người thích hợp để tham vấn.
- Này anh (14): Dịch sát là “này người” (hô-cách của anthrôpos, “người”; x. 5,20). Từ này thường được dùng theo dạng này để từ chối, hay diễn tả sự dè dặt.
- tham lam (15): Từ Hy-lạp pleonexia thường có trong những đoạn văn khuyến thiện của Tân Ước (Rm 1,29; 2 Cr 9,5; Cl 3,5; Ep 4,19; 5,3; 2 Pr 2,3.14). Đây là sự ham muốn có thêm nữa, quá mức cần thiết (x. 1 Tm 6,10).
- Thiên Chúa bảo ông ta (20): nghĩa là trong một giấc mơ ban đêm. Ông này được chính vị Chúa tể của sự sống ngỏ lời với, trong khi ông sắp xếp chương trình sống không có Ngài.
- ngốc (20): Từ hy-ngữ aphrôn có nghĩa là “kẻ mất trí, ngu dốt, ngu ngốc, điên, rồ dại” (x. 11,40).
- người ta sẽ đòi lại mạng ngươi (20): Động từ aitousin ở ngôi thứ ba vô định số phức tương đương với một thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa sẽ đòi lại mạng ngươi”.
- cho mình (21): nghĩa là không phải cho người khác, như người nghèo, quả phụ, trẻ mồ côi, người ngụ cư (x. Đnl 24,17-22; 2 Cr 6,10b).
4.- Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Một vụ kiện (13-15)
Đức Giêsu lấy khởi điểm để giáo huấn là một vụ kiện về vấn đề chia gia tài. Rất có thể đây là một người em trong gia đình không đồng ý với cách quản lý và thụ hưởng chung gia tài, nên muốn có phần của mình để dùng theo cách độc lập. Trong những vụ tranh cãi như thế, người ta thường đến gặp các kinh sư, để xin soi sáng vấn đề. Đức Giêsu dứt khoát từ chối can thiệp. Yêu cầu của người ấy và yêu cầu của Đức Giêsu ở trên hai bình diện khác nhau. Người ấy thì muốn có một phần sở hữu độc lập. Đức Giêsu thì dựa vào đó để nói về tương quan của con người với của cải. Chính các tranh chấp về gia tài thường đưa ra ánh sáng một liên hệ chặt chẽ với sở hữu và thường đưa đến những mối thù nghịch kéo dài suốt đời. Điều này có lẽ khiến chúng ta hiểu vì sao ở đây Đức Giêsu khuyến cáo chống lại lòng tham lam mạnh mẽ đến thế. Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn tiếp theo.
* Dụ ngôn Ông phú hộ (16-21)
Với dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng giá trị của các của cải trần thế rất nhỏ bé, nên bám víu vào đó là một tính toán sai lầm.
Theo một quan niệm nào đó về cuộc sống, hoàn cảnh Đức Giêsu phác ra có thể coi là lý tưởng. Con người này giàu có. Không hề có nguy cơ là của cải của ông sẽ giảm thiểu đi, bởi vì ông đang nhắm tới một vụ thu hoạch dồi dào. Vấn đề duy nhất ông đặt ra là: “‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!”. Đây là một vấn đề cũng dễ giải quyết. Như thế, ông này có trong tay các phương tiện để sống một cuộc sống không phải bận tâm lo lắng; ông có thể tự do sống theo ý thích, trong sự sung túc.
Đức Giêsu mô tả là Thiên Chúa và cái chết sẽ ập vào cuộc đời ấy như thế nào. Cái chết đột ngột đảo lộn tất cả các toan tính nhắm thụ hưởng an toàn trong nhiều năm trời. Tất cả những gì đã thu tích được và tất cả những gì người ta đã dự phóng cách hợp lý trở thành vô giá trị. Đức Giêsu cho biết rằng một cuộc sống chỉ dành cho chuyện ăn uống và hưởng thụ tiện ích thì chẳng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Một người sống như thế thì không giàu có trước mặt Thiên Chúa. Đức Giêsu khẳng định rằng để đạt được sự sống đời đời, cần có tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận (10,25-37). Chỉ nhờ đi trên nẻo đường này, người ta mới trở thành giàu có trước nhan Thiên Chúa.
* Nhận định kết luận của Đức Giêsu (21)
Câu kết luận của Đức Giêsu cho hiểu rằng có lẽ đời sống trần thế tùy thuộc các của cải trần thế, nhưng đời sống này không được đảm bảo hay đạt được mức thành toàn nhờ các của cải ấy. Chúng ta phải nhận được sự thành toàn cuộc đời chúng ta từ lòng nhân lành của Thiên Chúa.
+ KẾt luẬn
Đức Giêsu không quan tâm đến những điểm tranh luận phụ thuộc; Người chỉ cứu xét những câu hỏi lớn liên quan đến sự sống: đâu là điều quan trọng nhất? Ta có thể tín nhiệm vào điều gì? Điều gì ta phải tìm cách đạt cho được? Ta phải sử dụng cuộc sống và dấn thân thế nào để đạt được mục tiêu cuộc đời? Đức Giêsu nói rõ ràng các của cải vật chất không thể đảm bảo cho cuộc sống và sự sung túc, thoải mái, không thể là nội dung của cuộc sống được. Sự thành toàn chỉ được một mình Thiên Chúa ban cho mà thôi. Vậy trong cuộc sống này, chúng ta có thể và phải tính sổ với Thiên Chúa. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình trước mặt Ngài.
