Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 36

Tổng truy cập: 1370513

MUỐN CÓ ĐỨC TIN VỮNG MẠNH, CẦN PHẢI THỬ THÁCH

Muốn có đức tin mạnh, cần phải thử thách

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.

 

Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân! 

Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?” Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi”.

Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại câu chuyện Đức Giêsu và các môn đệ gặp phải sóng gió trên biển hồ. Ngay trong lúc gặp sóng gió, Đức Giêsu vẫn ngủ yên, còn các môn đệ thì vất vả vì chèo trống. Sứ điệp Tin Mừng chỉ bắt đầu có ý nghĩa lớn khi các ông trách Thầy của mình vô cảm trước sự vất vả của các ông, và, ngược lại, Đức Giêsu quở trách các ông kém lòng tin và ra lệnh dẹp yên bão tố, ban lại sự bình an cho mọi người trên thuyền.

1/ Địa lý của Biển HồGalilê và nỗi hoang mang sợ hãi của các môn đệ

Để thấy được nỗi sợ hãi của các môn đệ và quyền năng của Đức Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đôi nét về Biển Hồ này để thấy được đâu là nguyên nhân dẫn đến trận cuồng phong dữ dội như vậy.

Khi nói đến biển hồ, chắc có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ ngay đến độ rộng lớn, mênh mông, nhìn không thấy bờ… Tuy nhiên, với Biển Hồ Galilê lại hoàn toàn khác! Khác ở chỗ Biển Hồ này chỉ vỏn vẹn 21km chiều dài và 13km chiều rộng. Địa thế nằm ở thung lũng vùng Giodan do một vết nứt sâu trên mặt đất, có thể do núi lửa tạo nên! Biển Hồ Galilê là một phần của vết nứt đó. 

Nó thấp hơn mặt biển 210 mét, vì thế, khí hậu rất ấm áp và dễ chịu, nhưng cũng tạo nên tiền đề cho những nguy hiểm bất ngờ ập đến. Lý do: bên phía tây có núi non cao hiểm trở kết hợp với thung lũng và nhiều khe suối. Vì thế, khi có gió nổi lên, thì khu vực trũng của Biển Hồ này giống như cái phễu lớn thu hút những làn gió từ trên cao và nơi các khe suối thổi về. Gió bị dồn nén trong đó và thổi mạnh xuống hồ cách bất thình lình như vũ bão, khiến mặt hồ đang phẳng lặng, bỗng chốc trở nên hung thần, dữ tợn và có thể vùi lấp mọi thứ trên mặt hồ. 

Khi các môn đệ và Đức Giêsu có một chuyến vận hành trên Biển Hồ Galilê sau một ngày làm việc mệt nhọc để sang bờ bên kia thì cũng là lúc trận cuồng phong ập tới. Các môn đệ của Đức Giêsu là những nhà ngư phủ chuyên nghiệp và hẳn các ông có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với những bất trắc xảy ra trên biển, thế nhưng, trận cuồng phong hôm nay vừa bất thình lình vừa vượt quá khả năng của các ông, nên họ rất hốt hoảng, lo sợ và kêu la ầm ĩ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4,38). Câu nói này chứng tỏ cho thấy sự nguy hiểm đã lên tới tột độ và vượt sức cũng như kinh nghiệm của các ông. Ngay sau đó, sự nguy hiểm của Biển Hồ và nỗi lo sợ của các ông đã động đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, vì thế, Ngài đã truyền lệnh dẹp yên bão tố qua lời nói: “Im đi! Câm đi!” ‘Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’” (Mc 4,39), khiến các ông không khỏi ngỡ ngàng là bảo nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mc 4,41).

2/ Có Chúa, chúng ta sẽ sang “bờ bên kia”cách an toàn

Từ câu chuyện Tin Mừng trên, liên tưởng đến đời sống đức tin của chúng ta: 

Trong cuộc sống đời thường, người ta thường nói: tư cách thật của một con người chỉ  được bộc lộ thật khi gặp gian nan. Lúc bình thường thì ai cũng như ai, khó thấy được tư cách ấy. 

Đức tin của mỗi người cũng thế. Muốn biết ai vững vàng trong đức tin phải đợi tới lúc đức tin đó chịu thử thách. Điều này cho thấy, “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Chỉ khi gặp khó khăn, bất trắc, lúc ấy mới có thể lượng định được phẩm chất của đức tin. 

Khó khăn, trở ngại là một thứ “kiểm tra chất lượng”. Có kiểm tra thì mới thấy cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì thật, cái gì giả.

Một mẫu số chung cho nhiều người, đó là: đức tin phải được rèn luyện, gọt giũa để đứng vững trước mọi thử thách, giông tố của cuộc đời. Khi có được nền tảng này, lúc gặp thử thách, chúng ta sẽ can đảm, trung thành, vững vàng hơn. Sẵn sàng đối phó với chúng và cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Lúc đó, chúng ta sẽ coi những thử thách ập đến là điều kiện cần thiết để thanh lọc những thứ không phù hợp với giá trị Tin Mừng, nó giống như: “Bão tố quật ngã cây cối, bẻ gẫy cành khô, cành sâu. Nhưng không thể nhổ được cây thánh giá đã cắm vào lòng đất. Đừng tiếc những cành kia, dù không gió cũng gẫy, không gẫy cũng phải chặt vì nó làm hại” (ĐHV. số 691), có thế, mới có những cành cây khác trưởng thành hơn khi chúng đủ sức mạnh đâm trồi nảy lộc.  

