Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1370540

MƯỜI HAI CHI TỘC

Mười hai chi tộc

 

 

 

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Kinh Thánh ghi lại lịch sử của mười hai con cháu ông Jacob trở thành Mười Hai Chi Tộc Israel, dân riêng Chúa. Mười hai chi tộc bắt đầu từ một đại gia đình. Chính tên Jacob cũng do Chúa đặt cho. Tên của 12 chi tộc đó là: Reuben, Simeon, Judah, Issachar, Zebulun, Benjamin, Dan, Naphtali, Gad, Asher, Ephraim và Manasseh. Sáng Thế Ký 9.

Khi Jacob định cư đất Aicập cũng là lúc lịch sử Israel được thành lập. Trên núi thánh Sinai Thiên Chúa ban cho họ lề luật và đó là lề luật của cả một dân tộc ghi lại trong sách Torah. Lề luật bị coi thường, việc thờ phượng lơ là, xa dời Thiên Chúa, đời sống đồi trụy trở thành nô lệ thói hư tật xấu bản thân sau đó là nô lệ cho Pharaoh. Thiên Chúa sai Môisen đến cứu họ và dân này lưu đầy bốn mươi năm trong sa mạc trước khi đến miền đất hứa. Tại đây mỗi chi tộc chiếm một vùng đất do chi tộc trưởng lãnh đạo và tất cả dưới quyền lãnh đạo chung của Saul và thầy cả thượng phẩm Eli. Nội chiến xảy ra và các bô lão ủng hộ David và David trở thành vua. Sau khi David chết Solomon thay cha lãnh đạo. Sau khi Solomon chết, Nam Bắc phân tranh chia đất nước làm hai. Lãnh thổ phía Bắc nhận là Israel; lãnh thổ phía Nam thành Judah.

Thời Tân Ước Đức Kitô cũng chọn mười hai tông đồ tạo dựng nước Thiên Chúa nơi trần gian. Chính Đức Kitô đã chọn họ và đặt tên cho một số các môn đệ, huấn luyện và sai họ đi rao giảng Tin Mừng và sau đó là Tin Mừng Phục Sinh. Ai tin và nhận phép thanh tẩy: Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, người đó trở thành dân riêng của Thiên Chúa, trở thành anh chị em trong Đức Kitô và trở thành Dân Tư Tế, thừa hưởng gia nghiệp Đức Kitô trao ban, là kẻ thừa tự trong đại gia đình Chúa. Là kẻ thừa tự, hưởng gia nghiệp Chúa bởi chính Đức Kitô sống lại từ cõi chết, ban sự sống trường sinh cho những ai tin theo, sống tinh thần mến Chúa, yêu tha nhân. Trong nước Đức Kitô chỉ có một lề luật đó là luật yêu thương bởi chính Đức Kitô xác định: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau.Gn 15,12

Đức Kitô thiết lập Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Ngài trao quyền điều hành cho thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi và những kẻ kế tiếp điều hành Giáo Hội trần thế theo tinh thần của Đức Kitô, Ngài là đầu và các Kitô hữu là thành phần của thân thể Kitô. Giáo hội trần thế nhận sức mạnh và sự khôn ngoan của Thánh Thần Chúa, lắng nghe và thực thi lời hướng dẫn của Thánh Thần. Dân Israel chịu lưu đầy bốn mươi năm trong sa mạc truớc khi tiến vào miền đất hứa. Dân Đức Kitô không phải lưu đầy mà là những người lữ hành suốt cuộc sống trần gian. Trở thành người lữ hành để họ tìm kiếm người khác cùng đồng hành với họ rao giảng Tin Mừng Đức Kitô Phục Sinh. Trước khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ rao giảng kêu gọi mọi người thống hối để đón nhận nước Thiên Chúa đang đến. Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, họ là sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh, là anh chị em sống trong đại gia đình Chúa. Người lãnh đạo dân Chúa mang tinh thần của Đức Kitô, tinh thần đó là "đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ" Mat 20,28. Chính Đức Kitô xác nhận điều đó và thực thi trong cuộc sống rao giảng của Ngài. Phục vụ trong tinh thần khiêm tốn, yêu thương và tha thứ. Khiêm tốn, yêu thương, phục vụ là yếu tố căn bản chọn người lãnh đạo dân Chúa. Khi người lãnh đạo thực sự mang tinh thần trên của Đức Kitô thì việc tranh giành quyền lực sẽ không còn bởi họ được kêu gọi để phục vụ, để nhận ra khuôn mặt Đức Kitô nơi người họ phục vụ và nhận biết sự sống là lành thánh vì do Chúa ban.

 

21. Không bánh mì, cũng chẳng tiền túi

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế)

* Vài hàng sơ lược

- Sau khi bị người đồng hương Na-za-réth của mình chối từ (Mc 6, 1-6a), thay vì bực mình giận dữ, Giêsu vẫn thản nhiên và Ngài tiếp tục lên đường đến các làng chung quanh để giảng dạy. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thi hành sứ mạng giảng dạy như Ngài.

- Đoạn này có thể chia như sau: (1) 6b-7: Chuyển tiếp (câu 6b) và dẫn vào câu chuyện. (2) 8-9: Chỉ thị các môn đệ phải trang bị những gì khi ra đi. (3) 10-11: Chỉ thị các môn đệ về phản ứng trước sự đón tiếp của người khác. (4) 12-13: việc rao giảng và chữa bệnh của các môn đệ.

- Trong cái nhìn nhất lãm, thì Luca nêu đoạn 9, 1-6, tương hợp với đoạn phúc âm của Mác-cô ở đây. Còn trong Mát-thêu thì cũng nêu lên trong Mt 10, 1-15. Theo Helmut Klein thì Luca đã lấy lại đoạn phúc âm này của Mác-cô. Tuy nhiên, có một vài sự khác biệt: Luca không đề cập đến việc đi giày trong chỉ thị sai đi của Giêsu. Ngoài ra, Luca nêu bật ý nghĩa và nội dung của việc Giêsu sai đi, trong khi Mác-cô thì lại không. Ý nghĩa nằm trong câu: “Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc 9,2). So sánh với Mát-thêu thì có khá nhiều sự khác biệt. Mát-thêu nêu tên 12 tông đồ (câu 2-4). Đích đến cũng được Mát-thêu nêu rõ: “Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en” (câu 6). Ý nghĩa việc sai đi của Mát-thêu thì gần giống như Luca.

* Suy nim

“Ri Người đi các làng chung quanh mà ging dy.”

Các làng chung quanh ở đây là các làng nằm chung quanh Na-za-réth. Trong mạch văn của Mác-cô, thì việc giảng dạy của Giêsu ở đây có ý nghĩa hướng dẫn các môn đệ vào trong sứ mạng rao giảng sắp tới.

“Người gi Nhóm Mười Hai li và bt đầu sai đi tng hai người mt. Người ban cho các ông quyn tr qu.”

Nhóm Mười Hai mà Giêsu thành lập (ss. Mc 3,14) giờ đây được Giêsu gọi lại và bắt đầu sai họ đi. Sứ mạng thực sự bắt đầu. Sau những ngày được kêu gọi để ở lại với Giêsu (Mc 3, 14), để đi sâu vào tương quan với Giêsu, để học biết tinh thần của Ngài, thì giờ đây có lẽ các môn đệ đã phần nào “chín chắn”, nên Giêsu sai các ông lên đường. Ngài sai các ông đi từng hai người một. Tại sao lại từng hai người một? Theo các nhà chú giải thì trước hết liên quan đến việc làm chứng của người Do-thái. Chỉ có một người làm chứng sẽ không có tác dụng gì cả, hay nói mạnh hơn là không phải là người làm chứng. Nếu chỉ có một người làm chứng thì không thế dẫn tới quyết định trong tòa án, mà cần phải có hai người hay ba người làm chứng: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.” (Đnl 19,15)

Ngoài ra, trong Thánh Kinh còn có một số đoạn nhắc đến cặp “hai người”, như trong cuộc tranh luận với người Pha-ri-sêu về bản thân của Người, Giêsu đã nói: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi.” (Ga 8,17-18), hay ở Mt 18,19: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”

Như vậy, việc làm chứng của “hai người” còn có ý nghĩa là làm cho sự thật được sáng tỏ, sự thật về chính Đức Kitô, con Thiên Chúa, đến trần gian để rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người. Sự thật về tin mừng này sẽ được tỏ lộ một cách thật rõ ràng và chất lượng hơn, khi có hai người cùng đi chung để rao giảng và loan báo.