5.- GỢi ý suy niỆm
1. Vấn đề thu hoạch dồi dào đến nỗi người ta không biết để của cải ở đâu đã trở thành phổ biến, vào thời đại hôm nay. Mỗi người cần phải tự hỏi theo ý mình, thế nào là cuộc sống lý tưởng, mình vận dụng sức lực cho chuyẹn gì, nếu lại không phải là “mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Ở bên ngoài các giá trị này, còn những giá trị và mục tiêu nào có thể nên được nhắc đến?
2. Cái chết “phá rối”, ai cũng biết. Người ta tìm mọi cách để đối xử với nó. Người ta cản bước nó tối đa bằng các cách tri liệu y khoa. Người ta ít nghĩ tới nó chừng nào tốt chừng đó. Người ta tránh để cho lòng mình bị xúc động trước cái chết của người khác. Dĩ nhiên người ta vẫn không tránh được cái chết. Do đó, người ta phải khai thác tối đa thời gian của cuộc sống được ban cho ta. Cũng phức tạp, nhưng cách nào đó, người ta có thể “đạt thắng lợi” trên cái chết. Nhưng làm thế nào đạt thắng lợi trên vị Thiên Chúa “phá rối”? Người ta cũng tìm cách tránh xa Ngài, quên Ngài đi. Người ta có thể không nói đến Ngài nữa và sống y như thể không có Ngài. Tuy thế, người ta không thể tránh né Ngài kiểu tiêu cực. Phải sống làm sao để cuộc sống của mình có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người nào chỉ sống cho những nhu cầu riêng và những đòi hỏi vật chất, thì đã chết trong cuộc đời này rồi, vì bị cô lập trong tính ích kỷ của mình. Tình trạng cô lập này trở nên trọn vẹn và được xác nhận bằng cái chết.
3. Cuộc sống viên mãn chỉ hệ tại tình yêu. Chỉ cuộc sống nào nhắm đến tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân thì mới là cuộc sống trung thực. Chỉ một cuộc sống như thế mới có thể được Thiên Chúa chuẩn nhận và được Ngài đưa đến chỗ thành toàn với ân ban là sự sống đời đời. Chúng ta đã nhận đời sống từ Đấng Tạo hóa, thì chúng ta cũng phải nhận cả ý nghĩa của đời sống từ Ngài. Và đối với Ngài, ý nghĩa của đời sống không phải là tiện nghi, mà là tình yêu.
69.Sự giàu có đích thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Phụng vụ Chúa nhật XVIII hôm nay mời gọi mọi người suy gẫm nghiêm túc về ý nghĩa cuộc đời mình. Một bài học về sự khôn ngoan. Mối bận tâm thiết thân nhất của phần lớn con người hôm nay là gì? Phải chăng đó chính là làm sao sở hữu được thật nhiều của cải vật chất, càng sung túc, càng giàu có càng tốt đẹp? Nhiều người cho rằng của cải vật chất sung túc sẽ bảo đảm cho mình trước những bất trắc của cuộc sống. Thật là điều ảo tưởng! Ngu dốt! Chúa Giêsu đã khẳng định như thế: "Hỡi kẻ ngu dại! Đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?"
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra sức hướng hành động, thái độ, những đau khổ và niềm vui của cuộc đời mình theo ánh sáng Tin mừng. Đấy chính là sự khôn ngoan ở đời này. Chính sự khôn ngoan này mới mang lại điều thiện hảo và sự giàu có cao quí đích thực.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Tin mừng Lc 12,13-21
Mối hiểm nguy của sự giàu có vật chất
Dù rất giàu có, cuộc sống con người không tùy thuộc vào của cải. Thật là điên rồ nếu ai đó cho rằng của cải thế gian là một bảo đảm cho sự sống.
Của cải trần gian không thể kéo dài cuộc sống dù chỉ trong chốc lát khi mà hạn định của Thiên Chúa đã đến. Và cũng thật điên rồ nếu như chỉ biết thu tích của cải để hưởng thụ một mình vì khi chết đi nó sẽ xa lìa con người vĩnh viễn. Những gì cần tích lũy chính là tài sản của Thiên quốc, nơi bảo đảm hạnh phúc và sự sống đích thực. Tích trữ bằng đời sống hiện tại biết mến Chúa và quảng đại cho đi của cải chúng ta sở hữu tại trần thế này.
a. Chúa Giêsu từ chối làm quan án cho người đến xin Ngài chia gia tài. Việc Chúa Giêsu từ chối không phải vì Ngài chấp nhận sự bất công hay bóc lột. Nhưng Ngài muốn con người phải cảnh giác trước những hiểm họa của tiền bạc, của sự giàu có. "Chẳng phải sự sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm đâu". Chúa Giêsu không đến để lên án, nhưng để con người tự lên án, tự xét xử, để rồi mỗi người khám phá ra sự lầm lạc, tội lỗi của mình mà thay đổi.
b. Qua dụ ngôn người phú hộ ngu dại, Chúa Giêsu đã vạch ra cho thấy hiểm họa của việc tích trữ, hưởng thụ của cải vật chất đời này mà quên đi việc tích trữ của cải đời sau. Điều đó thật là "đồ ngốc"! Cựu ước dùng từ "Ngốc" để chỉ người chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa (x. Tv 13,10: người ngốc nói trong lòng rằng không có Thiên Chúa). Người phú hộ này được coi là ngốc vì đã quên mất Thiên Chúa, chỉ nghĩ đến sự giàu có và của cải thế gian.