Từ những nguyên lý trên, chúng ta liên tưởng đến đời sống hôn nhân của người Công Giáo. Lúc mới cưới, ai dám nói là mình không chung thủy! Lúc du ngoạn tuần trăng mật, ai dám bảo mình không vui và hạnh phúc! Chỉ khi nào ốm đau, bệnh tật, thất bại trong công việc, thiếu sự chung thủy, lúc đó mới thực sự có vấn đề! Hay trong đời sống đạo đức cũng thế: lúc xin gì được đấy, hay xin một được mười, đâu cần ai phải nhắc đi lễ, đọc kinh hay chia sẻ bác ái! Chỉ khi xin hoài không được, làm ăn thất bát, lúc đó có đẩy cũng không đi. Hoặc trong đời tu cũng thế: mới khấn, mới chịu chức, sức khỏe dồi dào, chúng ta giống như những vị thánh. Tuy nhiên, lâu ngày, giá trị và ý nghĩa đời dâng hiến bị nhạt phai, sự hiểu lầm, cô đơn, đau bệnh, việc phụng vụ nhàm chán, lúc ấy mới thực sự thấy con người thật của chúng ta. Những trạng thái này, một lần nữa sách Đường Hy Vọng có viết: “Đường con đi, có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, như Cyrillô, Athanasiô… đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen” (ĐHV. số 693).

Nếu không bền chí cũng như đức tin mạnh thì không phải là người tài đức song toàn. Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến. 

Giuđa và Gioan chỉ khác nhau ở lòng mến mà thôi. Trong tâm hồn chúng ta cũng vẫn còn đó hai hình ảnh và hai lối sống lẫn lộn: Gioan và Giuđa. Bao lâu chúng ta còn yêu mến, sẵn sàng hy sinh, kiên trung, bền chí, và hy vọng, ấy là dấu chỉ ta theo Gioan để đi trọn con đường tình yêu dưới chân thập giá. Còn giờ phút nào chúng ta nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, ham danh, ấy là lúc chúng ta đã chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ vị “quan thầy phản bội”.

Cần xác tín rằng: Chúa vẫn còn đó. Ngài không bỏ chúng ta. Ngài sẽ lên tiếng, can thiệp, làm sóng gió im lặng, trả lại cho chúng ta niềm hy vọng, qua đó, ta và Ngài, cả hai cùng “sang bờ bên kia” được trọn vẹn trong bình an. 

Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của cuộc đời chúng con luôn gặp phải những sóng to vũ bão của tội lỗi, hưởng thụ, trụy lạc và những chân lý nửa vời, khiến đôi khi cuộc đời chúng con bị nước ập đầy thuyền làm cho đức tin bị lung lay và tưởng mình đơn côi giữa dòng đời. Xin Chúa ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ và xác tín chắc chắn rằng: Chúa luôn còn đó trên con thuyền cuộc đời của mỗi người, để chúng con vững tin bám chặt lấy Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

40. Những đợt sóng _ Trầm Thiên Thu

 

Có lẽ chẳng ai lạ gì với câu ca dao này: “Người ta đi biển có đôi, còn tôi đi biển mồ côi một mình”. Đó là nói về tình trạng một phụ nữ có chồng nhưng chẳng nhờ chồng được gì, cứ phải mình ên lo toan mọi thứ cho gia đình.

Nói đến sóng là nói đến nước, sông và biển. Sóng có nhiều loại: Sóng lớn (to), sóng nhỏ, sóng cao, sóng thấp, sóng cồn, sóng cả, sóng bạc đầu, sóng thần,… Sóng còn mang nghĩa khác như sóng truyền hình, sóng phát thanh, sóng điện từ,… thậm chí còn gọi là làn sóng người. Chắc hẳn nguy hiểm nhất và đáng sợ nhất là sóng cám dỗ, sóng tội lỗi, sóng mê đắm, sóng thù hận,… Các xu hướng xấu càng ngày càng xuất hiện nhiều, đó cũng là những “con sóng” nguy hiểm cần phải lưu ý!

Về điện tử, sóng còn gọi là bước sóng, có chuyển động với tần số dài hoặc ngắn, và có tác dụng khác nhau. Ví dụ: Sóng phát thanh có tần số ngắn thì có thể phát đi xa, sóng phát thanh có tần số dài thì có thể phát đi gần. Trong vật lý, sóng là sự lan truyền của dao động, sóng có thể mang theo năng lượng, lan truyền trong nhiều môi trường khác nhau, cũng có thể bị đổi hướng (bởi khúc xạ, phản xạ, tán xạ, nhiễu xạ,…), và có thể thay đổi năng lượng (bởi hấp thụ, bức xạ,…), thậm chí là thay đổi cấu trúc (như thay đổi tần số, môi trường phi tuyến tính,…).

Trong ca khúc “Sóng Về Đâu”, cố NS Trịnh Công Sơn đã từng nói với biển: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng vềđâu?”.

Sóng là hình tượng của nỗi gian truân, cực khổ của con người. Không ai muốn gặp đau khổ, nhưng chính đau khổ mới làm cho người ta thành nhân. Vả lại, thử thách càng lớn, cơ hội càng lớn. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Chính gian khổ cho chúng ta biết ai là người đáng là thầy ta hay không.