Có lẽ đây là điều quan trọng trong sứ mạng rao giảng, nên ngay từ đầu chúng ta đã thấy các cặp đi rao giảng chung, như trong Tông Đồ Công Vụ đề cập đến: Phao-lô và Ba-na-bê, Phêrô và Gioan.

Và Giêsu đã ban cho họ quyền trừ quỷ. Điều này được Mác-cô nêu bật trong Phúc Âm của mình (ss. Mc 1, 21-28), qua đó quyền năng của Giêsu được “tô đậm”, quyền năng giải phóng con người khỏi thần dữ. Vâng, Mác-cô chủ ý nêu bật điều này, vì độc giả của ông là những người kitô giáo trở lại ở Roma. Họ cần nhận ra sự gần gũi của Thiên Chúa, ngay cả khi thần dữ đang chế ngự. Sự gần gũi và quyền năng Thiên Chúa chính là bảo đảm cho sự tự do của những người con cái Thiên Chúa.

Trở về với đoạn Phúc Âm, các môn đệ ra đi với quyền năng của Giêsu để trừ quỷ.

Thực, trong trận chiến đấu với thần dữ, thì nếu không mang vũ khí của Thiên Chúa ban cho, thì không thể nào chiến thắng được: “Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối.” (Ep 6, 10-13) Đây chính là vũ khí thiêng liêng các môn đệ cần đến.

Với sự sai đi và với quyền năng trừ quỷ của Giêsu ban cho, các môn đệ và giáo hội nhận được một sứ mạng mới, sứ mạng loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa, và sứ mạng trừ khử thần dữ trong thế giới.

“Người ch th cho các ông không được mang gì đi đường, ch tr cây gy; không được mang lương thc, bao b, tin đồng để git lưng; được đi dép, nhưng không được mc hai áo.”

Lời nhắn nhủ của Giêsu ở trên được coi như là chỉ thị, tiếng Hy-lạp là paragge,llw (paraggellò). Theo từ điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider xuất bản (Exegetisches Woerterbuch zum Neuen Testament), thì động từ này xuất hiện 31 lần trong Tân Ước. Trong các sách Phúc Âm, chỉ có Giêsu là người ra lệnh cho thần ô uế (Lc 8,29), và chỉ thị cho nhóm 12 (Mc 6,8).... Ở đây, trong đoạn phúc âm của Mác-cô, theo R. Pesch, với chỉ thị này Giêsu muốn đặt nền tảng cho nguyên tắc sai đi của Ngài. Nguyên tắc đó là gì vậy?

“Không được mang gì đi đường”, nghĩa là phải từ bỏ của cải và không còn có nhu cầu gì cả. Đó là nguyên tắc rất triệt để. Như vậy, trong bối cảnh xã hội thời đó, thì người môn đệ của Giêsu còn phải triệt để hơn cả những nhà triết gia Kyniker, những nhà thuyết giảng khắc khổ đi khắp mọi nơi. Và khi các triết gia Kyniker đi, thì họ không có nhu cầu gì cả, nhưng họ có đem theo gậy, túi xin tiền và chiếc áo mantel giành cho nhà triết gia. Còn các môn đệ của Giêsu thì có gậy đấy, nhưng không có túi xin tiền hay ba lô hay túi ngủ gì cả, và cũng chẳng có tiền buộc bụng, đến cả của ăn đàng cũng không có nữa. Dù vậy, có áo, nhưng chỉ là một thôi chứ không phải là hai hay là ba.

Nhưng tại sao lại phải từ bỏ những vật dụng đó?

Không mang lương thực đi đường, không bánh trái gì cả. Điều này còn vượt trội hơn các triết gia khắc khổ Kyniker thời đó, vì khi họ ra đi thì họ đem theo bánh, trái vải và bình nước. Như vậy, người loan báo tin mừng của Đức Kitô sẽ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, và cũng tự do và khiêm nhường đón nhận tất cả những gì anh chị em ban cho mình. Ai cho ăn gì thì ăn nấy. Ai cho ly nước thì uống nước, ai mời tách trà thì sẵn sàng ngồi lại nhâm nhi. Thật đơn sơ và giản dị.

Giản dị hơn nữa, khi chẳng đem theo bao bị, chẳng có ba lô trên vai. Rũ bỏ tất cả. Tự do hoàn toàn. Không vương vấn điều gì, không giữ lại sự gì cả. Như vậy, thì không chỉ chân rảnh, mà tay cũng rảnh, người cũng nhẹ và đầu óc cũng trở nên trống rỗng hoàn toàn, để tất cả cho Tin Mừng mà thôi.

Tất cả vì Tin Mừng nên tiền bạc cũng chẳng màng tới. Và nhờ vậy mà tránh được biết bao nhiêu phiền toái tiền bạc có thể gây ra. Không tham lam, không thu gom, không cất giữ, đỡ phải mệt mỏi ôm đống tiền trong lòng, đỡ phải phí phạm chẳng đáng gì. Hơn nữa, trong xã hội Đông Phương thời đó, thì khi không mang tiền bạc trên mình, sẽ tránh được sự trấn lột của kẻ cướp qua đường.

Thật là tuyệt, nếu tự do hoàn toàn với tiền bạc, tự do với thế lực của đồng tiền mà người đời thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được.”

Vật được mang theo là gậy và dép, còn áo thì chỉ một cái thôi nhé!

Tại sao vậy? Cây gậy ở đây là vật dụng cần thiết cho người lữ hành, cho người giảng thuyết phải đi khắp mọi chốn để loan báo tin vui. Với cây gậy trên tay chứ không vũ khí nào khác, người giảng thuyết xuất hiện rất đơn sơ và giản dị trước mọi người. Không ai phải sợ sệt người giảng thuyết cả, và người rao giảng Tin Mừng cũng không cần phải hãi sợ ai hết: “Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 26-28a) Và người rao giảng sẽ “không phải chết, nhưng sẽ sống, để loan báo những công việc CHÚA làm.” (Tv 118,17)

Dép được nhắc ở đây chính là Sandalion, tiếng Hy-lạp là sanda,lion, có thể mường tượng như giày Sandal có quai như hiện giờ, là một vật dụng cần thiết cho người rảo bước khắp mọi nơi loan báo Tin Mừng. Sandal được sử dụng rất thường trong xã hội Do-thái thời đó, và rất cần thiết cho những chặng đường dài, từ miền đất này qua miền đất khác. Cũng nên nhớ rằng, ở Ít-ra-en có những miền đất sa mạc rất khô cằn và nóng, vì thế Sandal thực là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu hiệu của sự tang tóc và chay tịnh. Vâng, người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có mang tang tóc, vì thế cần phải đi Sandal vào, và như vậy thì mới khỏe khoắn nhanh nhẹn rảo bước, sẵn sàng lên đường đi bất cứ nơi đâu, đến với bất cứ ai đang cần đến Tin Mừng.

Ngoài Sandal và gậy ra, người loan bao tin vui được phép mang theo áo, nhưng chỉ một mà thôi. “Áo” ở đây dịch từ ngữ Hy-lạp citw,n (chitòn). Theo từ điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider, thì áo này là một loại áo dài bằng vải thô hay len, dài có thể tới đầu gối che thân mình trên và thân mình dưới, có cả hai loại tay ngắn và tay dài.