c. "Làm giàu trước mặt Thiên Chúa": Kết luận của dụ ngôn cho thấy rõ ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng ban phát hạnh phúc và của cải cũng như mọi ân phúc khác cho con người. Con người có hay không là tùy thuộc vào Người. Do đó, đừng thu tích của cải trần thế mà hãy phó thác tất cả cuộc sống này cho Thiên Chúa. Bản thân hãy lo sống đúng Lời Chúa. Làm giàu trước mặt Chúa chính là những việc lành phúc đức, là tình bác ái, là sự chia sẻ của cải cho anh chị em nghèo khổ chung quanh. Ở đời này biết cho đi là biết làm giàu trước mặt Chúa.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Lòng tham của con người, nguồn gốc sự ngu dại tâm linh:
Khi từ chối làm quan án xét xử việc phân chia gia tài, Chúa Giêsu khẳng định: hãy giữ mình tránh khỏi mọi thứ tham lam. Chẳng phải sung túc mà đời sống được bảo đảm đâu. Chính bởi lòng tham mà có sự chia rẽ, nếu hai anh em kia thực lòng thương yêu nhau, không tham lam của cải thì đâu đến nỗi phải tranh giành, nhờ đến người khác phân xử. Nếu con tim được giải thoát khỏi lòng tham thì đâu cần đến luật pháp xét xử, đâu có sự cãi vã tranh giành… Cuộc sống thực tế hôm nay nhiều gia đình ly tán, con cái bất hiếu từ bỏ cha mẹ, anh chị em chia rẽ bất hòa chỉ vì lòng tham một vài tấc đất, một ít gia tài của mẹ cha. Chính lòng tham là nguyên nhân đưa đến sự mê muội trong đời sống tâm linh, khiến cho con người không còn khả năng nhận định đâu là điều bảo đảm cho cuộc sống của mình, mà chỉ đơn giản cho rằng chính của cải vật chất là bảo đảm tốt nhất, cần thiết nhất mà thôi. Của cải tiền bạc không phải là thứ vững bền, không thể bảo đảm cho cụôc sống được, vì chính khi đã chết rồi thì của cải còn lại nghĩa lý gì.
Tất cả là hư không mà thôi.
Kitô hữu chúng ta phải triệt để loại bỏ khỏi mình lòng tham của cải, tập sống bác ái quảng đại. Làm sao để lòng mình siêu thoát khỏi những cuốn hút của tiền tài vật chất. Đây là một nỗ lực rèn luyện nhân cách, nhân đức liên lỉ. Cần phải cầu nguyện, phải thực thi Lời Chúa, sống tình bác ái với nhau mới có thể cho đi, thay vì tìm mọi cách thu vén cho cá nhân mình.
2. Sự khôn ngoan và ngu dại trước mặt Thiên Chúa:
Sống ở đời người ta thường nói: "Có thực mới vực được đạo". Làm gì thì làm, chắc cái bụng đã. Đây chính là kinh nghiệm đúc kết từ thực tế cuộc sống của bao đời người. Điều này tất nhiên đúng và có giá trị. Tuy nhiên, chuyện gì cũng có mặt trái của nó. Chỉ hoàn toàn chú tâm đến chuyện tiền bạc vật chất, để nó chi phối toàn bộ cuộc sống thì xem ra lại là sự dại khờ. Tiền bạc không thể kéo dài sự sống cho dù nhờ có tiền, con người có thể thụ hưởng những phương tiện chăm sóc sức khỏe tốt nhất. Vì tới giờ Chúa gọi rồi thì làm sao trì hoãn được. Tiền bạc có thể giúp con người chúng ta có được mọi tiện nghi, có được nhiều thứ cần thiết cho cuộc sống, cho gia đình nhưng xem ra lại bất lực trong việc kiến tạo hạnh phúc, là điều chỉ có nhờ Thiên Chúa và tình yêu. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã cho rằng người phú hộ trong dụ ngôn là ngu dại. Cứ lo tích trữ của cải để hưởng thụ và tự mãn về tài sản của mình quên đi việc chăm sóc cho đời sống tâm linh, quên đi việc thực thi Lời Chúa để rồi khi Thiên Chúa đòi mạng sống thì tất cả đều sụp đổ. Tiền bạc vật chất tự nó không xấu cũng không tốt, nó chỉ là phương tiện mà thôi. Nếu không biết khôn ngoan sử dụng thì sẽ trở nên nô lệ cho nó, đó chính là sự khờ dại. Sống chỉ biết hưởng thụ vật chất đời này mà không biết lo liệu cho cuộc sống mai sau thì còn là điều dại khờ hơn nữa. Cho nên, cần phải khôn ngoan nghĩa là biết dùng của cải theo ý Chúa. Biết sống vì mục đích tối thượng là hạnh phúc, sự sống nơi Thiên Chúa.
Đứng trước sự hấp dẫn của tiền tài vật chất, con người rất dễ bị sa ngã. Không chỉ vì đời sống kinh tế khó khăn mà chính vì lòng tham, sự ích kỷ làm cho chúng ta trở nên mê muội và sa ngã vào hấp lực của đồng tiền. Lời Chúa hôm nay mời gọi Kitô hữu hãy có thái độ khôn ngoan, biết sử dụng đồng tiền để mưu cầu hạnh phúc cho mình và tha nhân. Hãy khôn ngoan lo liệu cho cuộc sống mai hậu của mình.