Thomas Carlyle (1795-1881, triết gia, nhà văn châm biếm, nhà viết luận, sử gia và nhà giáo người Tô Cách Lan) đã nhận định: “Tai ương là bụi kim cương mà Thiên Đường dùng để đánh bóng châu báu” (Adversity is the diamond dust that Heaven polishes its jewels with).

Từ cổ chí kim – và có thể cho đến tận thế, có lẽ không ai phải lao đao chịu khốn khổ như Thánh Gióp, thậm chí còn bị Satan thử thách đủ kiểu (Sách Gióp, chương 1). Nhưng dù thế nào thì ông Gióp vẫn một niềm tín trung. Và rồi ngay giữa cơn bão táp, Đức Chúa đã lên tiếng trả lời ông: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài” (G 38:8-10). Rồi Thiên Chúa nói với ông Gióp: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (G 38:11).

Trong tâm tình tạ ơn vì được Thiên Chúa giải thoát, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi, giữa trùng dương lèo lái con tàu, mắt đã tường việc Chúa làm nên và kỳ công Người thực hiện giữa dòng nước lũ. Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn. Họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc, bị quay cuồng, lảo đảo như say, khéo cùng khôn đã chìm đâu mất” (Tv 107:23-27). Thiên Chúa là Tạo Hóa, là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài có quyền “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 Sm 2:6). Quả thật, đúng như ông Gióp nhận định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đãban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Xác định được như ông Gióp thì không gì phải lo. Nhưng muốn được vậy, vấn đề quan trọng là chúng ta có dám chấp nhận thân phận mình mà vẫn chúc tụng Chúa hay không. Điều này không dễ chút nào!

Có tin tưởng thì mới trung thành, và ai trung thành thì chắc chắn không phải thất vọng. Tác giả Thánh Vịnh nói về những người thành tín với Thiên Chúa: “Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” (Tv 107:28-31).

Thánh Phaolô cho biết: Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15). Tình yêu có sức mạnh hơn cả tử thần, khả dĩ khiến người ta làm được những điều lạ lùng, ngỡ như không bao giờ làm được. Tình yêu biến đổi tất cả. Vì yêu thương mà người mẹ liều lấy thân mình che cho đứa con dù biết mình sẽ bị thương hoặc thiệt mạng. Vì yêu thương mà Thánh Lm Maximilian Maria Kolbe (1894-1941, Dòng Phanxicô) đã dám chết thay cho một tử tù. Đó là tình yêu vị tha (vì người khác) chứ không hề có chút gì vị kỷ (vì mình).

Loại tình yêu cao thượng như vậy được Đức Kitô gọi là “tình yêu vĩ đại nhất” (Ga 15:13). Và chính Ngài đã thể hiện tình yêu này vì yêu thương và để cứu độ các tội nhân chúng ta: Ngài bị đóng đinh vào Thập Giá và chết trên đồi Can-vê. Thật hợp lý khi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải “sống cho Đấng đãchết và sống lại vì mình”.

Và vì thế, Thánh Phaolô xác định: “Từ đây, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:16-17). Người ta luôn thích mọi thứ đổi mới (quần áo, vóc dáng, giày dép, điện thoại, xe cộ,…), nhưng có lẽ người ta chưa thực sự quan tâm việc đổi mới tâm hồn, đặc biệt là tâm linh. Chúng ta đã được Đức Kitô đổi mới, nhưng chúng ta chưa tích cực duy trì sự đổi mới đó nên tâm hồn chúng ta vẫn có cái gì đó “cũ” lắm!

Mỗi khi con sóng duyềnh lên, nó không chỉ “đổi mới” mà còn đem theo phù sa bồi đắp cho vùng đất đó. Tâm hồn chúng ta cũng cần có những đợt sóng mới để đổi mới, để hoàn thiện. Các đợt sóng đó vẫn hằng ngày như thủy triều: Sóng tình yêu, sóng ân sủng, sóng thứ tha, sóng thương xót,… Ước gì “vùng đất” chúng ta để cho Sóng Tình Chúa biến đổi bất cứ lúc nào!

Trình thuật Tin Mừng hôm nay là đoạn Mc 4:35-40, nói về việc Đức Giêsu dẹp yên sóng gió (tương đương Mt 8:23-27 và Lc 8:22-25).

Hôm ấy, khi chiều đến, sau khi giảng dạy cho dân chúng về một loạt các dụ ngôn (người gieo giống, ngọn đèn, cái đấu, hạt giống tự mọc, hạt cải), Đức Giêsu bảo các môn đệ cho thuyền sang bờ bên kia. Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Ngài đi, có những thuyền khác cũng chèo đi theo Ngài. Bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ thấy Thầy “vô tư” thế không biết, nên họ vội đánh thức Ngài, gọi giật dậy và hốt hoảng la toáng lên: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.

Có lẽ chúng ta cũng như các môn đệ xưa, chứ chẳng “ngon lành” gì hơn ai, ở ngay bên Thầy Giêsu mà vẫn chưa thấy an tâm khi gặp giông tố cuộc đời. Gọi như điện giật thế thì ai mà chợp mắt nổi. Ngài thức dậy, rồi ngăm đe gió, và truyền cho biển phải “im ngay và câm ngay”. Thế là gió liền tắt, và biển lặng như tờ.