Ngoài ra, theo Adolf Pohl, trong xã hội Đông Phương thời đó, quần áo là dấu hiệu nói về sự giàu sang phú quý. Người giàu sang là người có nhiều quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ có mỗi một chiếc áo che thân. Để khoe khoang và muốn mọi người tiếp đón mình đàng hoàng, người giàu có thường thay đổi áo và mang trên mình nhiều áo khác nhau. Nhưng cũng vì sự khoe khoang này, mà họ trở thành nạn nhân của kẻ cướp đường.

Người loan báo tin mừng của Giêsu không cần phải khoe khoang, không cần phải sửa soạn nhiều, không cần phải mang áo có hiệu vào mình. Vâng, khi mọi người chẳng sợ hãi gì trước người loan báo tin mừng, thì cũng thế, không ai phải ganh tị với người loan báo tin mừng về áo quần cả.

Như vậy, tinh thần của người loan báo tin mừng là trở nên tự do hoàn toàn với mọi thứ. Mọi thứ đều trở thành thứ yếu. Chỉ có Tin Mừng, Nước Thiên Chúa và ơn cứu rỗi cho mọi người là tất cả. Không có gì hơn cả. Cả quần áo, cả tiền bạc, cả lương thực, cả balô. Vâng, nói theo tinh thần của thánh I-nhã, thì người môn đệ của Chúa cần phải trở nên bình tâm và tự do hoàn toàn, để luôn sống theo thánh ý Chúa, và luôn ao ước được trở nên nghèo khó như Đức Kitô, Vị Giảng Thuyết đơn sơ nghèo hèn, nhưng đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho mọi người.

“Người bo các ông: “Bt c đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì c li đó cho đến lúc ra đi.”

Sau các chỉ thị về việc từ bỏ tất cả những gì không cần thiết để lên đường, Giêsu căn dặc các môn đệ thêm hai nguyên tắc, khi đi đến với những người mà họ rao giảng. Điều thứ nhất liên quan đến lòng hiếu khách và đón tiếp. Trong tục lệ Do-thái, sự hiếu khách đóng một vai trò quan trọng. Sự hiếu khách hứa hẹn sự chúc phúc, và còn là sự tha thứ cho người lầm lỡ. Ngay cả đối với kẻ thù, thì cũng khó lòng mà từ chối không đón tiếp. Về phía khách, ở đây là những người rao giảng tin vui, thì không được phép thay đổi chỗ ở tùy ý. Trong ý nghĩa mà Mác-cô diễn tả ở đây, có thể việc rao giảng và xây dựng một cộng đoàn đòi hỏi nhiều thời gian, nên không không được thay đổi chỗ ở liên hồi. Trong khi Tin Mừng chưa “đâm rễ” vào lòng người, vào cộng đoàn, thì cần phải ở lại.

“Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe li anh em, thì khi ra khi đó, hãy giũ bi chân để t ý phn đối h.”

Nguyên tắc thứ hai ở đây liên quan đến sự từ chối, không đón tiếp, không lắng nghe của chủ nhà. Khi chối từ người rao giảng và sứ điệp anh ta đưa lại, là chối từ chính Đấng sai anh ta. Sự chối từ đem lại hậu quả. Như trong phản ứng của Giêsu với những người Na-za-réth, Giêsu nói với các môn đệ mình hãy đi ra khỏi đó, và giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ. Thái độ giũ bụi này trong xã hội Do-thái thời đó, được người Do-thái làm, mỗi lần họ từ đất dân ngoại trở về lại biên giới của đất thánh. Theo truyền thống của các Rabbi, thì bụi đó có thể sẽ làm ô uế. Vì vậy, họ muốn tẩy rửa và giũ lại tất cả những gì dơ bẩn.

Theo các nhà chú giải, thì trong đoạn phúc âm này, thái độ giũ bụi chân là biểu tượng của chứng từ mà người rao giảng tin mừng để lại, và hy vọng có ngày người chối từ Tin Mừng sẽ suy nghĩ lại, tự chất vấn lại thái độ của mình đối với Tin Mừng và đối với Đấng là chủ của Tin Mừng.

“Các ông đi rao ging, kêu gi người ta ăn năn sám hi. Các ông tr được nhiu qu, xc du cho nhiu người đau m và cha h khi bnh.”

Nhóm Mười Hai ra đi theo lời sai đi của Giêsu, và họ đã làm được nhiều điều tốt lành. Cụ thể họ đã ra đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Không chỉ thế, với quyền trừ quỷ mà Giêu đã trao, họ đã trừ được nhiều quỷ. Mác-cô lại làm nổi bật điều này, để qua đó nói lên quyền năng của Thiên Chúa trên thần dữ. Quyền năng giải thoát con người khỏi bóng đêm. Thêm vào đó họ đã xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

Như vậy, khi ra đi theo lời kêu gọi của Đức Kitô, và sống đúng theo chỉ thị và tinh thần của Ngài, các môn đệ đã cùng với Đức Kitô đem lại Tin Mừng cho rất nhiều người, và qua đó họ nhận được sự tự do làm con cái Thiên Chúa, sự tự do với bình an và niềm vui sống mà mọi người có thể tìm thấy trong Nước Trời.

 

22. Những lời căn dặn cho việc thi hành sứ vụ.

(Suy niệm của Camille Gagnon)

Hôm nay, xin anh chị em cho phép tôi giảng một bài hơi nhẹ nhàng một chút, một bài giảng cho kỳ nghỉ hè. Tôi muốn nói về gia đình Tremblay tuần rồi đã đi cắm trại lần đầu tiên ra sao.

Điều khiến tôi nói về gia đình này, là Tin Mừng bảo rằng “Lần đầu tiên” Chúa Giêsu sai các môn đệ, từng hai người một, đi rao giảng, và để giúp họ, Ngài dặn dò họ ngay trước lúc lên đường. Tôi không biết các môn đệ có hiểu rõ và nghe theo những lời dặn dò này không, nhưng tôi biết rằng gia đình Tremblay đã không hiểu và không tuân theo, và họ là làm hỏng kinh nghiệm cắm trại của mình. Và khi nói về kinh nghiệm cắm trại của gia đình Tremblay, tôi sẽ nói một chút về các bạn và tôi.

Đừng mang theo hành lý cồng kềnh”.

Lời căn dặn đầu tiên của Chúa Giêsu thật rõ ràng: “Đừng mang theo hành lý cồng kềnh”. Vì ông Tremblay không biết điều gì sẽ xảy ra nên ông đã chuẩn bị mọi sự: Hai túi ngủ cho mỗi người, những cây cọc để cắm lều, những chiếc ấm lớn nhỏ, thùng dụng cụ, v.v… Đối với ông Tremblay thà chen chúc nhau trong lều còn hơn là thiếu bất cứ món gì. Cuối cùng ông hầu như đã dọn hết đồ đạc trong nhà đi và đã phải bận rộn chuẩn bị đồ đạc cả tuần.

Một người quen cắm trại, sẽ khôn ngoan hơn. Ít nhất họ biết phải tránh mang theo những hành lý vô ích. Họ đã hiểu ý nghĩa thật của lời Chúa Giêsu căn dặn. Khi nhìn ông Tremblay họ thấy được yếu điểm của ông. Trước một công việc đòi hỏi phải dẹp đi mọi nhu cầu không cần thiết ông lại sợ phải bỏ đi những thói quen và những bảo đảm cho cuộc sống của mình. Thật ra ông Tremblay nghi ngờ rằng việc cắm trại sẽ không lấp đầy được cả một tuần lễ nghỉ ngơi, và ông nghĩ sẽ buồn chán khi thiếu tiện nghi. Thế là, bị kẹt trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh của mình, ông không còn thảnh thơi để có được những ngày nghỉ ngơi thực sự nữa.

Đừng đi lăng xăng khắp nơi!”.