3. Tìm kiếm và tích trữ kho tàng Nước Trời ngay từ cuộc sống trần gian:
Kết thúc dụ ngôn người phú hộ khờ dại, Chúa Giêsu kết luận tích trữ của cải mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa là ngu dại và chả được tích sự gì. Vì khi chết, của cải cả đời tích lũy phải để lại cho người khác còn bản thân lại chẳng được gì. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là một thái độ sống ngược hẳn với sự làm giàu theo nghĩa thế gian. Làm giàu là làm sao cho mình có thật nhiều của cải, là sự thu tích. Còn làm giàu trước mặt Chúa là một sự cho đi, quảng đại chia sẻ của cải tiền bạc của mình cho anh chị em nghèo khổ chung quanh. Những gì mình có thể tích lũy nơi kho tàng Nước Trời chính là những gì mình quảng đại cho đi trong cuộc sống thế trần này. Ở đời này càng biết cho đi thì đời sau càng tích trữ nhiều. Gắn bó chặt chẽ với tiền tài của cải ở đời này nhưng khi nhắm mắt ra đi thì nó sẽ ở lại và xa lìa mình vĩnh viễn ; người nào yêu thương gắn bó mật thiết với mình nhất thì cũng chỉ đi theo mình tới nấm mồ. Chỉ có nhân đức và lòng bác ái sẽ theo mình mãi tới cuộc sống nơi Thiên Chúa. Đây mới chính là của cải đích thực mà mỗi Kitô hữu cần phải tích trữ và làm giàu.
Trong thực tế xã hội hôm nay, khi mà sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng mạnh mẽ ; khi mà đồng tiền đang lên ngôi ngự trị trong mọi lãnh vực của cuộc sống thì việc làm giàu trước mặt Thiên Chúa đối với Kitô hữu quả là một thách đố lớn lao. Mỗi người cần phải tin tưởng, phó thác và thực lòng yêu mến Chúa mới có khả năng làm giàu được. Hãy nhìn lại mình xem hôm nay tôi đang làm giàu trước mặt Chúa như thế nào?
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ân phúc và sẽ làm no thỏa mọi khát vọng của nhân loại chúng ta. Trong niềm tin tưởng, chúng ta cùng dâng lên lời nguyện xin.
1. Giáo hội được Chúa Giêsu thiết lập với ước muốn vì người nghèo và là một Giáo hội nghèo khó. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo hội luôn biết quảng đại chia sẻ cuộc sống với những người nghèo khổ trên toàn thế giới.
2. Ngày nay lối sống hưởng thụ ích kỷ đã và đang làm băng hoại xã hội, làm cho nhiều người nhà tan cửa nát, nhiều người phải lâm vào cảnh đói khổ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, nhất là các vị lãnh đạo quốc gia biết đồng tâm hiệp lực xây dựng một nếp sống công bằng bác ái trong xã hội, để nhờ đó mọi người được ấm no hạnh phúc.
3. Phải biết khôn ngoan làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết sống quảng đại, vị tha và biết bác ái chia sẻ cuộc sống vật chất với những anh chị em nghèo khổ trong cộng đoàn.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Chúng con cảm tạ Chúa đã dạy chúng con biết của cải vật chất không bảo đảm cho sự sống đời đời mà phải biết lo làm giàu trước mặt Chúa bằng đời sống bác ái. Xin ban cho mỗi người chúng con tình yêu và sự hy sinh của Chúa, để tất cả chúng con biết thành thực quảng đại, yêu thương nhau. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
70.Nơi để của cải vật chất - William Barclay
Tại Palettin người ta thường đem những vấn đề tranh cãi đến xin các rapbi phân xử. Đối với nhân vật trong đoạn này, ông coi Chúa Giêsu là một vị thầy có thế giá có thể giải quyết vấn đề cho ông, nhưng Chúa Giêsu từ chối không muốn tham dự vào vấn đề tranh chấp về tiền bạc. Có những người đến với thẩm quyền tôn giáo không phải để xin những chỉ dẫn về đời sống thuộc linh, mà lại xin giải quyết những vấn đề vật chất. Chúa Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vào những việc không liên hệ trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Chúa ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến công việc thuộc linh và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự hay chiếm đoạt địa vị của nhà cầm quyền: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?”
Có thể câu trả lời này chứa đựng một thông điệp cho thời đại chúng ta, cảnh cáo chúng ta đừng lẫn lộn những nhiệm vụ của Giáo Hội và Nhà Nước. Địa hạt của Giáo Hội là thuộc linh, thẩm quyền của Giáo Hội không phải là để quyết định những vấn đề kinh tế và chính trị. Tuy nhiên Giáo Hội có những cống hiến và ghi khắc những nguyên tắc liên quan đến các vấn đề luân lý và quyết định về sự công bình và lẽ phải trong mọi lãnh vực nhân sinh.
Chúa Giêsu đã từ chối “chia gia tài”, nhưng Ngài đã nhìn sâu vào căn nguyên lời yêu cầu và thấy rằng người ấy đã bỏ qua luật lệ dân sự để đến nhờ một giáo sư tôn giáo giúp đỡ là do lòng tham thúc đẩy. Nhân cơ hội này Chúa chỉ dạy cho kẻ theo Chúa phải có thái độ nào đối với vấn đề vật chất, và Ngài dạy qua một câu chuyện. Câu chuyện về lãi phú hộ ngu dại dạy ta rằng tiền của không tạo nên nội dung thật của sự sống, cho nên chỉ mải lo tìm kiếm vàng bạc mà quên Thiên Chúa là điều khờ dại.