Đâu vào đấy rồi, Ngài nghiêm mặt và nghiêm trách các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Họ chỉ có nước ngậm tăm chứ nói chi được. Đúng quá mà! Cãi gì nổi? Các ông hoảng sợ – vừa sợ vì thấy phép lạ vừa sợ vì Thầy mắng thẳng, rồi họ xì xầm với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Theo Thầy vì tin Thầy hay thích điều gì ở Thầy mà giờ này còn hỏi nhau “người này là ai” vậy chứ?

Vâng, thật buồn! Buồn cho họ và buồn cho chính chúng ta, vì chúng ta cũng vẫn “thắc mắc” như vậy, dù chúng ta không nói ra thôi. Chúa Giêsu cũng buồn, Ngài không buồn vì Ngài chưa được chúng ta tin thật, mà Ngài buồn cho đức tin của chúng ta còn non nớt, còn ấu trĩ, chỉ chạy theo “sự lạ” chứ chưa “bén rễ sâu” vào đất-ân-sủng và chưa lưu thông “nhựa” của Cây Nho.

Kinh Thánh đã cho chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa là “Đấng gìn giữ chúng ta, không để chúng ta lỡ chân trật bước”, chắc chắn “Ngài không ngủ quên” và cũng “không chợp mắt ngủ quên” bao giờ (Tv 121:3-4). Thiên Chúa không hề vô tâm vô tính như chúng ta tưởng, đừng suy bụng ta ra bụng người! Miệng thì nói tin, nhưng khi gặp sóng đời duyềnh lên là chúng ta hốt hoảng ngay, mà sóng đời đâu đã to gì cho cam, chỉ mới “lăn tăn” thôi! Chúng ta có đáng trách không nhỉ?

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững tay chèo, chống, bát, cậy,… dù sóng đời nhỏ hay to. Chúng con không dám xin Ngài đưa thuyền của chúng con ra khỏi vùng biển động hoặc nước xoáy, nhưng xin Ngài làm Hoa Tiêu hướng dẫn chúng con chèo lái để có thể vượt qua mọi con sóng dữ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

41. Người dựa vào chiếc gối mà ngủ _ Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” 

Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.

Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn). Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?… Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).

Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên, ‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga 14:27)

Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối ‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới muôn đời!

Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi nghịch cảnh. A-men.

 

 

 

 

 

42. Suy niệm của Lm. Antôn

 

Ông bà anh chị em thân mến. Có một câu chuyện về đôi vợ chồng có 6 người con. Như mọi cha mẹ, đôi vợ chồng này cảm thấy cần có một ngày sống riêng với nhau, cho nên họ dặn dò và chuẩn bị con cái chu đáo cẩn thận ở nhà. Sau đó họ lái xe tới một cái hồ, vui hưởng thời giờ và tâm sự với nhau trên một du thuyền nhỏ.

Gió thổi nhè nhẹ và không bao lâu từ từ đưa chiếc du thuyền xa bờ ra giữa hồ. Đang lúc hưởng những giây phút thoải mái, thình lình bầu trời đổi thành sám vì những đám mây đen kéo đến. Gió nhè nhẹ bây giờ trở thành những cơn gió bão, tạo nên những làn sóng lớn và dữ dội đập vào thành thuyền làm cho chiếc du thuyền chao đảo.

Chỉ sau mấy giây phút sau đó, chiếc du thuyền bị đắm và biến mất dưới những ngọn sóng lớn chập chờn. Đôi vợ chồng lấy hết sức bám chặt vào hai chiếc phao cứu cấp nhỏ. Sau 4 tiếng đồng hồ chiến đấu với những cơn sóng lớn dữ dằn và chịu đựng khí hậu lạnh buốt, họ cảm thấy quá mệt mỏi, hết sức, đuối hơi, và nghĩ rằng giây phút cuối cuộc đời của họ gần đến.   Lấy hết tất cả sức cuối cùng còn lại, họ cùng nhau cầu nguyện và sau đó buông tay nhau ra để mặc cho những ngọn sóng đưa đẩy.

Năm tiếng sau đó, người chồng thoi thóp, nửa tỉnh nửa mê, trôi nổi trên mặt hồ. Anh lấy hết sức gọi tên người vợ, nhưng không có tiếng trả lời, và anh cảm thấy mất hết hy vọng. Anh nghĩ tới sự đau đớn lúc phải nói với các con mẹ của chúng đã chết chìm, và có cảm giác kinh hoàng không biết mình có thể sống sót không.

Trong lúc nguy khốn đó, anh nghĩ tới một câu trong Thánh vịnh 50 “Hãy kêu cầu Ta trong ngày cùng khốn, Ta sẽ giải thoát, và ngươi sẽ làm hiển danh Ta.” (Tv. 50,15) Anh bắt đầu kêu cầu Chúa với tất cả lòng tin và cậy trông vào chủ quyền của Chúa. Sau đó một sự kiện xảy ra, trong lúc giọng nói của anh từ từ yếu đi và nhỏ dần, một chiếc thuyền cấp cứu đã nhìn thấy anh và tăng tốc chạy đến. Trong khi anh được dìu kéo lên thuyền từ dòng nước giá lạnh, anh hỏi những người cấp cứu có tin tức gì về vợ anh không. Họ trả lời không. Họ không có tin tức và không nghe thấy gì về vợ anh.

Thình lình, một sự lạ thường xảy ra, họ nhìn thấy hình dáng của vợ anh ở khoảng cách xa xa đang trôi nổi trên mặt hồ. Khi đến nơi, họ thấy người vợ đang run cầm cập vì giá lạnh nhưng còn sống. Sau đó là giây phút trùng phùng trong nước mắt, và họ cùng chung trong lời cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa.