Lời căn dặn thứ hai là đừng đi lăng xăng khắp nơi. Nhưng cả ở điểm này nữa, bà Tremblay đã không thành công. Tuy nhiên, bà đã có ý tốt. Đối với bà, trong tuần cắm trại đó sẽ có dịp gặp gỡ nhiều người và bà cũng nghe nói rằng khi đi cắm trại người ta rất tử tế và dễ làm quen. Vậy nên bà không ngồi đấy mà chờ đợi: Bà vội vã đi bước trước, mỗi ngày bà đi thăm hết mọi người, những chẳng tiếp xúc với ai lâu. Cuối tuần, bà đã “quen biết” nhiều người, nhưng lại có ít bạn bè. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã nói: “Khi các con được đón tiếp vào nhà nào thì ở lại đó cho đến lúc ra đi!”. Điều này có vẻ ngộ nghĩnh. Hiển nhiên là phải ở nơi nào đó trước khi ra đi. Nhưng, suy nghĩ một chút, ta thấy rằng ta có thể ở nơi nào đó mà không hiện diện, không bao giờ ở với ai cả. Điều này cũng có nghĩa là chỉ có một cách để tạo nên những mối liên hệ thực sự với kẻ khác: Đó là dừng lại, đừng bỏ đi ngay khi vừa gặp sự khó chịu nào đó và đừng sợ làm quen. Chúa Giêsu bảo: Với thái độ ấy làm sao các con có thể loan báo Thầy. Nói về Thầy thế nào nếu không tạo được những cuộc gặp gỡ thực sự? Nếu các con chỉ chạy vội hết nơi này đến nơi khác?

Cuối cùng đừng luyến tiếc gì cả.

Bọn trẻ nhà Tremblay trở về rất thất vọng. Chúng cứ tưởng sẽ gặp được nhiều bạn trẻ cùng lứa tuổi với chúng; dụng cụ thể thao cũ rích; huấn luyện viên về bơi lội bị ốm hai ngày, hai ngày đẹp trời nhất, v.v… Chúng đã mong một cái gì mới mẻ, nhưng bây giờ chúng chán cắm trại lắm rồi. Từ nay chúng đã biết cắm trại chẳng thích thú gì cả. Từ lúc về nhà chúng cứ luyến tiếc mãi những ngày đi chơi thất bại.

Điều Chúa Giêsu căn dặn cuối cùng là: “Nghe đây! Nếu các con đã thất bại ở nơi nào đó, thì hãy bỏ đi và để lại tất cả đàng sau mình, nhất là đừng luyến tiếc gì cả. Vì chúng sẽ chỉ ngăn cản các con bắt đầu lại công việc cách tốt hơn mà thôi”.

Tóm lại sứ vụ của các môn đệ, cuộc đời của chúng ta, và cuộc cắm trại của gia đình Tremblay lại chẳng cần những lời căn dặn này sao: “Hãy siêu thoát đối với bản thân; hãy dừng lại để thiết lập những mối liên hệ thực sự; và hãy quên đi những luyến tiếc để bắt đầu lại cách tốt hơn”.

 

23. Thiên Chúa nói qua trung gian

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Thiên Chúa luôn làm việc. Ngài trực tiếp tác động nơi tâm hồn mỗi người, và Ngài cũng sai một số người đặc biệt để nói với con người của mọi thời đại. Mỗi một người rao giảng đều phải là người đã biết lắng nghe và vâng nghe Lời Chúa trong đời sống.

I. Amos đã được sai để nói nhân danh Thiên Chúa cho dân Ngài

Con người là tạo vật được yêu thương. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, Ngài mong ước con người sống hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Khi cần can thiệp để hướng dẫn dân một cách đặc biệt, Thiên Chúa dùng các tôi tớ Ngài, cụ thể là các tiên tri. Sách tiên tri Amos cho thấy tiên tri Amos không phải là tiên tri “chuyên nghiệp”, nghĩa là, Ngài không thuộc nhóm tiên tri, hoặc con cháu tiên tri. Ngài là một người chăn cừu, người đi hái trái sung, nhưng đã được Thiên Chúa gọi đi nói tiên tri, đi làm ngôn sứ.

Tiên tri Amos đã được Chúa sai tới nói với dân ở phía bắc, tại đền thờ ở Bethel, nên đã bị tư tế Amaziah đuổi: “hãy cút đi, hỡi nhà thị kiến, hãy trở lại đất Juđa mà nói tiên tri, mà kiếm cơm ở đó”. Amos không là người kiếm cơm bằng nghề tiên tri, thầy chiêm, bói toán. Amos được Thiên Chúa gọi để làm ngôn sứ, nói với dân nhân danh Thiên Chúa. Amos đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, ông đã tới miền bắc để nói tiên tri, để loan báo những gì sắp xảy ra cho dân, để cho dân biết rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương dân; những tai họa sắp xảy tới là do nhà vua và dân chúng phía bắc đã không tuân giữ giao ước của Thiên Chúa. Nếu vua chúa và dân không nghe, không đổi đời, thì sẽ có tai họa xảy tới, sẽ bị mất nước. Khi rao giảng như vậy, dĩ nhiên vua chúa và đa số dân chúng thuộc vương quốc phía bắc không đồng ý. Người ta muốn nghe điều tốt lành, chứ không ai muốn nghe nói tai họa sẽ xảy ra. Tư tế Amaziah của đền thờ tại Bethel đã trục xuất tiên tri Amos và không cho ông rao giảng nữa.

Tiên tri, là người của Thiên Chúa. Amos đã vâng nghe Chúa, đáp trả lời mời gọi của Ngài. Ông đã bỏ nghề, đã đi tới vùng đất xa lạ và thậm chí nói cả điều mà chính ông cũng biết sẽ không được người ta chấp nhận. Những nhà tiên tri “chuyên nghiệp”, kiếm cơm bằng nghề bói toán (thầy chiêm, tiên tri) sẽ không dám nói mất lòng dân chúng vì như vậy đâu có kiếm cơm được. Nhiều tiên tri “thật” trong lịch sử đã phải khốn khổ vì đã nói lên sự thật, đã làm điều mà nhiều người cho là ngu dại. Một tiên tri đúng nghĩa, là người của Thiên Chúa, vâng theo Chúa bất chấp những gì xảy tới cho mình.

II. Đừng mang theo gì cả trừ cây gậy

Sau khi nhận phép rửa tại sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày trong hoang địa, đã rong ruổi rao giảng khắp đất nước Do Thái. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu không có gì ngoài chính con người của Ngài. Ngài không sợ đói, không sợ vất vả, không sợ phải màn trời chiếu đất (Mt.21, 18; Lc.21, 37). Đức Giêsu chấp nhận tất cả, Ngài chỉ có sứ mạng phải nói với dân chúng, và chính Ngài đang là Lời cho dân chúng qua cách sống và cách ứng xử của Ngài.

Đức Giêsu cũng sai các tông đồ đi rao giảng. Có lẽ Ngài đang huấn luyện các tông đồ cho sứ vụ tương lai. Ngài ban cho các ông quyền trên thần ô uế, sai các ông đi từng đôi một, dạy các tông đồ đừng mang gì cả ngoại trừ cây gậy. Hành trang của một người tông đồ rất đơn giản: không trang bị lương thực, không bao bị rương hòm, không hai áo! Chả có gì phải bận tâm ngoại trừ chính sứ điệp phải rao giảng.

Người tông đồ của Chúa không chọn ở chỗ này chỗ kia vì được tiện nghi hay kính trọng, nhưng cố gắng diễn tả tính thành tín của Thiên Chúa bằng việc ở tại nhà nào thì ở lại đó cho tới khi ra đi. Nếu người ta không nghe, thì hãy ra đi và không mang theo gì cả, kể cả bụi chân, cũng không ra đi với lòng hận thù hay nguyền rủa. Người của Thiên Chúa mang bình an tới, nhưng nếu người ta không đón nhận, nghĩa là họ không đủ điều kiện để sống bình an, thì người tông đồ của Chúa cũng chấp nhận họ như Thiên Chúa đã chấp nhận họ.