Có hai điều đáng chú ý về người giàu này:
- Ông ta không hề nhìn xa hơn chính mình: không có dụ ngôn nào nhiều chữ “mình” như trong dụ ngôn này: “Hoa màu của mình, kho lẫm của mình, thóc lúa và của cải của mình, linh hồn của mình”. Đó là những chữ rất khó nghe mà người ích kỷ hay dùng đến. Người giàu ích kỷ chỉ biết nỗ lực tập trung vào mình. Có lời phê bình nổi tiếng về Ngài người ích kỷ như sau: “Có quá nhiều cái tôi trong vũ trụ của hắn!” Khi người này đã có của cải dư dật, ông không bao giờ nghĩ đến việc chia sẻ. Tất cả thái độ của ông đi ngược lại hẳn với tinh thần Kitô giáo. Thay vì từ chối mình, ông ta lại bảo vệ mình một cách khiêu khích; thay vì tìm hạnh phúc trong sự san sẻ, ông ta đã cố sức bám lấy hạnh phúc bằng cách bám chặt lấy của cải. Luật sống của John Wesley là tiết kiệm hết sức mình và ban phát hết sức mình. Khi ông ở Oxford ông có số lương và ba mươi bảng Anh một năm. Ông tiêu hai mươi tám đồng và cho đi hai đồng. Khi lương của ông tăng lên sáu mươi, rồi chín mươi, rồi một trăm hai mươi đồng một năm, ông chỉ tiêu xài hai mươi tám đồng, còn bao nhiều thì cho đi. Khi viên kế toán trưởng của công ty đồ gia dụng xin ông gửi bảng liệt kê những gì cần mua, ông trả lời “Tôi có hai thìa cà phê bạc tại Luân đôn và hai cái tại Briston, đó là tất cả đồ bằng bạc mà tôi có hiện giờ, và tôi không mua thêm cái nào nữa trong lúc biết bao nhiều người chung quanh tôi không có bánh ăn”. Châm ngôn La mã có câu: “Tiền bạc khác nào nước biển, ai càng uống nó thì càng khát thêm”. Bao lâu người ta có thái độ giống như người giàu ngu dại thì người ta cứ ước ao được giàu thêm mãi và đó là thái độ ngược với tinh thần Kitô giáo.
- Ông ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông ta chỉ đặt nền tảng cuộc sống lẩn quẩn trong thế giới của ông ta. Sau đây là cuộc đàm thoại giữa một chàng thanh niên ham hố và một ông lão hiểu đời:
Chàng nói: “Tôi sẽ học buôn bán”. Ông lão hỏi: “Rồi sao nữa? Rồi sao nữa?” – “Tôi sẽ mở hiệu buôn”. Rồi sao nữa? – “Tôi sẽ dựng nên cơ nghiệp lớn!” Rồi sao nữa? – “Tôi sẽ trở về già, hưu hạ và sống bằng tiền bạc của tôi!” Rồi sao nữa? – Ờ có lẽ một ngày kia tôi sẽ chết. Rồi sao nữa?
Câu hỏi sau cùng như một lưỡi dao. Người nào không hề nghĩ rằng có một thế giới bên kia thì người đó sẽ có ngày phải gặp một bất ngờ và cũng khủng khiếp.
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Anatasiô đưa ra lời khuyên: “Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần lớn lòng tham lam; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục vọng cai trị”.
Ngu dại của người giàu này là coi có tiền có của như là mục đích duy nhất của đời sống, nó bảo đảm vững bền khát vọng của con người. Có được các cần thiết để sống và phát triển là chân chính, nhưng coi việc thâu góp tài sản như là một lý tưởng sẽ đưa đến phá hủy con người và xã hội: “Đối với một dân tộc cũng như đối với một cá nhân, có thêm nhiều của cái hơn không phải là mục đích tối hậu. Mỗi sự thăng tiến đều có hai mặt: nó cần thiết để con người được nên người bạn, nhưng đồng thời nó cũng giam hãm con người một khi nó trở thành giá trị cao cả nhất, không còn cho nhìn thấy giá trị nào khác. Lúc đó lòng người trở nên chai đá và tinh thần khép kín lại, con người không còn đến với nhau vì tình nghĩa, nhưng chỉ vì lợi lộc. Lợi lộc để dễ làm cho con người chối đối với nhau và chia rẽ nhau. Vì thế nếu chỉ tìm kiếm của cải mà thôi thì không những sẽ làm cản trở cho sự phát triển của con người, mà còn phản lại sự cao cả bẩm sinh của con người. Đối với một quốc gia cũng như đối với một con người, tội tham lam là một hình thức lộ liễu nhất của tình trạng luân lý thấp kém”. (Đức Phaolô VI, Phát triển 19)
Người Do thái hay kể truyện ngụ ngôn cũng về A-lịch-sơn Đại đế. Vị danh tướng mệt mã vì đi bộ đường xa, bèn ngồi nghỉ bên bờ một suối kỳ lạ. Ông uống nước và cảm thấy sảng khoái lạ lùng. Ông nhúng cá muối vào nước cho đỡ mặn và ngạc nhiên khi thấy nước làm cho cá có vị ngon lạ thường. Ông tự nghĩ: chắc hẳn đây không phải là nước thường, nó phải xuất phát từ một kỳ diệu nào, ta phải lần đến tận nguồn xem sao”. Ông đi mãi cho tới cổng thiên đàng. Cổng khóa, ông gõ cổng xin vào, nhưng bên trong chỉ có một tiếng đáp lại: “Ngươi không được vào đây, vì cổng này thuộc về Chúa”. Vị đại tướng trả lời ngạo nghễ: “Ta là Chúa của trời đất. Ta là A-lịch-sơn chiến thắng, không mở cửa cho ta sao?” – Không, chúng ta chẳng biết kẻ chiến thắng nào hết. Chúng ta chỉ biết những người đã chiến thắng dục vọng thấp hèn của mình, chỉ những người công chính ngay thẳng, mới được vào thiên đàng.