Khi về nhà, vợ chồng và những người con tụ họp lại, tiếp tục cầu nguyện dâng lời cảm tạ tri ân Chúa. Họ cảm tạ Chúa, không những đã cứu thoát họ khỏi chết, mà còn lôi kéo vợ chồng và gia đình đến gần Chúa, và với nhau một cách khắng khít hơn, kết quả sau một cơn nguy khốn trong cuộc đời.

Ông bà anh chị em thân mến. Câu truyện đôi vợ chồng trên đây có một sự tương đồng với câu truyện trong bài Tin mừng hôm nay. Trong hai câu truyện đều có những người có cảm giác kinh hoàng sợ hãi cho tính mạng trong một cơn bão tố trên biển hồ. Cả hai câu truyện đều có những người trong lúc đối diện với sự kinh hoàng và cơn khốn khó đều kêu cầu Chúa giúp đỡ, và được Chúa nghe lời và cứu chữa. Đức tin của họ được củng cố, trở nên vững mạnh hơn, kết quả của một kinh nghiệm khốn khó, sóng gió trong cuộc đời.

Hai câu truyện trên cũng gởi đến cho chúng ta một sứ điệp quan trọng, và sứ điệp này có 2 khía cạnh mà chúng ta thường quên và cần được nhắc lại. Thứ nhất, hai câu truyện trên đây là sứ điệp nhắc nhở chúng ta trong cuộc sống sẽ có những cơn khốn khó, sóng gió xảy ra, nhưng lôi kéo chúng ta đến gần với Chúa và với nhau hơn. Tôi xin nhấn mạnh có những trường hợp xảy ra lôi kéo chúng ta đến với Chúa và với nhau hơn, vì không phải trường hợp nào cũng có kết quả như vậy, sự thật, có những trường hợp ngược lại. Một sự khó khăn hay cơn sóng gió xảy ra trong cuộc sống có thể tách rời và đưa chúng ta xa Chúa, mất đức tin và xa nhau hơn, làm cho cha mẹ, vợ chồng, con cái bất hòa, đưa tới cảnh ly dị, con cái lâm cảnh khốn khổ, xa lìa anh chị em, thân nhân bạn bè, thậm chí xa cả cộng đoàn giáo xứ nữa.  

Và tới đây chúng ta nhận thấy, cả hai câu truyện trên đây cho chúng ta bài học quan trọng và giúp chúng ta phân biệt được một sự khác biệt to lớn. Sự khác biệt mà một sự khó khăn, một cơn sóng gió trong đời lôi kéo chúng ta đến gần Chúa và gần nhau hơn, hay tạo nên một khoảng cách, cách biệt chúng ta xa Chúa và xa nhau hơn là cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải ý thức rằng không phải bất cứ sự cầu nguyện nào, nhưng là cách cầu nguyện mà Chúa Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện. Cách cầu nguyện Chúa dạy là chúng ta đặt trọn niềm tin nơi Chúa và trong thánh ý của Chúa cho chúng ta. Đó là cách cầu nguyện mà chính Chúa Giê-su đã làm gương cho các môn đệ và cho chúng ta khi Chúa cầu nguyện trong vườn Giệt-si-ma-ni, Chúa thưa với Chúa Cha “Lạy Cha… Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha.” (Lc 22,42)

Chúng ta phải biết rằng một sự cầu nguyện mà không có ý nguyệnn hay một niềm tin nhận biết Thiên Chúa biết những gì tốt đẹp cho chúng ta, thì thật sự không phải là lời cầu nguyện. Một cách cầu nguyện không phải là một sự cầu nguyện chính đáng nếu chúng ta có thái độ coi Chúa như là một người tôi tớ, bắt Chúa phải vâng theo ý muốn của chúng ta, phải nghe lời chúng ta phán bảo, hay làm những điều chúng ta mong muốn ngay. Đây là biểu hiệu lòng ích kỷ và không có lòng tin thật. Chúng ta phải có thái độ và lòng tin Chúa là người Cha nhân từ và yêu thương chúng ta như một người mẹ hiền, hay một người cha nhân từ, như chúng ta mừng ngày Hiền phụ hôm nay. Chúng ta phải tin Chúa biết điều gì tốt đẹp nhất cho chúng ta.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận biết trong cuộc sống sẽ có những khó khăn, thử thách, sẽ có những cơn bão hay giống tố xảy đến. Những sự kiện này có thể lôi kéo đưa chúng ta đến gần Chúa hơn, hay ngược lại làm chúng ta xa cách Chúa, và sự khác biệt là cầu nguyện, nhưng là sự cầu nguyện mà Chúa dạy chúng ta cầu nguyện như Chúa phán: “Lạy Cha… Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha.” Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn đặt trọn niềm tin, cậy trông và phó thác vào Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chứ không phải chỉ lúc gặp khó khăn hay sóng gió mà thôi.