III. Người được sai cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho con người

Thiên Chúa tạo dựng con người qua Lời của Ngài. Thiên Chúa ban cho con người tự do. Qua lương tâm, Thiên Chúa mời gọi con người sống vươn lên từng ngày, từng giây phút sống trọn vẹn trong yêu thương, để thành con cái yêu quý của Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình yêu thương con người, Thiên Chúa đã sai Lời Ngài đến ở giữa con người, thành một người rất cụ thể là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã sống trọn vẹn thân phận con người, Ngài cũng phải chọn lựa từng ngày, từng hành vi để thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu không là một người giầu có về vật chất tiền bạc, Ngài không là một người có địa vị chức quyền, Ngài trắng tay như bao người nghèo khác. Ngài chỉ có Thiên Chúa là Cha, và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa mỗi ngày.

Thiên Chúa muốn ban tất cả cho con người, không chỉ là sự hiện hữu của mỗi người; nhưng Ngài còn muốn ban cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là mẫu gương, để mỗi con người nhìn vào và dõi theo, để sống yêu thương và hạnh phúc từng ngày. Đức Giêsu là quà tặng vô cùng quý mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Qua Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người biết bao, Thiên Chúa sẵn sàng cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là tất cả, diễn tả tất cả những gì Thiên Chúa muốn cho con người.

Đức Giêsu Kitô là điều gì vô cùng mới, theo thánh Phaolô, được dấu kín từ muốn thuở nay được tỏ lộ. Đức Giêsu Kitô là mặc khải tuyệt vời của Thiên Chúa. Với Đức Giêsu Kitô, người ta hiểu hơn Thiên Chúa là ai, là Đấng yêu thương con người đến độ nào, là Đấng có nhiều sáng kiến tuyệt vời như thế nào để yêu thương con người. Đức Giêsu đúng là Lời của Thiên Chúa, là mặc khải của Thiên Chúa cho con người, là bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu là bình an của con người, hiểu theo nghĩa, qua Đức Giêsu con người biết Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng, đến độ mình có thể phó thác tất cả cho Thiên Chúa và sống bình an.

Câu hỏi gợi ý chia s

1. Bạn có nghĩ rằng bạn là người được Thiên Chúa sai để làm điều gì chăng? Nếu có xin chia sẻ.

2. Theo bạn, Đức Giêsu được sai tới để làm gì? Ngài có làm trọn sứ mạng của Ngài không?

 

24. Gọi và sai đi

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Tin Mừng Mc 6: 7-13: Chúa Giêsu lp Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sng bên cnh mình. Ngài trc tiếp hun luyn, bng cách cho các môn đệ được nghe nhng li Ngài ging, được xem nhng vic Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thc tp truyn giáo.

Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ "gọi, sai đi" diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như "một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo" ("Comment lire un évangile?", Seuil, trang 103).

1. Hành trang người tông đồ

a. Hành trang đi đường: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.

- Cây gy

Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.

- Đôi dép

Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.

- Tm áo

Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.

Chúa Giêsu trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.

b. Phương tin sinh sng: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.

c. Tương lai bấp bênh. Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.

Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ...và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.

2. Phương thc hot động: ”tng hai người mt”

Khi sai đi “từng hai người một“, Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.

Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)... Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.

3. Tinh thn tông đồ là ra đi

Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum... Ngài ngang qua đồng lúa... Cứ đi và đi như vậy mãi.

Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá...

Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận... Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).

Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.

Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.

Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.

Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.

Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28,20).

Chúa Giêsu gọi các môn đệ và “thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.

Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.

Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.

Nhưng khó vì lòng người ngi núi e sông.

Ly Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi t tri cao xung đất thp, mang Tin mng chiếu soi nhân trn. Xin sai chúng con ra đi nh nhàng và thanh thoát, không chút cy da vào kh năng bn thân hay vào nhng phương tin trn thế. Xin Chúa giúp chúng con ch biết cy da vào Chúa. Ch mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.

 

25. Dự định của Cha dành cho chúng ta.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller)

Trước khi một tòa nhà được xây dựng, kỹ sư phải hoàn thành bản vẽ. Trước khi một đội bóng đá chuyên nghiệp đến một sân nào thì người huấn luyện viên đó phải có một chiến thuật. Vậy trước khi chúng ta làm một việc gì, phải ý thức về cuộc sống của chúng ta, chúng ta cần phải có một bản thiết kế; cần phải biết chiến thuật của chúng ta là gì.

Chúa Giêsu đã giới thiệu dự định đó trong lúc Ngài ở đây trên mặt đất này, Ngài đã gởi mười hai tông đồ đi trước Ngài trong công cuộc rao giảng, và Ngài tiếp tục rao giảng ngày hôm nay xuyên qua Giáo Hội, tuy nhiên sự thật là dự định của Thiên Chúa không phải là một chân lý lầm lạc hoặc là một ý tưởng xa vời. Dự định của Thiên Chúa là một con người, con người đó là người Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu thì giống như là một bản thiết kế đã được mang lấy xác. Chúa Giêsu là chương trình dự định cho đới sống của chúng ta.

Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô giải thích dự định mà Thiên Chúa Cha đã hài lòng nơi Đức Kitô, Đấng đã mang hết tất cả mọi sự trên trời dưới đất vào trong quyền thủ lãnh của Đức Kitô. Đức Kitô là Đầu và chúng ta là chi thể của thân mình Ngài. Thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội, thân thể phải đươc trở nên giống như Đầu.

Bởi vì chúng ta là một với Đức Kitô ở trong Giáo Hội, chúng thông dự vào mối quan hệ của Người với Cha. Vì Người là người Con đời đời của Cha, trong ba ngôi, như thế chúng ta cũng trở thành con cái của Thiên Chúa trong Giáo Hội. Thiên Chúa cũng là một gia đình gồm Cha và Con được hợp nhất trong một Thánh Thần. Giáo Hội là một gia đình thiêng liêng ở trên mặt đất này. Chúng ta được sinh ra trong gia đình này qua phép rửa và phép thêm sức và được củng cố như là con cái của Thiên Chúa qua việc xức dầu của Thánh Thần.

Thánh Phaolô đã viết: “Chúng ta đã được đóng ấn bằng Thánh Thần. Sự diễn tả này ám chỉ lối thực hành của một vị vua hoặc của những người khác, họ đã ấn chiếc nhẫn của mình trên sáp nóng và sau đó đóng dấu ấn vào một bức thư hoặc một văn kiện quan trọng để làm bằng chứng xác thực. Khi người ta nhận thấy con dấu của vua, người đó biết rằng tài liệu này là xác thực. Chúa Thánh Thần cũng xuyên qua bí tích Thêm sức đã in dấu trên linh hồn chúng ta để xác định chúng ta thật sự là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta thật sự là như thế”

Mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa trong Giáo Hội kêu gọi chúng ta đáp trả bằng hai cách. Cách đầu tiên là phụng vụ. Thánh Phaolô đã nhấn mạnh rằng chúng ta phải ngợi khen đặc ân của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta qua người Con Yêu Dấu của Ngài: “Chúng ta đươc tiền định để ngợi khen vinh quang Ngài”. Chúng ta làm viên mãn sự đáp trả này chính yếu là trong phụng vụ thánh, lời cầu nguyện của chúng ta được vươn cùng Giáo Hội. Cái đáp trả thứ hai là “cố gắng trở nên thánh thiện và không tì tích trước ánh nhìn của Thiên Chúa, được tràn đầy tình yêu”. Lối đáp trả thứ hai được chỉ định như là cách chúng ta sẽ sống. Nó có nghĩa là chúng ta phải trở nên giống Đức Kitô, không chỉ trong hữu thể của mình nhưng còn trong tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta nữa.