A-lịch-sơn giận dữ như điên cuồng, nhưng chẳng ảnh hưởng chi hết đến người giữ cổng thiên đình. Ông đổi ra o bế và hối lộ, nhưng vẫn vô hiệu, bèn nài nỉ lần chót: “Ta là vua lớn và được mọi nước suy phục. Dầu không cho ta vào thiên đàng, nhưng ít ra cũng cho ta vật gì đem về để chứng tỏ với người thế gian rằng ta đã được đến nơi đưa từng có ai đến. Người gác cổng đáp: “Đây, hỡi tên khùng kia, ta cho ngươi điều ngươi xin, cầm về và tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nó sẽ cho ngươi bài học khôn ngoan mà chưa từng có ai dạy ngươi. A-lịch-sơn vồn vã đưa tay nhận gói quà và vội vàng trở về trại quân mở ra coi. Lạ quá, trước mắt ông, chỉ là một mảnh sọ người. Giận dữ, ông quẳng mảnh xương xuống đất, la tô: Đây là quà tặng cho vua và anh hùng sao? Công ta lặn lội vất vả chỉ xứng như thế này sao? Nhưng trong đoàn tùy tùng có một người thông thái, ông khuyên vua: “Tâu đức vua, xin chớ khinh vật nhỏ bé này, nó có tính chất rất lạ ký đáng đức vua để ý. Hãy cân nó với vàng bạc báu vật của đức vua, thử xem bên nào nặng hơn. Theo lệnh vua, họ đem cân tới, mảnh sọ một bên, còn bên kia chất vàng, bạc, bửu thạch nữa… xương vẫn nặng hơn. Càng thêm bao nhiêu, mảnh xương càng nặng hơn bấy nhiêu! Vua kinh ngạc: “Một mảnh sọ lại nặng hơn bấy nhiều vàng bạc! Có gì nặng hơn mảnh sọ này không? Nhà thông thái đáp: “Thưa có, chỉ một chút đất thôi”. Ông liền lấy đất phủ lên mảnh sọ, lập tức, xương mất hết trọng lượng, nhảy bồng lên, bên kim khí nặng hạ xuống. A-lịch-sơn la hoảng: “Cái này còn lạ hơn nữa!” Nhà thông thái giải thích: “Mảnh sọ này là lỗ mắt con người, dầu nhỏ bé, nhưng sự ham hố của nó không có giới hạn. Hết thảy của cái trần gian không làm cho no thỏa sự ham muốn của nó. Nhưng khi nó bị đất bao phủ và chôn vùi trong mồ mả, thì sự ham hố trần thế của nó mới hết.
Chúa Giêsu phán: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì? Hoặc lấy gì mà đổi được linh hồ mình?” (Mc 8,36-37). Tác giả Thánh vịnh suy luận: “Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm tiền bạc, nhưng nào có ai tự chuộc nổi mình, và trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa. Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời…” (49,7-9).
Vậy chúng ta hãy sống khôn ngoan theo lời khuyên của thánh Gioan: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi”. (1Ga 2,15-17).
71.Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta đừng để hết tâm trí vào việc thu tích của cải mà quên làm giàu trước nhan Thiên Chúa, vì đó mới là “kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá”.
Gv 1: 2; 2: 21-23
Sách Giảng Viên vạch trần cho thấy những công lao khó nhọc của con người và sự giàu sang phú quý ở đời này chỉ là phù vân.
Cl 3: 1-5, 9-11
Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng người Kitô hữu phải siêu thoát khỏi mọi sự thế này mà chú tâm tìm kiếm những thực tại trên trời. Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu được dự phần vào sự Phục Sinh của Chúa Kitô, họ trở thành một tạo vật mới.
Lc 12: 13-21
Trong Tin Mừng, thánh Lu-ca tường thuật dụ ngôn người phú hộ dại khờ, ông chỉ biết thu tích của cải cho thật nhiều để vui hưởng cuộc đời cho riêng mình. Cái chết bất ngờ đến nội trong đêm đó, lúc đó ông không có của cải trường tồn “trước nhan Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Gv 1: 2; 2: 21-23)
“Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”. Câu mở đầu sách Giảng Viên này đã trở thành tục ngữ. Chữ “phù vân” theo ngôn ngữ Híp-ri có nghĩa “làn gió thoảng”, “hơi sương khói”, vì thế được dùng như hình ảnh để chỉ những gì chóng qua, không bền chắc. Câu mở đầu này theo nguyên văn: “phù vân của những phù vân”, diển tả sự so sánh ở bậc cao nhất, có nghĩa, phù vân nhất, phù vân hết mức, không có gì phù vân hơn nữa.
1. Tác giả và tác phẩm:
Giảng Viên là một cuốn sách rất đặc thù, không như những cuốn sách khác trong toàn bộ Kinh Thánh. Tuy nhiên, cái nhìn bi quan về cuộc đời của sách rất gần với sách Gióp. Cả hai cuốn sách này đều chạm đến mầu nhiệm Thiên Chúa và ý định mầu nhiệm của Ngài trên nhân loại.
Nhan đề của sách: “Giảng Viên”, có nghĩa người chủ trì cộng đoàn hay người lên tiếng trong cộng đoàn. Tác giả đặt những diễn từ yếm thế của mình trên môi miệng của vua Sa-lô-mon, vị vua được truyền tụng là khôn ngoan bậc nhất. Đây là hình thức rất phổ biến vào thời xưa nhằm tạo uy tín và thế giá cho những lời bình phẩm của mình. Niên biểu tác phẩm có lẽ vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, chắc chắn phải trước hai sách Ma-ca-bê, bởi vì trong hai sách này niềm hy vọng vào sự sống lại ở bên kia nấm mồ được chứng thực. Đối với tác giả sách Giảng Viên, sau khi chết, người khôn và kẻ dại đều cùng chung một số phận như nhau, trong cõi âm ty tăm tối và buồn phiền (2: 14-16).