 

 

 

 

 

43. Sóng yên biển lặng _ Lm. Jos. DĐH

 

Né tránh đau khổ, mong muốn bình an trên bước đường mình đi là điều dễ hiểu, vì tâm lý tự nhiên ai cũng sợ đau khổ, sợ phải đối diện với “chướng ngại vật”. Thực ra biển, mấy khi mà không có sóng gió, đường đời không thể lúc nào cũng bằng phẳng, và nếu gặp khó khăn, trở ngại, cũng là dịp để chúng ta rèn luyện đôi chân của mình nên vững chắc hơn. Kinh nghiệm cho biết cây cao bóng cảthuyền to sóng lớn, không ai thay đổi được “qui trình” ấy, bậc cha mẹ phải có trách nhiệm bao bọc che chở con cái; người lắm tài nhiều đức phải là người đã từng trải qua khổ đau tập luyện, rồi mới có thể đem tài năng để phục vụ anh chị em nhiều mình.

Vì xét thấy ý chí, bản lãnh, rất cần để con người đối phó với biết bao phức tạp nơi cuộc sống này, cha ông chúng ta đã truyền lại cho hậu thế một “quyết tâm căn bản” khi vượt biển trần: chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo. Vì muốn nói với con người qua các thời đại, sóng gió ở biển cả bao giờ cũng dữ dội, nguy hiểm, dù các các bạn là dân chài lưới đầy kinh nghiệm. Bằng mưu trí, khả năng của con người không thể chống trọi được với giông bão bủa vây, hãy nhờ tình yêu thương của anh chị em đang ở bên cạnh mình trợ giúp.

Hành trình vượt biển hồ của thầy trò Giêsu cũng như biết bao người, biển hồ có “cuồng phong” là chuyện bình thường, khác ở chỗ là có phải Đức Giêsu mê mệt đến độ sóng gió, nước tràn vào thuyền mà Thầy vẫn ngủ. Hơi lạ ở chỗ, những con người từng làm nghề “thuyền chài”, đối diện với phong ba bão táp, các ông vẫn cuống cuồng bất lực. Bất thường là các ông có Vị Thầy tài giỏi ở trên con thuyền, nhưng sao các ông lại thiếu bình tĩnh tới mức phải hoảng hốt la lên: “lạy Thầy, chúng con sắp chết rồi mà Thầy không quan tâm sao”? Và đặc biệt, tại sao Thầy Giêsu ra lệnh: “hãy im đi, hay lặng đi”, ngay lúc ấy sóng yên và biển lặng, khiến các ông không khỏi ngạc nhiên nói rằng: “Người là ai mà cả sóng gió cũng vâng lệnh Người”?

Hành trình vượt biển trần gian của mỗi chúng ta hôm nay cũng đầy sóng gió, sợ hãi, khó khăn, phải vất vả chèo chống thì vẫn còn đó, Thầy Giêsu luôn ở trên con thuyền của Giáo Hội, chúng ta có tin, có cậy nhờ Thầy ra tay trợ giúp không ? Đức Giêsu sẽ chẳng trách mắng chúng ta đứng “nản lòng nhụt chí” trên hành trình trần gian, nhưng Ngài sẽ hỏi “sao các con sợ hãi thế? “Các con chưa có đức tin ư”? nếu khi gặp giông bão chúng ta cứ tự xoay sở một mình.

Biển hồ nào mà không có sóng gió, ơn gọi làm con Chúa, làm môn đệ của Thầy Giêsu, không thể chỉ hoàn toàn là êm xuôi, phẳng lặng. Trong cuộc sống tự nhiên, chẳng ai thành đạt mà không từng nếm mùi đau khổ, Cụ Phan Bội Châu cũng đã chia sẻ ý tưởng đó: nếu cuộc đời bằng phẳng, anh hùng hào kiệt nào có hơn ai. Xét theo mức độ siêu nhiên, có đau khổ, giông tố xuất hiện trong đời, là dịp để ta nhận ra mình là ai: “siêu nhân hay phàm nhân”? Có tin Thiên Chúa, tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, hay ta vẫn tin vào mình?

Giông tố luôn là nỗi lo sợ của người đi biển, đau khổ, thua lỗ bao giờ cũng cản trở bước đường của người tìm kiếm bình an, niềm vui. Qui luật hay lề luật, tự nhiên hay siêu nhiên, cũng là điều kiện nhằm đưa dẫn con người tới bến bờ tự do hạnh phúc. Giống tố có thể làm chìm thuyền, nếu các tông đồ khi ấy chỉ cậy dựa vào sức mình hay hiểu biết của các ông. Giông tố cũng là điều kiện để các tông đồ và chúng ta hôm nay, hãy tự tin, cậy trông vào quyền năng của Thầy Giêsu đang đồng hành với chúng ta trên con thuyền vượt biền trần này. Cây lớn lên sinh trái quả, nhờ nắng mưa và người chăm sóc; biển có yên, sóng có lặng là nhờ mỗi chúng ta tin tưởng và kêu cầu Đức Giêsu trợ giúp để con thuyền mình cặp bến an toàn.

Thuyền ơi có nhớ bến chăng, bến thì một dạ khăng khăng đời thuyền. Trong câu ca dao ấy, người ta mượn hình ảnh thuyền và bến để nói tới tình yêu đôi lứa thật đẹp, khi họ biết chung thủy đợi chờ cùng vượt sông nước tới bờ hạnh phúc. Trong hành trình vượt biển hồ hôm nay, sóng gió, sợ hãi là dịp nhắc nhớ các tông đồ và chúng ta hãy kêu cầu Thầy Giêsu trợ giúp để con thuyền tới bến bờ bình an. Trong tâm hồn người môn đệ theo Đức Giêsu, luôn có Đức Giêsu đồng hành, chúng ta không cần phải trang bị thứ vũ khí phòng thân nào, ngoài tình yêu thương và trái tim biết quảng đại với anh chị em mình.