Bởi vì Đức Kitô là bản vẽ, là kế hoạch cho đời sống chúng ta, nên phụng vụ không mệt mỏi để giới thiệu Phúc âm cho chúng ta trong mỗi Thánh Lễ. Trong suốt ba năm và Chúa nhật, chúng ta được nghe Lời của Chúa trong bốn Phúc âm. Tất cả các sách Phúc âm đều giúp chúng ta chứng kiến hành động của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy bản vẽ của chúng ta, Con Thiên Chúa đã sống như một con người thế nào. Chúng ta cũng được giới thiệu lý tưởng để sống đúng. Trong việc lãnh nhận Thân Mình và Máu của Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta được làm cho mạnh sưc1 để có thể theo được kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “ Hãy ngợi khen Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã ban cho chúng ta trong Đức Kitô mọi phước lành thiêng liêng trên trời”.

 

26. Giáo huấn bằng các việc làm thực tập.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).

Trước hết là một vài điểm chi tiết để hiểu đoạn văn dễ dàng hơn:

- Nhóm 12 là 12 tông đồ. Đức Giêsu sai họ đi từng hai người một, để họ có thể nâng đỡ nhau. Cũng có thể là để làm chứng vì luật Do thái về việc làm chứng đòi hỏi có hai người.

- Chiếc gậy là vật trợ giúp thông thường cho những người đi đường. Chúa cấm mang bị. Có lẽ Ngài ám chỉ đến cái bị của các kẻ hành khất làm giàu nhờ của xin được ở các nơi thờ phượng ít nhiều có khuynh hướng ngẫu tượng. Người ta biết rằng trong lịch sử Giáo hội đã có xuất hiện các dòng hành khất. Để tránh những lạm dụng, Giáo hội luôn đề phòng sao cho việc hành khất khỏi lìa xa đối tượng của nó: việc sinh sống, giúp đỡ kẻ nghèo và các việc truyền giáo. Những lúc nẩy sinh các lạm dụng là những giai đoạn xuống dốc: các dòng tu và hàng giáo sĩ không thực hành đức nghèo khó của người môn đệ. Ngược lại người ta biết đến sự phiêu lưu phan sinh (dòng hành khất đầu tiên do thánh Phanxicô Assisi sáng lập), đã đem lại cho Giáo hội sự canh tân Phúc âm.

- Đi đường với hai áo là dấu chỉ của người giàu di chuyển bằng ngựa.

- Đức Giêsu sai các môn đệ và nói họ cậy trông vào sự tiếp đãi của dân chúng. Sự tiếp đãi đó thuộc phong tục của thời đại và mặc lấy tính cách một bổn phẩn của thành phố và làng mạc với tư cách tập thể cũng như cá nhân.

- Phủi bụi chân ám chỉ một tập tục. Người Do thái từ một nước ngoại giáo trở về hay từ một nơi chốn dơ bẩn mà đến, phải phủi bụi chân để khỏi pha trộn đất bị bẩn và đất thánh thiện của xứ Giavê.

Hai câu hỏi được đặt ra:

1) Tại sao Đức Giêsu sai nhóm 12 đi rao giảng? Thưa vì lý do sư phạm. Đức Giêsu muốn giáo dục các mônd đệ. Và sự giáo dục bao hàm một phần thực tập. Các môn đệ đã nghe Đức Giêsu rao giảng. Nhưng người ta chỉ học tốt điều người ta kinh nghiệm, điều người ta thực hành. Sai họ đi rao giảng, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ có được hai kinh nghiệm: Kinh nghiệm sống sự sám hối mà họ rao giảng và kinh nghiệm cảm thấy sự bất túc của con người và vì thế cần phải cầu xin Chúa trong khi chu toàn sứ vụ tông đồ của mình.

Đức Giêsu cũng muốn huấn luyện nhóm 12 về điểm bất vụ lợi tuyệt đối, thật cần thiết cho việc tông đồ đích thật. Cho nên Ngài đòi hỏi phải từ bỏ tất cả những gì không cần thiết cho đời sống. Nhất là Ngài muốn cho họ được cái kinh nghiệm này là: sự từ bỏ chắc chắn sẽ lôi kéo sự quan phòng của Chúa Cha. Con người tự hạn chế về của cải vật chất vì tình yêu đối với TC và để sẵn sàng phục vụ ơn cứu rỗi sẽ không thiếu điều cần thiết.

2) Đức Giêsu gọi 12 tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền... Ngay từ lúc đầu trong đời sống CHUNG với Đức Giêsu, các tông đồ kinh nghiệm rằng Thầy họ sai họ đi. Sứ vụ tông đồ tương lai của họ có được tính cách xác thực cũng là nhờ một nguồn gốc: được Đức GIêsu sai đi rao giảng. Ngày ngay chúng ta nói: Giáo hội là Tông truyền. Điều này có hai nghĩa: trước nhất là xuyên qua các Giám mục, Giáo Hội lên đến các Tông đồ, kế tiếp là các Tông đồ được chính Chúa Kitô sai đi và ban quyền hành. Chúng ta có thể rút ra một hệ luận. Nếu ai muốn đến và nhân danh Phúc âm mà nói với chúng ta, chúng ta hãy xem họ có ở trong hàng ngũ tông truyền không, nghĩa là họ có được sự ủy quyền của các người kế vị các Tông đồ, các Giám mục cùng với Đức Thánh Cha ở đàng đầu không. Đây thật là một điều kiện tối cần thiết để bảo đảm rằng qua lời nói và việc làm của họ, họ có được ơn huệ của Đức Kitô không.

 

27. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Nếu các ngôn sứ là những người nói thay cho Thiên Chúa trong thời Cựu Ước, thì các Tông đồ là những ngôn sứ của Chúa Kitô và được Người sai đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật trước đã nói với ta về những đặc nét của ngôn sứ trong Cựu Ước, đồng thời cũng giới thiệu cho ta vị Ngôn Sứ Con Thiên Chúa là Đức Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay là những lời Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ trước khi sai họ lên đường thực tập việc rao giảng.

1. Ông A-mốt, một nông dân được kêu gọi làm ngôn s (bài đọc Cựu Ước – A-mốt 7,12-15)

Câu truyện ngôn sứ A-mốt bị tư tế A-mát-gia sỉ nhục và xua đuổi, cho ta hiểu đâu là điều giúp ta nhận ra một ngôn sứ đích thực. Vốn là một nông dân chỉ biết miệt mài với công việc chăn nuôi và trồng cây, ông A-mốt không hề nghĩ một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ gọi ông làm công việc của một vị ngôn sứ. Đáp lời gọi của Chúa, ông rao giảng ở miền bắc vương quốc Ít-ra-en, dưới thời Gia-róp-am II (783-743 trước công nguyên). Với tính tình chất phác của người nông dân, lời giảng của ông giản dị, dễ hiểu, nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và thẳng thắn. Chính những lời ông cảnh cáo tội ác của mọi giới trong Ít-ra-en đã khiến cho các nhà lãnh đạo khó chịu và không muốn thấy ông hiện diện tại miền đất của họ nữa. Do đó, A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết-Ên, đã quyết tâm xua đuổi ông. Vị tư tế mỉa mai gọi ông A-mốt là “thầy chiêm”, danh từ ám chỉ người phục vụ các thần ngoại chứ không phải Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, ông ta còn coi sứ vụ ngôn sứ của A-mốt là một “nghề” để kiếm ăn! Sau cùng ông ta đem cả cái nhãn hiệu “Bết-Ên, thánh điện của quân vương và đền thờ của vương triều” để dọa nạt A-mốt.

Trả lời cho vị tư tế, ông A-mốt đơn giản cho biết: ông không phải là ngôn sứ, hay nói đúng hơn, ông không muốn được người ta xưng tụng là ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những gì Thiên Chúa truyền dạy ông phải làm, là “đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Chúa”.