2. Công lao khó nhọc chỉ là phù vân:
Sau câu mở, vừa tóm tắt tinh thần vừa hình thành nên điệp khúc của tác phẩm, phụng vụ đề nghị cho chúng ta một đoạn văn rất gần với dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Trong đoạn văn này, tác giả phác họa bức tranh tăm tối về sinh hoạt của con người, vì hai lý do: Trước hết, toàn bộ sự nghiệp do công lao khó nhọc của mình làm nên đều phải trao lại cho người khác, việc thừa kế quả là một đại họa; thứ nữa, bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền cả ngày lẫn đêm.
- Việc thừa kế quả là một đại họa:
Phải trích dẫn rộng hơn đoạn văn này: “Tôi đã chán ghét mọi gian lao vất vả tôi phải chịu dưới ánh mặt trời, những gì tôi để lại cho người đến sau tôi. Nào ai biết được người ấy khôn hay dại? Nhưng người ấy lại là kẻ có thẩm quyền trên những gì tôi đã phải vất vả và khôn khéo mới làm ra dưới ánh mặt trời. Chuyện đó cũng chỉ là phù vân!” (2: 18-19). Tác giả nhắm đến một con người đơn độc một mình, không gia đình, không con cái, không bạn bè, chỉ biết thu tích của cải cho riêng mình, không bao giờ biết chia sẻ, biết cho, biết sử dụng thành quả công lao khó nhọc của mình để phục vụ tha nhân. Đó là lý do tại sao nỗi xao xuyến về ngày mai đã gậm nhấm lòng mình và chỉ thấy bất công khi để lại cho tha nhân niềm vui hưởng của cải mà mình đã đổ bao công lao khó nhọc làm nên. Vì thế, sự nghiệp mà con người phải vất vả làm nên trong cõi đời này chỉ là công dã tràng.
- Bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền:
“Phải đối với người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!”. Đây quả thật là cái phi lý của cuộc đời mà tác giả sách Giảng Viên muốn vạch trần. Khi biết sự nghiệp mà mình phải đổ bao công sức mới làm nên chỉ là chuyện phù vân, người ấy sinh lòng chán chường thất vọng.
Tư tưởng sau cùng của tác giả chính là cuộc đời con người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Thiên Chúa mới biết được: “Tôi nhận ra tất cả là việc Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được thực hiện dưới ánh mặt trời” (8: 17). Vì thế, phải phó thác vào Người. Lời kết của tác phẩm thì rõ ràng và giản dị: “Hãy kính sợ Thiên Chúa và tuân giữu các mệnh lệnh Người truyền, đó là tất cả đạo làm người” (12: 13).
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-5, 9-11)
Bản văn sách Giảng Viên là lời dẫn nhập tuyệt vời vào đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-lô-xê. Lời khuyên của thánh nhân: hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, là câu trả lời cho nỗi bận lòng của tác giả sách Giảng Viên. Lời khuyên này được viết trong khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma giữa những năm 60 và 63.
1. Lập luận của thánh Phao-lô:
Trước đó, thánh Phao-lô đã trình bày thần học về phép Rửa (Chúa Nhật tuần trước); giờ đây thánh nhân khai triển những hậu quả của nó khi dựa vào ý nghĩa của các nghi thức thánh tẩy: chết và sống lại, cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.
Lập luận của thánh nhân xem ra tự nó mâu thuẫn. Trước tiên, thánh nhân nói: “Anh em đã được sống lại cùng Đức Kitô”, tiếp đó: “Anh em đã chết với Chúa Kitô” (nghĩa là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức thánh nhân thường dùng để đặt lên hàng đầu thực tại tinh thần và tiếp đó cho thấy những hệ lụy liên quan đến con người và những đòi hỏi luân lý phát xuất từ đó.
2. Thực tại tinh thần:
Phép Rửa hiệp nhất người Kitô hữu với Đức Kitô Phục Sinh, Đức Kitô thiên giới ngự trị bên hữu Chúa Cha rồi, theo cách diễn tả của thánh vịnh gia: “Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị” (Tv 110). Nhờ phép Rửa, người tín hữu trở thành công dân Nước Trời, họ “phải hướng lòng trí mình về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
3. Con người mới:
Mầu nhiệm hiệp nhất này đem lại kết quả ngay lập tức, sự biến đổi nội tâm: “sự sống mới của anh em đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa”. Về phương diện bên ngoài, không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ở trong người Kitô hữu mà ánh vinh quang sẽ chỉ được tỏ lộ tròn đầy vào ngày tận thế. Sống theo Đức Kitô đảm bảo cho chúng ta vinh quang tương lai.
4. Mặc lấy Đức Kitô:
Cuộc đổi mới nội tâm này giúp người Kitô hữu vượt thắng những vị kỷ, những đam mê, những thói hư tật xấu. Phải trở nên người Kitô hữu chính danh. Phép Rửa cho chúng ta năng lực biến đổi này. Ở nơi khác, thánh Phao-lô nói rằng nhờ phép Rửa, người Kitô hữu được đóng ấn Thánh Thần (Ep 1: 13; 3: 16; 4: 30). Ở đây, thánh nhân diễn tả hùng hồn hơn: “Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa”. Không còn cách diễn tả nào có thể gợi lên tác động của ân sủng tốt hơn nữa.