Cuộc sống trần gian, tự nhiên đã có đầy khổ đau bất trắc, vì chuyện ăn uống, vì tương quan giữa tình người bị phân rẽ hiểu lầm! Bước theo Chúa Kitô, vâng lệnh Ngài nhổ neo đẩy thuyền ra khơi vượt biển, tất nhiên có sóng gió, biển động là không tránh khỏi. Chúa không muốn chúng ta co cụm, chấp nhận số phận hên xui, Ngài lưu ý hãy an tâm, vì con thuyền vượt biền trần gian nếu không có sóng gió thì cũng chẳng cần đến Chúa hiện diện. Nếu mỗi người tin Chúa, kêu cầu Chúa là Vị thuyền trưởng dẫn đưa thuyền chúng ta vượt biển trần, con thuyền sẽ đến bến bờ an bình hạnh phúc. Chúa không hứa sẽ dùng quyền phép để làm cho sóng yên biển lặng, không dẹp hết những hận thù ghen ghét, những đau khổ bệnh tật, nhưng trên hành trình đức tin, Ngài vẫn mời gọi : “chúng ta hãy sang bên kia biển hồ”. Xin Chúa chúc lành, để mỗi người chúng ta không bao giờ nghi ngờ và xa cách tình Chúa yêu thương trên hành trình vượt biển của chúng ta hôm nay. Amen.

 

 

 

 

 

44. Ai có thể trở nên một người như thế?

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

 

Chiếc tàu Titanic được chào hàng như một chiếc tàu không bao giờ chìm. Và sau đó là đụng một tảng băng ngay trong cuộc hành trình đầu tiên của nó, chiếc Titanic đã chìm xuống đáy của Đại Tây Dương với hầu hết những người đi trên con thuyền đó trong vài phút. Đại dương quyền năng hơn bất cứ một con tàu nào, đã nuốt trọn con tàu Titanic giống như nó đã nuốt một hộp cá mòi vậy. 

Đó là một mầu nhiệm sâu xa về biển cả, và đó không có gì là ngạc nhiên về quyền năng của nước được xem là một thuộc tính của thần linh. Trong sách Gióp chính Thiên Chúa đã làm chứng về quyền năng thần linh của Ngài, bằng việc biểu dương quyền năng của Ngài là chủ tể của nước sâu. Những tông đồ là những người đánh cá, hơn ai hết họ không cần ai nói cho họ biết về việc phải sợ hãi cái vẻ bề ngoài đáng sợ của biển Galilê. Thình lình, tai họa có thể xảy ra một cách bất thường. Biển thì ở 685 bộ bên dưới mực nước biển và bao quanh bởi những ngọn núi. Với một làn không khí lạnh thổi xuống từ những ngọn núi hầu như nhanh chóng biến đổi làn nước đại dương thành những con sóng nguy hiểm cao đến bảy hoặc tám bộ. 

Thật chính xác những gì đã xảy ra vào buổi chiều hôm đó, khi Chúa Giêsu vào thuyền của các môn đệ ở trên biển Galilê. Đó giống như một ngày của sáng tạo, những yếu tố tự nhiên đang chờ đợi khoảnh khắc khi mà Chúa là chủ tể của chúng xác quyết quyền năng và tỏ hiện sự thần linh của Ngài. Sau khi Chúa Giêsu làm cho biển bình yên bởi những lời của Ngài, các tông đồ đã kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Người này là ai mà làm cho gió biển phải vâng lời?” 

Gió và biển đã biết Chúa Giêsu là ai và cả chúng ta cũng như thế. Chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi của các tông đồ. Nếu chúng ta không có đức tin, chúng ta xem Người một cách giới hạn bởi xét đoán của con người nhưng bởi đức tin mà chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Độ. Vì Chúa là Đấng cứu độ của chúng ta, Ngài ước ao giải thoát chúng ta khỏi những tai họa của đời sống trên biển. Sự sợ hãi những căn bệnh như ung thư hoặc Siđa, lo lắng về tận cùng của tương lai một cách bất an, những lo lắng về con cái trong một xã hội say sưa và hỗn tạp, sự không vững chắc hay gãy đổ của đời sống hôn nhân, sự khủng hoảng hay sự cô độc, bị bỏ rơi, sự khủng khiếp mà viễn cảnh của sự chết có thể phát sinh. 

Trong lời tuyên xưng Thánh Thể chúng ta đã kêu lên: “Bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta”. Sau kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ và ban cho chúng con bình an trong ngày hôm nay, bởi lòng thương xót Chúa sẽ giữ gìn chúng con khỏi tội lỗi và bảo vệ chúng con khỏi mọi lo âu”. Lời nguyện này muốn nói lên lời diễn tả đức tin của chúng ta nhưng cấp độ bình an và quang đãng của chúng ta không tùy thuộc và sự diễn tả đức tin của chúng ta nhưng ở chiều sâu của nó. Đức tin của chúng ta phải sâu như biển cả vậy. 

Khi chiếc Titanic chìm xuống, số người bị lâm nạn đã tăng lên gấp bội bởi vì thuyền đã không trang bị đủ những thuyền cứu sinh. Chúng ta còn được hơn thuyền cứu sinh cứu nữa. Chính Chúa Giêsu đã cứu chúng ta khi chúng ta bị chìm trong biển cám dỗ sâu nhất của cuộc đời. Chúng ta có con người của Chúa Giêsu Kitô, luôn luôn hiện diện với chúng ta trong Giáo Hội và hướng về Người, chúng ta có thể cầu nguyện một cách tin tưởng. Trong cơn bão trên biển hồ, các tông đồ đã phàn nàn: “Lạy Thầy chúng con sắp chết mà Thầy không quan tâm đến sao?” Với đức tin chúng ta biết rằng, không có vấn đề gì với Chúa Giêsu. Vấn đề là sự cứu độ của chúng ta không đến từ những lời nói, tuy nhiên ở nơi. Lời quyền năng của Ngài: “Hãy yên lặng, hãy im đi”. Sự cứu độ của chúng ta đến từ hy tế nơi thánh giá. Đức tin của chúng ta là: “Lạy Chúa bởi thánh giá của Người, và sự Phục Sinh của Người xin giải thoát chúng con, Người là Đấng cứu độ chúng con”. 

 

 

 

 

 

45. Nỗi kinh hoàng của con người và sự yên tĩnh của Thiên Chúa – Achille Degeest.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

 

Giai thoại bão táp yên lặng là một cơ hội tốt cho những ai ngã theo khuynh hướng “giải huyền thoại” trong phúc âm (khuynh hướng này ngày nay đã giảm). Để giản lược biến cố vào một sự kiện tự nhiên, họ chỉ cần tưởng tượng và rồi sau khi đã chiều theo sức ép của trí tưởng tượng, quả quyết rằng bão táp tự nó ngưng lại, vừa lúc Đức Giêsu ra lệnh cho biển; và như thế là do tình cờ. Có một loại não trạng tự gọi là khoa học, chủ trương ngay từ đầu chối bỏ mọi can thiệp của Thiên Chúa trong vũ trụ và giải thích một số sự kiện bằng một định kiến như thế thật dễ dàng. Trong trường hợp này chúng ta có thể bám vào lời này: Ở khởi điểm của truyền thống Phúc Âm, có thật là biến cố, nhưng liền được giải thích trong môi trường của Giáo Hội sơ khai, dựa trên một não trạng Kinh Thánh và một niềm tin vào sự Sống Lại” (X.L. Dufour, Etudes d’Evangile, Paris, 1965). 

Ưu tư của Giáo Hội sơ khai là minh chứng: Đức Giêsu có cùng một quyền năng trên tạo vật như Thiên Chúa (não trạng Kinh Thánh) và dẫn đưa người tín hữu đến một niềm tin nơi Đức Giêsu Phục Sinh, một niềm tin trọn vẹn, truyền giáo (Hãy sang bên kia bờ) và có khả năng đương đầu với mọi nghịch cảnh. 

Giải quyết xong điều trên, câu chuyện bão táp yên lặng gợi cho chúng ta một vài suy nghĩ rất đơn sơ: 

1) ‘Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?’ 

Lời trách móc này cho thấy rõ sự mâu thuẫn giữa nỗi kinh hoàng của các môn đệ và sự yên tĩnh của vị Thầy. Một bên sóng gió nguy hiểm, một bên Đức Giêsu vẫn ngủ. Biển hồ Giê-nê-sa-rét, như các biển hồ được núi đồi bao phủ khác, thường có những cơn bão táp đột ngột và dễ sợ. Con thuyền bị sa vào một trong các cơn bão táp như thế. Chúng ta hiểu Đức Giêsu sau một ngày trọn rao giảng mệt nhọc, đã ngủ thiếp đi. Các môn đệ không hiểu được sóng gió mạnh mẽ như thế, lại tràn ngập vào thuyền mà không làm cho Ngài tỉnh dậy. Họ không mường tượng được rằng: chỉ duy có sự hiện diện của Đức Giêsu với họ, đã là một sự bảo đảm an toàn vững chắc. 

Họ có lỗi vì đánh thức Thầy dậy không? Chắc là không. Đó chỉ là phản ứng bình thường của con người hoảng hốt, sự yếu hèn của họ (nhưng họ chưa có niềm tin sau Phục Sinh) ở chỗ họ không đặt sự a

toàn của mình nơi con người Đức Giêsu. Chúng ta cũng gặp phải những giây phút thử thách nghiêm trọng. Chúng ta không có lỗi khi kêu đến Thiên Chúa, khi đánh thức Người dậy. Chúng ta không thể chế ngự một số âu lo tự nhiên. Ít là chúng ta nên nhớ Đức Giêsu đang ở với chúng ta để giữ vững niềm tin của chúng ta. 

2) Hình ảnh con thuyền gợi lên con thuyền Giáo Hội, theo như ngôn từ của các thánh phụ. 

Trong thời đại của chúng ta, cũng như trong mọi thời đại, Giáo Hội tựa con thuyền bị lay động và cản trở mạnh mẽ do các lầm lạc, bách hại, thao túng của thế gian. Một vài lầm lỗi hình như xâm chiếm cả Giáo Hội. Những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. Điều này có lẽ tạo nên nỗi lo âu lớn nhất cho nhiều người ưu tú trong nhóm môn đệ Đức Kitô. Hãy nhớ rằng chỉ một lời của Chúa vào lúc ngài muốn, có khả năng cứu thoát tất cả. Ngài nói: “Im đi…”, tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Điều quan trọng là hãy giữ niềm tin cho sống động và mạnh mẽ. ‘Các con không có đức tin ư?’.

 

home Mục lục Lưu trữ