Thực thế, ngôn sứ là người đáp lại lời gọi của Chúa để thi hành một tác vụ, chứ đâu phải một nghề nghiệp hay một địa vị xã hội để vênh vang lên mặt. Ơn gọi khác với nghề nghiệp. Linh mục, tu sĩ, ngay cả những người chọn sống bậc gia đình hay độc thân đều là những người sống ơn gọi. Còn bác sĩ, luật sư, kỹ sư... là những người chọn một nghề nghiệp. Ơn gọi là để phục vụ, còn nghề nghiệp thì mục đích chính là để kiếm tiền và nếu hành nghề với lý tưởng phục vụ nữa thì càng hay biết mấy. Nếu vậy thì ngoài các linh mục tu sĩ là những người chọn việc phục vụ, ta là những anh chị em giáo dân cũng vẫn có thể phục vụ mặc dù ta cần phải có nghề nghiệp để sinh sống. Khi ta thi hành nghề nghiệp của ta cho có lương tâm, sử dụng nghề nghiệp để không những kiếm sống, mà còn giúp đỡ mọi người trong khả năng nghề nghiệp của ta tức là ta đang làm công việc phục vụ rồi đó. Ta rao giảng bằng chính công việc của ta, bằng cách giao tiếp với những người liên hệ trong đức ái Kitô, trong đức công bằng và bình an như Giáo Hội dạy. Ta sử dụng những tài năng trong lãnh vực nghề nghiệp để xây dựng cộng đồng, lo lắng cho công ích, chú tâm tới những người cần giúp đỡ về mọi phương diện... Đó là ta đang cùng một lúc vừa thi hành nghề nghiệp, vừa làm việc tông đồ, một phương thức thực tiễn nhất để chu toàn tác vụ ngôn sứ của ta.

2. Tinh thần tông đồ (bài Tin Mừng – Mác-cô 6:7-13)

Trước khi sai các Tông đồ ra đi rao giảng, Chúa Giêsu đã phải huấn luyện và đào tạo các ông. Mặc dù các ông có cơ hội “học việc” với Chúa khi các ông theo Người đi khắp nơi, các ông vẫn cần một thời gian “thử việc” sau khi nghe những lời căn dặn quan trọng của Chúa. Những lời căn dặn của Chúa hôm nay không phải là một bản đề cương chi tiết với những nguyên tắc luật lệ rõ ràng, nhưng là những lời đơn sơ nhắm nói lên tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là điều các ông cần phải có. Nên nhớ đây không phải là một “nghề nghiệp” cần phải có bản “mô tả công việc” như ta thấy nơi các sở làm, nhưng là một “ơn gọi phục vụ” Chúa mời gọi để các Tông đồ đáp lời và ra đi phục vụ.

Trước hết Chúa sai họ đi từng hai người một, để họ không lẻ loi, nhưng nâng đỡ và giúp nhau, nhất là khi gặp những gian nan thử thách. Tiếp đến, Chúa “ban quyền” cho các ông, không phải để dùng quyền đó mà hống hách nạt nộ hay áp bức người khác, nhưng là để sử dụng mà giải thoát người khác khỏi quyền lực của ác thần, bệnh tật thể xác cũng như tinh thần.

Những lời căn dặn của Chúa Giêsu nhắm đến tinh thần tông đồ và cách giao tiếp cũng như ứng phó với hoàn cảnh rao giảng. Nói đến tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là nói đến tinh thần tự do, không vướng mắc vào tiền bạc, của cải, đời sống vật chất hoặc danh vọng ở đời. Người tông đồ “không được mang gì đi đường” và chỉ độc nhất có “cây gậy và đôi dép” làm hành trang! Không mang theo gì cả, ngoài lý tưởng phục vụ, bởi vì lỉnh kỉnh với những hành trang nặng nề sẽ làm tổn thương đến lý tưởng phục vụ. Chỉ có cây gậy là lòng tín thác cậy dựa vào tình yêu cũng như quyền năng của Chúa. Chỉ có đôi dép là sức mạnh của Chúa giúp họ bền bỉ và can đảm rảo khắp nẻo đường Chúa muốn họ đi.

Về cách giao tiếp và ứng phó với hoàn cảnh, người tông đồ phải luôn thẳng thắn, đó là điều cần thiết nhất. “Khi anh em đã vào nhà nào” là cách nói ám chỉ người tông đồ đã được người ta tiếp nhận và lắng nghe. Nếu thế thì người tông đồ cứ tác vụ mình mà thi hành, “ở lại đó” mà rao giảng, mà phục vụ, mà làm khí cụ bình an của Chúa, chứ đừng làm gì đi ngược với tinh thần tự do đích thực, đừng vướng mắc bất cứ gì dù là vật chất hay tình cảm. Người tông đồ thẳng thắn khi được tiếp nhận, nhưng cũng thẳng thắn khi bị xua đuổi. Dù không được đón tiếp niềm nở hay thậm chí bị xua đuổi, người tông đồ không cay đắng nguyền rủa những người xử tệ với họ, nhưng chỉ thẳng thắn “cảnh cáo” những kẻ ấy đã không tiếp nhận Tin Mừng để hy vọng ngày nào đó họ sẽ thay lòng đổi dạ.

Lời dặn dò của Chúa Giêsu chẳng cần văn hoa hoặc đao to búa lớn, nhưng là những điều đơn sơ nhất, cần thiết nhất và thực tế nhất. Tinh thần tự do và tinh thần thẳng thắn đã đủ là hành trang của bất cứ ai muốn đáp lời Chúa ra đi rao giảng hoặc làm chứng cho những giá trị Tin Mừng. Có lẽ ta tự hỏi: vậy người giáo dân chúng tôi làm thế nào để áp dụng tinh thần tự do và thẳng thắn ấy? Thì cũng vậy thôi, nghĩa là cứ sống như một người Công giáo không để cho tiền bạc, danh vọng và quyền lực làm chủ mình. Nghĩa là cứ thẳng thắn và thành thực trong những giao tiếp, đối xử với những người chung quanh, lúc nào cũng cố gắng thực thi lời dạy “hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” của Chúa. Như thế là ta đang làm ngôn sứ của Chúa Kitô, làm chứng nhân cho Tin Mừng của Người rồi. Thánh sử Mác-cô kể rằng các Tông đồ đã thực sự lên đường và cũng đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chắc chắn việc lên đường ấy và gặt hái được những hoa trái tông đồ ấy không phải là điều không thể đối với ta, những Kitô hữu hôm nay.

3. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta làm nghĩa t(bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 1:3-14)

Được Thiên Chúa chọn và gọi làm ngôn sứ là một ân sủng lớn lao. Tuy nhiên được Người chọn làm nghĩa tử còn là một ân sủng lớn lao hơn nữa. Chính vì thế thánh Phao-lô Tông đồ đã cảm nghiệm ân sủng cao sâu đó, nên mở đầu thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, ngài đã dành một đoạn hết sức tuyệt vời để dâng lời chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Phao-lô chúc tụng Chúa, vì trong Đức Kitô, Chúa đã thực hiện cho nhân loại một điều vô cùng lớn lao mà ngài gọi là “kế hoạch yêu thương”. Kế hoạch này được thực hiện đều là nhờ Chúa Kitô. Vậy trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa làm gì cho ta? Thánh Phao-lô kể ra những việc sau đây: a) Thiên Chúa đã chọn ta và muốn ta nên tinh tuyền thánh thiện (Ep 1:4); b) Thiên Chúa đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Kitô (1:5); c) Thiên Chúa cứu độ ta nhờ máu Thánh Tử đổ ra (1:7); d) Thiên Chúa đã chọn các Tông đồ làm gương mẫu đặt hy vọng vào Đức Kitô (1:11); e) Thiên Chúa đã cho ta được diễm phúc đón nghe Tin Mừng (1:13); và f) Thiên Chúa ban Thánh Thần làm bảo chứng phần gia nghiệp của ta (1:13). Tất cả những điều này đều là những điều Thiên Chúa đã “tiền định”, tức là đã có kế hoạch từ trước muôn đời. Nói như vậy tức là mọi thứ phúc họa ta gặp ở đời này chỉ là những may rủi hay trùng hợp, chứ không thể là “Chúa định”! Chúa chỉ tiền định có một điều và Chúa chỉ tiền định điều tốt thôi, đó là sắp đặt “kế hoạch yêu thương” để mong ta đáp lại, cộng tác và sau hết được cùng Người hưởng phúc trường sinh. Mà chính khi tiền định để cứu độ ta, Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do cộng tác của ta, chứ không tiền định một cách độc đoán đến độ “bắt” ta “phải” lên thiên đàng đâu!

Có khi nào trong đời Kitô hữu, ta biết dừng lại một chút để suy nghĩ về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa và dâng lời chúc tụng Người như thánh Phao-lô đã làm không? Hay là cái điệp khúc “ta là con cái Chúa và được Người cứu độ” đã trở thành quá quen thuộc đến độ ta không còn để ý tới ý nghĩa sâu xa của nó nữa, nhất là ta quên rằng đó là một kế hoạch của tình yêu? “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21; xem 17:18). Chúa Cha đã sai Đức Kitô đi thực hiện kế hoạch yêu thương. Giờ đây đến lượt Đức Kitô sai ta đi làm ngôn sứ và chứng nhân cho kế hoạch yêu thương ấy bằng chính đời sống yêu thương của ta.

4) Sống Lời Chúa

Chúa Giêsu kêu gọi các thánh Tông đồ, đào tạo họ trong tinh thần truyền giáo và sai họ đi rao giảng Tin Mừng. Tất cả đều nhắm mục đích thực hiện kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chu toàn sứ mệnh và Người còn kêu gọi ta tiếp tục sứ mệnh của Người nếu ta sống tất cả những ân sủng đã lãnh nhận được từ kế hoạch yêu thương ấy. Ý thức sứ mệnh tông đồ và truyền giáo ta được chia sẻ với Chúa Kitô, ta cố gắng sống cuộc đời Kitô hữu gương mẫu, để không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng bằng việc làm và qua những giao tiếp đầy tình thương bác ái với anh chị em.

Suy nghĩ: Tông đồ nghĩa là người được sai đi. Vậy tôi được Chúa sai đi tới đâu và làm gì với tính cách là tông đồ của Người? Những lời Chúa căn dặn các Tông đồ có ý nghĩa gì đối với tôi?

Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho hđược hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhĐức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 14 mùa Thường niên).

 

28. Sai nhóm Mười Hai đi rao giảng

Mãi đến lúc này Maccô mới kể cho chúng ta biết thoạt đầu Chúa Giêsu gọi vài môn đệ theo Ngài (1,16-20), sau đó Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để họ “ở với Ngài” và chia sẻ sứ vụ của Ngài (3,13-19). Và giờ đây Ngài mới sai họ đi rao giảng (c. 7). Nhóm Mười Hai sẽ xứng đáng với tước hiệu “tông đồ”, nghĩa là “được sai đi” thi hành sứ vụ (6,30) mà sau này họ sẽ lãnh nhận. Trong chương ngắn gọn này, xem ra Maccô đã sử dụng cuốn tiểu cẩm nang của một thừa sai hoàn hảo. Lối hành văn vấp váp không mạch lạc cho thấy rõ Maccô đã sử dụng lại một truyền thống có trước ông.

Khởi đầu Chúa Giêsu sai các môn đệ đi từng nhóm “hai người một” (c. 76). Đây không hiểu có phải là một tập tục Do Thái không? Theo luật Môsê, cần hai nhân chứng mới xác nhận được một lời khai (Đnl 19,15). Tuy nhiên con số hai cũng là biểu tượng của cộng đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc đơn lẻ mà làm việc theo từng nhóm. Các Kitô hữu sơ khai đã lặp lại y hệt lối thực hành này của Chúa Giêsu. Trong công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phêrô và Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phalô và Barnabê (Cv 13,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22b)… Chúa Giêsu cũng ban cho các thừa sai này một phần quyền năng của Ngài, đó là quyền trừ quỷ, như là một trong dấu chỉ xác thực rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã được khánh thành.

Điều đáng nhớ trước hết: các lệnh Chúa Giêsu truyền cho các thừa sai (c. 8-9) lại là các lệnh truyền dành riêng cho khách bộ hành. Tuy nhiên, các huấn luyện ấy đặc biệt nhấn mạnh đến đức tính khó nghèo mà các thừa sai phải chứng tỏ cho mọi người thấy. Ngay cả những gì thiết yếu (như bánh mì, tiền túi) thì cũng sẽ chỉ được nhận lãnh như những quà tặng của những người được họ ghé thăm. Phong thái họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không hề vướng bận (không túi xách đi đường, không áo dài để thay đổi). Ngược với Matthêu và Luca, để bước đi cho dễ, Maccô cho rằng gậy và dép là cần thiết. Vào thời đó, hầu như người ta thường đi chân không. Tuy nhiên để đi nhưng chặng đường dài, xem ra cần phải có gậy và dép. Có lẽ ở đây Maccô muốn trình bày các trợ tá của Chúa Giêsu như những “khách hành hương” luôn luôn sẵn sàng lên đường, như những kẻ được mô tả trong nghi thức lễ vượt qua: “Nịt thắt ngang hông, giầy dép xỏ vào chân, tay cầm sẵn gậy” (Xh 12,11).

Các lời khuyên liên quan đến việc tiếp đãi còn đáng ngạc nhiên hơn (c. 10-11). Là thừa sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ có quyền được những gia đình mà họ ghé tiếp đón họ một cách vô vị lợi. Tuy nhiên Tin Mừng không mang tính áp đặt, mà chỉ có thể được đón nhận trong tự do. Nếu thành phố hay làng mạc nào từ chối không đón nhận thì người ta sẽ đi qua chỗ khác nhưng đồng thời vẫn tôn trọng sự từ chối đó. Ở đây Maccô mô tả lại nghi thức xưa kia thường được dùng ở phương Đông: Phủi bụi khỏi chân mình khi rời bỏ một nơi chốn thù nghịch để tỏ dấu tuyệt giao!

Giống như Chúa Giêsu (c. 12-13), nhóm Mười Hai lên đường loan báo Nước Thiên Chúa đã đến và mời gọi mọi người hoán cải (1,15). Giống như Ngài, họ cũng chứng thực lời nói của họ bằng việc ban phát những dấu chỉ để giúp người ta tin họ. Việc xức dầu trên bệnh nhân chứng thực đây là một thói quen đã có từ xa xưa. Người ta từng biết công dụng hữu ích của việc xức dầu lên thân thể. Giáo Hội về sau đã nhận ra trong tập tục này mầm giống một phép bí tích đó là bí tích Xức dầu bệnh nhân để chữa lành thể xác và tâm linh của họ (x. Gc 5,14).

Đối với chúng ta ngày nay xem ra rất cổ kính xét về mặt hình thức của nó bởi vì rõ ràng nó chịu ảnh hưởng sâu đậm của các phong tục thời xưa. Tuy nhiên tận căn nó vẫn hiện thực. Tin Mừng phải luôn luôn được cơ động mang đến khắp mọi nơi bằng những phương tiện nghèo khó. Được trao ban vô vị lợi, Tin Mừng này mời gọi lương tâm tự do đón nhân. Đây là lời nói đi kèm theo các dấu chứng sự chiến thắng của Chúa Kitô trên sự Dữ và Thần Chết. Đó chính là sứ điệp trường cửu của trình thuật rất cổ kính này.

 

29. Loan báo Tin Mừng.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.

Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc”. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thđem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”.

Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa Giêsu.

Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên đường. Đâu là hành trang của người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời: “Không được mang gì khi đi đường”. Không bánh trái, không bao bì, không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.

Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.

Anh chị em thân mến, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới không phải là chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả những gì phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải, phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.

Thế giới hôm nay cũng là một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.

Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh Linh hơn là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín thác và Cha trên trời và Chuyển cầu cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thết với Chúa.

Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và của Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi người.

home Mục lục Lưu trữ