“Con người cũ” sẽ nhường chỗ cho “con người mới” như thế nào, thì người chịu phép Rửa cũng trở nên một thọ tạo mới như vậy, khi bước ra khỏi nước thánh tẩy, mặc lấy y phục mới, trắng tinh. Thánh Phao-lô là văn sĩ Tân Ước duy nhất sử dụng ngôn từ này; thánh nhân còn dùng nhiều lần khác (Rm 6: 6; Ep 4: 22-24). Y phục mới trắng tinh không là vật trang điểm bên ngoài, nhưng đích thật “mặc lấy Đức Kitô”, nghĩa là, để cho con người của Đức Kitô thấm nhuần con người của mình, sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Kitô. Thánh Phao-lô đã giải thích điều này cho các tín hữu Ga-lát (đoạn văn hoàn toàn sóng đôi với đoạn văn của chúng ta): “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Giêsu Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 2: 27).
5. Ơn thông hiểu:
“Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu”. Một trong những khía cạnh đặc trưng của các thư được viết trong tù đó là điểm nhấn được đặt trên ơn thông hiểu. Ngay từ đầu thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê này, thánh Phao-lô đã thông báo Mặc Khải Kitô giáo đã khai lòng mở trí cho chúng ta như thế nào. Ngỏ lời với các tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân viết: “Quả thật, tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào vì anh em, vì những người Lao-đi-ki-a, và vì bao người khác chưa thấy tôi tận mắt; như vậy là để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và được liên kết chặc chẽ với nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Kitô, trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2: 1-3).
Thánh Phao-lô đối lập sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự dại khờ của con người. Những suy gẫm của thánh nhân trong cảnh tù đày đã khiến thánh nhân nhấn mạnh hơn nữa ơn thông hiểu Kitô giáo đánh dấu mức độ hiểu biết cao hơn, giúp khai mở mầu nhiệm con người và thoáng thấy mầu nhiệm Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Lc 12: 13-21)
Trong phân đoạn Tin Mừng này, thánh Lu-ca kết tập nhiều lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế; vài lời dạy trong số này cũng được gặp thấy tại thánh Mát-thêu. Tuy nhiên, câu chuyện mở đầu (12: 13-15) và dụ ngôn người phú hộ dại khờ (12: 16-21) thuộc nguồn riêng của thánh Lu-ca. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc vào những lời cảnh giác về sự giàu có như chướng ngại trên con đường dẫn đến Nước Trời.
1. Đức Giêsu từ chối lời thỉnh cầu:
“Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. Theo phong tục thời đó, khi gặp phải vấn nạn trong cuộc sống, người ta thường đến gặp thầy thông luật để xin ông một lời khuyên, thậm chí để xin ông đứng ra phân xử một sự bất đồng hay giải hòa đôi bên. Chúa Giêsu nổi tiếng là một bậc thầy đưa ra những nhận định thích đáng và khôn ngoan. Thật chính đáng khi chàng thanh niên này đến gặp Chúa Giêsu để xin Ngài đứng ra phân xử cho anh về vấn đề chia gia tài. Theo Luật Do thái, con trai trưởng có quyền ưu tiên thừa kế hai phần sản nghiệp (Đnl 21: 17). Có lẽ người này bị người anh cả lấy hết phần gia tài.
Chúa Giêsu từ chối lời thỉnh cầu của anh: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người phân xử hay người chia gia tài cho các anh?”. Chúa Giêsu cũng sẽ từ chối như vậy đối với tất cả những lời cầu xin xa lạ với sứ mạng của Ngài. Ngài đến không để giải quyết những tranh chấp về của cải vật chất, nhưng quan tâm đến của cải tinh thần. Thiết tưởng chúng ta cần nhắc lại phản ứng quyết liệt của thánh Phao-lô trong những trường hợp tương tự: những tín hữu Cô-rin-tô khi có những tranh chấp giữa nhau, đem nhau ra tòa để kiện cáo nhau, thánh nhân viết cho họ: “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?” (1Cr 6: 6-8).
2. Sự giàu có đích thật:
Chúa Giêsu chẳng những từ chối lời thỉnh cầu của anh mà còn cảnh giác đám đông về vấn đề của cải nữa: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có được dư giả, thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Để minh họa cho lời dạy của mình, Ngài kể một dụ ngôn về người phú hộ dại khờ.
Một phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới tự nhủ rằng “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc đó ta sẽ tự nhủ lòng: hồn tôi ơi, bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Nổi bận lòng duy nhất của người phú hộ là làm thế nào thu tích cho thật nhiều của cải như sự đảm bảo duy nhất cho cuộc sống của mình và chỉ nghĩ đến vui hưởng một cách ích kỷ những thành quả do công lao khó nhọc của mình.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, Ta đòi lại mạng sống ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”. “Đồ ngốc”, từ ngữ Kinh Thánh chỉ những ai chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa: “Kẻ ngu si tự nhũ: Làm chi có Chúa Trời!” (Tv 13: 1). Ở đây, Chúa Giêsu có chung tư tưởng của sách Giảng Viên, nhưng vượt qua ngay lập tức: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy”. Lời kết này muốn nói rằng cái chết trên cõi thế không thật sự là bi thảm; chính cái chết mai hậu mới là bi thảm. Người phú hộ bị cho là dại khờ bởi vì ông đã đổ hết công sức vào việc thu tích cho thật nhiều của cải trần thế như một sự đảm bảo chắc chắn cho tương lai của mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa. “Trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa”, nghĩa là thu tích kho tàng trên trời, được nhắc đến nhiều lần trong Tân Ước, như: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12: 33).
Một người phú hộ chỉ biết thu tích của cải trần thế và vui hưởng thành quả do công lao khó nhọc của mình một cách ích kỷ mà còn bị khiển trách đến như vậy, huống gì những kẻ làm giàu bất chính và thụ hưởng trên xương máu, mồ hôi đồng loại thì thật đáng bị khiển trách đến mức nào.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam